Tải bản đầy đủ (.pdf) (246 trang)

Quyền hủy bản án sơ thẩm của hội đồng xét xử phúc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.61 MB, 246 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN MINH HỒNG

QUYỀN HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM
CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN MINH HỒNG

QUYỀN HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM
CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tác giả, khơng
hề sao chép từ luận văn của các tác giả khác. Tác giả chịu trách nhiệm danh dự về
cơng trình nghiên cứu của mình.

Người viết

NGUYỄN MINH HỒNG


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BAST
BAPT

Bản án sơ thẩm
Bản án phúc thẩm

BLDS
BLTTDS
BPKCTT
GĐT

Bộ luật Dân sự
Bộ luật Tố tụng dân sự
Biện pháp khẩn cấp tạm thời
Giám đốc thẩm

HĐTPTANDTC
HĐXXPT
LDS


Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Hội đồng xét xử phúc thẩm
Luật Dân sự

LHN&GĐ
PLTTGQCVADS
PLTTGQCVAKT
PLTTGQCTCLĐ

Luật Hơn nhân và gia đình
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

QSDĐ
TAND

Quyền sử dụng đất
Tòa án nhân dân

Tp.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TTDS
UBND
XHCN

Tố tụng dân sự

Ủy ban nhân dân
xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN HỦY BẢN ÁN SƠ
THẨM CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ .......................................................................................................................... 7
1.1. Cơ sở lý luận qui định quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc
thẩm trong tố tụng dân sự....................................................................................... 7
1.2. Hậu quả pháp lý khi Hội đồng xét xử phúc thẩm thực hiện quyền hủy bản án
sơ thẩm ................................................................................................................. 10
1.3. Quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2005.............................................. 11
1.4. Quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong pháp luật tố
tụng dân sự một số nước ...................................................................................... 15
CHƯƠNG 2. QUYỀN HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
PHÚC THẨM TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH .................................................................................................................. 22
2.1. Quyền hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết lại vụ án ...................................................................................... 22
2.2. Quyền hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp
sơ thẩm giải quyết lại vụ án ................................................................................. 31
2.3. Quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án ............................. 32
CHƯƠNG 3. QUYỀN HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
PHÚC THẨM TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT ......................................................................................... 45
3.1. Quyền hủy bản án sơ thẩm của hội đồng xét xử phúc thẩm trong thực tiễn xét
xử .......................................................................................................................... 45

3.2. Những vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền
hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm ........................................... 46
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 78


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xét xử vụ án dân sự là hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Yêu cầu xét xử vụ án dân sự là
phải bảo đảm tính chính xác, đúng pháp luật. Trong thực tế, xét xử vụ án dân sự khơng
phải bao giờ cũng chính xác, đúng pháp luật, bảo vệ được các quyền và lợi ích của
đương sự bị xâm phạm ngay từ lần xét xử đầu tiên. Vì vậy, pháp luật qui định vụ án
phải qua hai cấp xét xử. Trong tố tụng dân sự Việt Nam, pháp luật cũng qui định
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong việc giải quyết vụ án dân sự. Nguyên
tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp
luật, nhằm đạt tới mục đích cao nhất là giải quyết đúng đắn các vụ án, bảo vệ được
các quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và bảo đảm cho pháp luật được thi hành
nghiêm minh. Việc quy định hai cấp xét xử trong vụ án dân sự còn là cơ chế bảo vệ
quyền con người trong tố tụng dân sự.
Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, vụ án dân sự được xét xử lần đầu ở Tòa
án cấp thấp (cấp xét xử sơ thẩm) và được tiếp tục được xét xử lần thứ hai ở Tòa án
cấp cao hơn (cấp xét xử phúc thẩm) nếu có kháng cáo, kháng nghị. Tại cấp sơ thẩm,
các bên đương sự được quyền dùng mọi phương cách phù hợp với qui định của pháp
luật để chứng minh, tranh luận nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy
nhiên, Hội đồng xét xử sơ thẩm khơng thể chấp nhận tất cả các yêu cầu của các bên
đương sự, nhất là của những bên đương sự có quyền và lợi ích đối lập nhau. Khi thấy
quyền và lợi ích hợp pháp của mình chưa được bản án sơ thẩm bảo vệ các đương sự
có quyền kháng cáo hoặc Viện kiểm sát, trong phạm vi kiểm sát hoạt động tư pháp,

có quyền kháng nghị để vụ án dân sự được tiếp tục xét xử ở cấp cao hơn.
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam qui định khi xét xử phúc thẩm Hội đồng
xét xử phúc thẩm có quyền: Giữ nguyên bản án sơ thẩm, sửa bản án sơ thẩm, hủy bản
án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết lại vụ án, hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án1. Trong
trường hợp hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải
quyết lại vụ án thì vụ án dân sự lại được tiếp tục xét xử sơ thẩm lần thứ hai, sau đó
có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử phúc thẩm. Và kết quả xét xử phúc thẩm
1

Theo Điều 275 Bộ luật Tố tụng dân sự.


2

lần thứ hai cũng có thể tiếp tục hủy án sơ thẩm và chuyển về Tòa án cấp sơ thẩm để
thụ lý, giải quyết lại vụ án. Như vậy vấn đề hủy án sơ thẩm để giải quyết lại hầu như
khơng có điểm dừng. Trong thực tế, có những bản án sơ thẩm (và có thể cả bản án
phúc thẩm) bị hủy để giải quyết lại rất nhiều lần, kéo dài nhiều năm gây hao tổn thời
gian, công sức giải quyết của các cơ quan chức năng, thiệt hại đến quyền, lợi ích của
đương sự, gây bức xúc trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân vào pháp luật
và cơ quan xét xử.
Thực hiện quyền hạn của mình Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền quyết
định hủy bản án sơ thẩm. Tuy nhiên hiện nay, những căn cứ để Hội đồng xét xử phúc
thẩm quyết định hủy bản án sơ thẩm còn chưa chặt chẽ, dẫn đến việc có thể bị lạm
dụng để hủy bản án sơ thẩm một cách tùy tiện. Trong thực tế áp dụng, cũng đã xảy ra
khơng ít những trường hợp bản án sơ thẩm bị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy
khơng chính xác, nên cấp giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản
án sơ thẩm đã bị hủy. Do đó, việc nghiên cứu quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc
thẩm trong việc hủy bản án sơ thẩm dân sự là một vấn đề cần thiết. Vấn đề này cũng

được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo khắc phục. Quốc hội đã yêu cầu “Tòa án
nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa;
bảo đảm việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật, nhất là đối
với các vụ án dân sự, hành chính” và “...giảm ít nhất 1% tỷ lệ các bản án, quyết định
bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan so với năm 2012”2. Lãnh đạo hai Ngành Tòa
án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo trong Ngành phải
bảo đảm thực hiện các chỉ tiêu mà Nghị quyết 37/2012/QH13 đã xác định, trong đó
có việc hạn chế, khắc phục tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa3.
Với những lý do trên, học viên đã chọn đề tài “Quyền hủy bản án sơ thẩm của
Hội đồng xét xử phúc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” để nghiên cứu
làm Luận văn Thạc sĩ Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2

Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam về cơng

tác phịng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tịa án nhân dân
và cơng tác thi hành án năm 2013.
3
Chỉ thị số 01/2013/CT-CA ngày 05/02/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc triển khai, tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm cơng tác năm 2013 của ngành Tịa án nhân dân và Chỉ thị số 01/2013 ngày
02/01/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm
2013.


3

Về đề tài hủy bản án sơ thẩm hiện chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu, một
số cơng trình tuy có nghiên cứu nhưng chưa sâu:
Tác giả Nguyễn Thành Duy có bài viết “Nguyên nhân và kiến nghị một số giải

pháp nhằm hạn chế án dân sự bị hủy, sửa trên địa bàn tỉnh Gia Lai, nhìn từ góc độ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự4”. Ở bài viết này, dưới góc độ
là một cán bộ ngành Kiểm sát, tác giả nêu lên thực trạng án sơ thẩm bị hủy, sửa, phân
tích nguyên nhân hủy, sửa và kiến nghị một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng án
hủy, sửa tại địa phương.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hà có bài viết về “Chế định phúc thẩm vụ án dân
sự5”. Bài viết này tác giả nghiên cứu chung về chế định phúc thẩm vụ án dân sự, trong
đó có quyền hủy bản án sơ thẩm. Giới hạn của bài viết này là tác giả chỉ nêu ra quyền
hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm mà chưa có phân tích chun sâu cũng như tổng
kết thực tiễn giải quyết, kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật. Cơng trình này được
nghiên cứu năm 2007, thời điểm BLTTDS chưa được sửa đổi, bổ sung.
Các cơng trình nghiên cứu trên đây chỉ là những bài viết ngắn, có tính gợi mở
về vấn đề hủy án hiện nay. Vấn đề này cần phải được nghiên cứu, đánh giá toàn diện
trên cơ sở khoa học pháp lý dân sự hiện hành để tìm ra phương hướng hồn thiện
trong tương lai.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về:
- Cơ sở lý luận qui định về quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử
phúc thẩm trong tố tụng dân sự. Luận văn sẽ làm rõ một số khái niệm có liên quan
đến căn cứ hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm, các qui định về quyền
hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong lịch sử tố tụng dân sự Việt
Nam, tìm hiểu qui định về căn cứ hủy bản án sơ thẩm của pháp luật tố tụng dân sự
một số nước.
- Pháp luật thực định về quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc

4

tem_id= 24
847816&article_details=1

5

/>A8m -v% E1%BB%A4-n-dn-s%E1%BB%B0/


4

thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam. Luận văn sẽ chú ý làm rõ những qui định của
pháp luật hiện hành về quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm,
đồng thời phân tích, nhận xét những bất cập của qui định, làm cơ sở cho việc đề xuất
những kiến nghị sửa chữa, bổ sung pháp luật.
- Thực tiễn áp dụng qui định về quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét
xử phúc thẩm. Thông qua thực tiễn hủy bản án sơ thẩm trong thời gian 5 năm gần
đây, dựa trên một số bản án sơ thẩm, phúc thẩm cụ thể, Luận văn sẽ làm rõ thực trạng
những bản án sơ thẩm bị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy án.
- Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng
xét xử phúc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành. Qua những qui định của
pháp luật về căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, học viên
nghiên cứu chỉ ra những vướng mắc, bất cập và kiến nghị những sửa đổi, bổ sung một
số qui định của pháp luật cần thiết cho việc hoàn thiện căn cứ hủy bản án sơ thẩm của
Hội đồng xét xử phúc thẩm trong tương lai.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về căn cứ hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm, không nhằm tới việc
nghiên cứu, so sánh luật của các nước. Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, Luận
văn chỉ nghiên cứu những căn cứ mà Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm,
không nghiên cứu những căn cứ sửa bản án sơ thẩm.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu đề tài được giới hạn trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự,
không nghiên cứu đối với thủ tục giải quyết việc dân sự. Đề tài cũng chỉ nghiên cứu

quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm, không nghiên cứu quyền
hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Phạm vi về thời gian, tác giả nghiên cứu đề tài dựa trên những cơ sở thực tiễn
phát sinh trong khoảng thời gian 05 năm từ năm 2009 đến năm 2013.
4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở
lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong
q trình nghiên cứu, có sự kết hợp với những quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước trong Chiến lược Cải cách tư pháp. Trong từng chương, tác giả áp
dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:


5

Chương 1, tác giả áp dụng chủ yếu các phương pháp phân tích, tổng hợp và so
sánh, thống kê. Phương pháp phân tích được dùng trong việc phân tích một số khái
niệm, hậu quả pháp lý của việc áp dụng quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét
xử phúc thẩm. Phương pháp phân tích cịn được kết hợp với phương pháp so sánh để
phân tích, so sánh qui định của pháp luật về căn cứ hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng
xét xử phúc thẩm qua các thời kỳ và của một số nước. Sau khi phân tích, so sánh, tác
giả sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng hợp kết quả nghiên cứu của chương.
Chương 2, tác giả sử dụng hai phương pháp là phân tích và tổng hợp. Phương
pháp phân tích tác giả dùng để phân tích những qui định của pháp luật về căn cứ hủy
bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo pháp luật hiện hành, là Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2004, được sửa đổi bổ sung năm 2011 và những văn bản dưới
luật như Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thơng tư liên
tịch của Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp… Sau
khi phân tích những qui định của pháp luật, tác giả đã dùng phương pháp tổng hợp
để tổng hợp kết quả nghiên cứu.
Trong Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp thống kê để thống kê số liệu,

tình hình hủy bản án sơ thẩm của một số Tòa án điển hình như Tịa án nhân dân tối
cao, Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Tịa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Sau đó, tác giả tiếp tục sử dụng phương pháp phân tích để phân tích một số bản án sơ
thẩm bị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy án. Qua phân tích, xác định rõ những vướng
mắc của pháp luật dẫn đến việc Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tác
giả sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng hợp những vướng mắc, bất cập của pháp
luật hiện hành về qui định căn cứ hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng phúc thẩm. Trên
cơ sở tổng hợp vướng mắc, bất cập, tác giả kiến nghị một số sửa đổi, bổ sung pháp
luật hiện hành.
Có thể nói trong tồn bộ Luận văn, phương pháp phân tích và tổng hợp được
sử dụng chủ yếu để phân tích những vấn đề cần thiết và tổng hợp kết quả nghiên cứu,
làm cơ sở cho những kiến nghị, đề xuất.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Về mặt lý luận, đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về quyền hủy bản
án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm, góp phần làm rõ một số khái niệm có liên
quan, làm rõ những qui định của pháp luật hiện hành về căn cứ hủy bản án sơ thẩm
của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam.


6

Về mặt thực tiễn, đề tài góp phần làm rõ những vướng mắc, bất cập của qui
định pháp luật hiện hành về căn cứ hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc
thẩm. Từ việc làm rõ những vướng mắc, bất cập, đề tài cũng đề xuất một số kiến nghị,
góp phần hồn thiện pháp luật về quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử
phúc thẩm trong tương lai.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần bổ sung kiến thức cho sinh viên,
học viên các trường Đại học có chuyên ngành Luật. Đề tài cũng có thể làm tài liệu
tham khảo cho những cá nhân làm công tác thực tiễn như Thẩm phán, Thư ký Tòa án
nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1 : Một số vấn đề chung về quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng
xét xử phúc thẩm trong tố tụng dân sự
Chương 2 : Quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành.
Chương 3 : Quyền hủy bản án sơ thẩm của hội đồng xét xử phúc thẩm trong
thực tiễn xét xử và kiến nghị hoàn thiện pháp luật


7

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Cơ sở lý luận qui định quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét
xử phúc thẩm trong tố tụng dân sự
Hoạt động xét xử các vụ án dân sự ở nước ta được tiến hành theo nguyên tắc
hai cấp xét xử. “Cấp xét xử được hiểu là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm
của Nhà nước về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan trong
phán quyết của Toà án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân6”. Trong nguyên
tắc hai cấp xét xử, xét xử sơ thẩm là “giai đoạn đầu tiên Tòa án tiếp nhận, thụ lý và
xét xử vụ án dân sự. Kết quả của cấp xét xử sơ thẩm là việc Tịa án sơ thẩm có thể
ban hành một trong các quyết định sơ thẩm hoặc/và bản án sơ thẩm7”; còn xét xử
phúc thẩm là “việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định
của Tịa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị8”.
Nguyên tắc hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
tố tụng dân sự nhiều nước trên thế giới. Nguyên tắc hai cấp xét xử cũng được các Tổ
chức quốc tế đề cao, được ghi nhận trong các công ước quốc tế, như Công ước về

quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc... Nguyên tắc hai cấp xét xử được tổ
chức thực hiện bằng các qui định cụ thể trong pháp luật tố tụng của mỗi quốc gia9.
Trong lịch sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, ngay từ Hiến pháp đầu tiên
năm 1946, nguyên tắc hai cấp xét xử đã được thể hiện khi qui định về cơ cấu tổ chức
của hệ thống Tòa án nước ta10. Hiến pháp 2013 dành hẳn một điều để khẳng định
nguyên tắc hai cấp xét xử trong chế độ xét xử của Tòa án nước ta: “Chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được bảo đảm11”. Trên cơ sở qui định của Hiến pháp, Luật Tổ chức

6

Trần Văn Độ (2007), “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ chức Tịa án các

cấp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 05/2007).tr.1.
7
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội (2012), tr.310.
8
9

Điều 242, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011.
Xem thêm: Trần Văn Độ (2007), “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng ngun tắc đó vào việc tổ chức

Tịa án các cấp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 05/2007).tr.2.
10
Xem thêm Điều 63, Hiến pháp Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, năm 1946.
11

Điều 6, Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013.



8

Tòa án nhân dân qua các thời kỳ đều khẳng định nguyên tắc hai cấp xét xử trong hệ
thống Tòa án nước ta, như: “Toà án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử. Đương
sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân xử sơ thẩm lên Toà
án nhân dân trên một cấp. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền
kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tồ án nhân dân12”; hay “Tịa án thực
hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm củaTịa án có thể bị kháng
cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng13”.
Để bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử, luật qui định các bản án, quyết định
tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực ngay, mà được trù liệu một thời hạn nhất định để cho các đương sự
thực hiện quyền kháng cáo, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị14. Nếu hết thời
hạn đó mà các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị khơng thực hiện việc kháng
cáo, kháng nghị thì bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thực hiện.
Trong trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì khơng có
hiệu lực pháp luật và sẽ phải được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm15.
Từ việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự,
pháp luật tố tụng dân sự qui định thẩm quyền của cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
có những đặc trưng khác nhau. Quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc
thẩm trong tố tụng dân sự có những đặc trưng như sau:
Thứ nhất là bảo đảm quyền lợi của đương sự phải được xem xét giải quyết ở
hai cấp xét xử. Trong quá trình xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, có thể Hội đồng xét
xử phúc thẩm phát hiện những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng như thành
phần hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng qui định, Tịa án cấp sơ thẩm khơng phát
hiện và triệu tập đầy đủ những người có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia vào
việc giải quyết vụ án... hoặc việc chứng minh và thu thập chứng cứ của Tịa án cấp
sơ thẩm khơng theo đúng qui định của pháp luật hay chưa được thực hiện đầy đủ mà
cấp phúc thẩm không thể bổ sung được... Những thiếu sót, vi phạm đó, có thể làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự trong vụ án. Do những vi phạm ở cấp sơ thẩm


12
13
14
15

Điều 9, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960.
Điều 11, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
Điều 17, 245, 250 Bộ luật TTDS 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011.
Xem thêm: Tống Công Cường (2006), “Quan niệm về nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự nước

ta”, />

9

mà đương sự không thể thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
một cách đầy đủ, trọn vẹn, theo đúng qui định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, nếu
tiếp tục giải quyết vụ án, dù cho có triệu tập bổ sung những người có quyền và nghĩa
vụ liên quan hay xét xử với thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm theo đúng qui định,
thì chỉ bảo đảm sự tham gia, bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự ở một cấp xét xử
là phúc thẩm; còn tại cấp sơ thẩm trước kia, các đương sự vốn không được bảo vệ
quyền và lợi ích đầy đủ vẫn khơng thể khắc phục được. Nói cách khác, nếu cấp phúc
thẩm tiếp tục xét xử trong những trường hợp có thiếu sót, vi phạm nêu trên thì nguyên
tắc hai cấp xét xử chưa được bảo đảm. Cho nên, để bảo đảm yêu cầu của đương sự
phải được xem xét, giải quyết ở hai cấp xét xử thì Hội đồng xét xử buộc phải hủy bản
án, quyết định sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại
vụ án. Điều này là nhằm bảo đảm quyền lợi của đương sự phải được xem xét giải
quyết ở hai cấp xét xử, bảo vệ quyền, lợi ích của con người trong hoạt động tố tụng
dân sự mà pháp luật đã ghi nhận.
Thứ hai là bảo đảm hiệu quả hoạt động xét xử VADS của Tịa án cấp sơ thẩm.

Mục đích của việc xét xử là nhằm bảo đảm sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên đương sự. Cho nên ngay trong quá trình
thụ lý, giải quyết vụ án dân sự lần đầu, cấp sơ thẩm phải giải quyết tất cả những vấn
đề liên quan trong vụ án và đưa ra phán quyết thấu tình, đạt lý. Tuy nhiên, khơng phải
bản án, quyết định sơ thẩm nào cũng đạt được mục đích trên ngay từ lần xét xử đầu
tiên. Trong thực tế, có những vụ án do tính chất phức tạp, Hội đồng xét xử sơ thẩm
chưa thể phát hiện hết các tình tiết của vụ án, chưa thu thập đầy đủ chứng cứ hay phát
hiện và triệu tập đầy đủ các đương sự, người liên quan... nên có thể dẫn đến việc sai
sót, vi phạm trong q trình giải quyết và ban hành bản án. Hoạt động xét xử cấp
phúc thẩm có thể phát hiện những thiếu sót, vi phạm này và hủy bản án sơ thẩm, giao
hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. Qua hoạt động xét xử lại
vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, giúp cho Tòa án cấp sơ thẩm nhận thấy những thiếu sót,
vi phạm và khắc phục, từ đó hoạt động xét xử vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm
ngày càng được nâng cao. Mặt khác, hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ về cho Tòa án
cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án để giải quyết lại cũng có tác dụng nâng cao tinh thần
trách nhiệm của Thẩm phán Tịa án cấp sơ thẩm trong q trình giải quyết vụ án tại
cấp sơ thẩm.
Như vậy, Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự nước ta là một tư
tưởng chủ đạo, có tính bắt buộc chung. Nguyên tắc này thể hiện quan điểm của Nhà


10

nước trong việc tổ chức hoạt động tố tụng dân sự là nhằm đạt được hiệu quả cao nhất
trong việc bảo vệ quyền và các lợi ích hợp pháp cho tất cả các chủ thể tham gia.
Thông qua hai cấp xét xử, vụ án dân sự sẽ có điều kiện được xem xét một cách khách
quan, chính xác và tồn diện hơn, hạn chế được nhiều thiếu sót hơn nếu chỉ được xét
xử ở một cấp. Qua hai cấp xét xử, sự thật khách quan của vụ án dễ được nhận thấy,
từ đó những phán quyết của Tịa án được khách quan, chính xác, tồn diện hơn, bảo
đảm cao hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các thủ thể tham gia tố tụng.

Nguyên tắc hai cấp xét xử góp phần thực hiện cơ chế bảo vệ quyền con người
trong tố tụng dân sự. Nó phản ánh bản chất pháp luật của một nước. Nhà nước ta là
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân cho nên vấn đề bảo vệ quyền con
người trong các hoạt động tố tụng (trong đó có tố tụng dân sự) được đặc biệt xem
trọng.
1.2. Hậu quả pháp lý khi Hội đồng xét xử phúc thẩm thực hiện quyền hủy
bản án sơ thẩm
Theo nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” thì bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay, mà còn chờ một thời gian luật định để các
đương sự thực hiện quyền kháng cáo, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị.
Thời gian này thông thường là 15 ngày đối với đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp,
30 ngày đối với Viện kiểm sát trên một cấp. Trong thời gian chờ đương sự kháng cáo,
Viện kiểm sát kháng nghị thì bản án sơ thẩm vẫn đang tồn tại, vẫn có thể có hiệu lực
pháp luật và được đưa ra thi hành nếu khơng có kháng cáo, kháng nghị trong hạn luật
định, hay kháng cáo, kháng nghị bị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận.
Khi hội đồng xét xử phúc thẩm thực hiện quyền hủy bản án thì sẽ dẫn đến hậu
quả pháp lý như sau:
Nếu Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy tồn bộ bản án sơ thẩm thì tồn bộ bản
án sơ thẩm đó khơng có hiệu lực pháp luật. Nếu Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy một
phần bản án sơ thẩm thì chỉ phần bản án sơ thẩm bị hủy khơng có hiệu lực pháp luật,
các phần khác của bản án sẽ phát sinh hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành.
Khi bản án sơ thẩm bị hủy, thì bản án khơng phát sinh hiệu lực pháp luật,
khơng có giá trị thi hành, tình trạng hồ sơ lúc này trở về trạng thái ban đầu, ở giai
đoạn chuẩn bị xét xử. Tùy theo tính chất của vụ án và lý do hủy bản án sơ thẩm mà
Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định tiếp tục giải quyết lại ở cấp sơ thẩm hay đình
chỉ vụ án. Nếu vụ án cần phải được tiếp tục giải quyết lại ở cấp sơ thẩm thì Hội đồng


11


xét xử phúc thẩm quyết định việc chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử
lại; cịn nếu có căn cứ đình chỉ vụ án thì Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định đình
chỉ vụ án mà không chuyển hồ sơ về cấp sơ thẩm nữa. Việc hủy bản án và chuyển hồ
sơ về cấp sơ thẩm giải quyết lại hay đình chỉ vụ án do Hội đồng xét xử phúc thẩm
quyết định bằng bản án hay quyết định phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có
hiệu lực thi hành ngay. Khi giải quyết lại vụ án dân sự, các Tòa án cấp sơ thẩm có thể
ra bản án, quyết định mới. Đối với bản án, quyết định này, các đương sự vẫn có quyền
kháng cáo, Viện kiểm sát vẫn có quyền kháng nghị phúc thẩm như bản án, quyết định
sơ thẩm lần đầu.
Như vậy, hậu quả pháp lý của việc hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử
phúc thẩm là làm chấm dứt sự tồn tại của bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án trở lại giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm (trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định
chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án) hay chấm dứt vụ kiện
(trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ vụ án). Quyền hủy bản án sơ
thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm nhằm khắc phục những sai lầm của bản án sơ
thẩm, góp phần cho vụ án được giải quyết chính xác, đúng pháp luật hơn. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, việc hủy bản án sơ thẩm cũng kéo dài thêm thời gian giải
quyết vụ án dân sự.
1.3. Quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2005
1.3.1. Giai đoạn 1945-1960
Quyền hủy bản án của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong pháp luật tố tụng Việt
Nam luôn gắn với thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Thẩm quyền xét xử
phúc thẩm vụ án dân sự được qui định trong pháp luật tố tụng dân sự từ khi mới hình
thành. Ngay sau khi Nước nhà giành được độc lập, ngày 24/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán, trong đó
đã ghi nhận nguyên tắc “Tòa án thực hiện hai cấp xét xử”. Sau đó, Hiến pháp năm
1946 đã giành một chương qui định về cơ quan tư pháp16. Điều 63 của Hiến pháp
1946 qui định hệ thống cơ quan Tòa án (lúc đó gọi là cơ quan tư pháp) của nước Việt
Nam dân chủ cộng hịa bao gồm: Tồ án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án

đệ nhị cấp và sơ cấp.
16

Chương VI, Hiến pháp Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, năm 1946


12

Như vậy, ngay từ đầu, Hiến pháp đã xác định nguyên tắc hai cấp xét xử là sơ
thẩm và phúc thẩm trong pháp luật về tố tụng của nước ta. Sau đó, nguyên tắc này
giữ nguyên qua các thời kỳ. Năm 1950, Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950 qui định
lại hệ thống Tòa án gồm: Tòa án nhân dân huyện, Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân
dân phúc thẩm khu hoặc thành phố và Tòa án nhân dân tối cao17. Toà án nhân dân
phúc thẩm là một cấp Toà án ở giữa Toà án nhân dân tỉnh, thành phố và Toà án nhân
dân tối cao18. Đến năm 1952, Nghị định số 32-NĐ ngày 6/4/1952 của Bộ Tư pháp qui
định lại thẩm quyền của các Toà án nhân dân, trong đó Tồ án nhân dân huyện có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm hoặc xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm một số loại vụ
án; Toà án nhân dân tỉnh xét xử sơ thẩm và đảm nhiệm luôn việc xét xử phúc thẩm
(chung thẩm) đối với các vụ án mà Toà án nhân dân huyện đã xét xử sơ thẩm. Thời
gian này, luật cũng qui định trong phạm vi xét xử phúc thẩm, Tịa án cấp phúc thẩm
có quyền hủy bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, điển hình là Sắc lệnh số
85-SL ngày 22/5/1950. Tại Sắc lệnh này, quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét
xử Tòa án cấp phúc thẩm được qui định cụ thể như sau: “Nếu người đương sự kháng
cáo…, thì trong ngày nhận được đơn kháng cáo, Toà án huyện phải gửi hồ sơ đến
Tồ án có thẩm quyền. Tồ án này trong hạn ba ngày, sau khi nhận được hồ sơ, sẽ
tuyên án hoặc y, hoặc cải, hoặc bác bản án của Toà án nhân dân huyện19”.
1.3.2 Giai đoạn 1960 – 1988
Năm 1960, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ra đời, hệ thống Tòa án được tổ
chức theo lãnh thổ hành chính. Theo cấu trúc này, các Tịa án có thẩm quyền xét xử
sơ thẩm là Tịa án nhân dân huyện và Tòa án nhân dân tỉnh, các Tòa án có thẩm quyền

xét xử phúc thẩm là Tịa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân tối cao. Các Tòa án nhân
dân phúc thẩm bị bãi bỏ. Chức năng xét xử phúc thẩm của các Tòa án này được giao
cho các Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao. Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1960 qui định rõ nguyên tắc xét xử theo hai cấp20.
17
18
19

Điều 1, Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950.
Theo Thông tư số 92-TC ngày 11-11-1959 của Liên bộ Tư pháp-Toà án nhân dân tối cao.
Điều 14, Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950.

Tại Điều 9, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 qui định: Toà án nhân dân thực hành chế độ hai cấp
xét xử. Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân xử sơ thẩm lên Toà án nhân
20

dân trên một cấp; Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết
định sơ thẩm của Tồ án nhân dân. Nếu đương sự khơng chống án hoặc Viện kiểm sát nhân dân không kháng
nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân địa phương


13

Đến năm 1981, trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1980, Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân được thay đổi. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1981 được Quốc hội
ban hành ngày 3/7/1981, thay thế cho Luật Tổ chức Tịa án nhân dân năm 1960. Sau
đó, Luật này được sửa đổi, bổ sung vào năm 1988, bởi Luật Sửa đổi, bổ sung Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân, do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thơng qua ngày 22/12/1988.
Theo Luật Tổ chức Tịa án nhân dân 1981, nguyên tắc "thực hiện chế độ hai

cấp xét xử" khơng cịn được qui định trong luật nữa. Tuy nhiên, trên thực tế chế độ
xét xử theo hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm vẫn còn được áp dụng. Điểm khác biệt là
có quy định cho phép Tồ án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự sơ thẩm đồng thời
chung thẩm mà khơng có thủ tục phúc thẩm.
Như vậy, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 lần đầu tiên qui định chính
thức trong văn bản luật nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. Tuy nhiên Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 lại không kế thừa nguyên tắc này. Nhưng trong
thực tế, nội dung của nguyên tắc "thực hiện chế độ hai cấp xét xử" vẫn còn được áp
dụng phổ biến, trừ một số trường hợp Tòa án nhân dân tối cao xét xử sơ thẩm đồng
thời chung thẩm. Trong giai đoạn này, tuy Luật không nêu rõ thẩm quyền hủy bản án
sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm nhưng từ việc áp dụng nguyên tắc xét xử hai
cấp, những thẩm quyền này tiếp tục được duy trì theo những qui định trước đây bởi
vì chúng khơng trái với những qui định mới của luật.
1.3.3. Giai đoạn 1989 đến nay
Bước đột phá đầu tiên về lập pháp trong lĩnh vực tố tụng dân sự giai đoạn năm
1989 đến nay phải nói đến việc ban hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự ngày 07 tháng 12 năm 1989. Pháp lệnh này qui định đầy đủ và chi tiết những thủ
tục giải quyết vụ án dân sự, trong đó có những qui định về thủ tục xét xử ở cấp phúc
thẩm. Quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng được qui định
chi tiết trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 198921.

sẽ có hiệu lực pháp luật. Bản án và quyết định phúc thẩm của các Toà án nhân dân, bản án và quyết định sơ
thẩm của Toà án nhân dân tối cao đều là chung thẩm và có hiệu lực pháp luật.
Điều 69 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 qui định cho Toà án cấp phúc thẩm có

21

quyền: (1) Giữ nguyên bản án sơ thẩm; (2) sửa bản án sơ thẩm, nếu thấy việc điều tra đã đẩy đủ, nhưng Toà án
cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật; (3) huỷ bỏ bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại trong
những trường hợp: Việc điều tra của Toà án cấp sơ thẩm khơng đầy đủ mà Tồ án cấp phúc thẩm không thể bổ



14

Kế thừa những thành công của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
Quốc hội tiếp tục ban hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994
và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 để hoàn thiện thủ
tục tố tụng trong lĩnh vực dân sự. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế qui
định Hội đồng xét xử phúc thẩm có một số quyền hạn nhất định đối với bản án sơ
thẩm, trong đó có quyền hủy bản án sơ thẩm của Tịa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị22. Tương tự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động cũng
qui định quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm23.
Năm 2002, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được thay đổi lần thứ hai, tại lần
thay đổi này, nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” được qui định chính thức
trở lại. Theo đó, “Tịa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử: Bản án, quyết định sơ thẩm
của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; bản
án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật
quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm; bản án, quyết định phúc thẩm có
hiệu lực pháp luật24”. Trên cơ sở áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử,
khi Bộ luật Tố tụng dân sự được ban hành năm 2004, quyền hủy bản án sơ thẩm của
Hội đồng xét xử phúc thẩm được BLTTDS tiếp tục được duy trì: Hội đồng xét xử
phúc thẩm có các quyền… huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp
sơ thẩm giải quyết lại vụ án; huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án25. Quyền
sung được, thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của pháp luật hoặc có vi phạm
nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
22
Tại Điều 70 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 qui định Tồ án cấp phúc thẩm có
quyền: (1) Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm; (2) sửa đổi một phần hoặc
toàn bộ quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm; (3) huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án

cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc việc xác
minh, thu thập chứng cứ của Tồ án cấp sơ thẩm khơng đầy đủ mà Tồ án cấp phúc thẩm khơng thể bổ sung
được.
Tại khoản 2 Điều 70 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 qui định cho Toà án
cấp phúc thẩm có quyền:(a) bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên các quyết định của bản án, quyết định
23

sơ thẩm;(b) sửa một phần hoặc toàn bộ phần quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm; (c) huỷ bản án, quyết
định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm
trọng về thủ tục tố tụng hoặc việc xác minh, thu thập chứng cứ khơng đầy đủ mà Tồ án cấp phúc thẩm khơng
thể bổ sung được.
Theo Điều 11, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.

24

25

Theo Điều 275 BLTTDS 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.


15

hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm còn được qui định cụ thể đối với
từng trường hợp: Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ
án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án trong các trường hợp: Việc chứng
minh và thu thập chứng cứ không theo đúng quy định hoặc chưa được thực hiện đầy
đủ mà tại phiên tồ phúc thẩm khơng thể thực hiện bổ sung được; thành phần của Hội
đồng xét xử sơ thẩm khơng đúng quy định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ
tục tố tụng26; hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết
vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một

trong các trường hợp quy định tại Điều 192 BLTTDS27.
Đến năm 2011, Bộ luật Tố tụng dân sự được sửa đổi, bổ sung, quyền hủy bản
án của Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng được sửa đổi, bổ sung thêm việc “hủy một
phần” bản án sơ thẩm: Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền… hủy bản án sơ thẩm,
hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải
quyết lại vụ án28. Cụ thể hơn, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, hủy
một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án sơ thẩm giải quyết lại vụ
án khi: “Việc chứng minh và thu thập chứng cứ không theo đúng quy định hoặc chưa
được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tịa phúc thẩm khơng thể thực hiện bổ sung được;
thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của Bộ luật này hoặc
có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng29”.
Tóm lại, quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm phát triển
gắn liền với nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. Có chế độ xét xử theo hai
cấp thì mới có việc hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Quyền hủy
bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm lúc đầu được qui định chưa rõ ràng,
song thời gian từ năm 1989 trở lại đây được khẳng định rõ nét, trong văn bản pháp
luật có giá trị pháp lý cao như Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều này chứng tỏ quyền hủy
bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm ngày càng được quan tâm, qui định
chặt chẽ.
1.4. Quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong
pháp luật tố tụng dân sự một số nước

26

Theo Điều 277 BLTTDS 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.

27

Theo Điều 278 BLTTDS 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.
Theo Điều 275 BLTTDS 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.


28
29

Theo Điều 277 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011.


16

1.4.1. Quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong
pháp luật tố tụng dân sự Liên bang Nga
Theo mơ hình tố tụng dân sự của Liên bang Nga, vụ việc dân sự được qui định
thuộc thẩm quyền giải quyết lần đầu (cấp sơ thẩm) cho Thẩm phán hòa giải hoặc Tòa
án quận. Những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Thẩm phán hòa giải được qui
định một cách hạn chế30. Còn Tòa án quận, thẩm quyền giải quyết được qui định đối
với hầu hết các vụ án dân sự: Tất cả vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án đều do Tòa án quận giải quyết ở cấp sơ thẩm, trừ những vụ việc dân sự thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và những Tòa án chuyên trách khác31, vụ việc
dân sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án tối cao nước cộng hòa, Tòa án vùng, Tòa
án khu vực, Tòa án thành phố trực thuộc liên bang, Tòa án vùng tự trị và Tòa án khu
tự trị32, vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tịa án tối cao Liên bang Nga33.
Nói chung, dù được giải quyết bởi Thẩm phán hòa giải hay Tòa án quận thì
vẫn bảo đảm xét xử hai cấp, tức có quyền kháng cáo, đề nghị chống án. Từ việc qui
định thẩm quyền xét xử sơ thẩm khác nhau, nên thủ tục xét xử cấp phúc thẩm và
quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng khác nhau.
Đối với vụ việc được xét xử bởi Thẩm phán hịa giải thì quyền kháng cáo được
thực hiện theo thủ tục chống án: “Bản án của Thẩm phán hịa giải có thể bị các bên
và những người tham gia tố tụng khác kháng cáo theo thủ tục chống án tại Tịa án
quận thơng qua Thẩm phán hịa giải; bản án của Thẩm phán hịa giải cũng có thể bị
kiểm sát viên tham gia tố tụng đề nghị chống án34. Khi xét xử lần hai (theo thủ tục

chống án), Tịa án quận (Tịa án cấp chống án) có quyền sửa hoặc hủy bỏ bản án của

30

Theo qui định tại khoản 1, 2 Điều 23, Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga, những vụ việc dân sự thuộc

thẩm quyền giải quyết của Thẩm phán hòa giải bao gồm: (a) Vụ việc về ban hành lệnh của Tòa án; (b) vụ việc
ly hôn, nếu các bên vợ chồng không tranh chấp về con cái; (c) vụ việc về chia tài sản chung của hai vợ chồng
không phụ thuộc vào giá vụ kiện; (d) những tranh chấp khác phát sinh từ quan hệ hôn nhân, trừ những tranh
chấp liên quan đến việc xác định cha, mẹ, tước quyền làm cha, làm mẹ, về nuôi con nuôi; (e) tranh chấp về tài
sản trị giá không vượt quá 500 lần lương tối thiểu do luật Liên bang qui định được tính vào ngày đệ đơn khởi
kiện; (f) tranh chấp phát sinh từ quan hệ lao động, trừ những tranh chấp về khôi phục việc làm và tranh chấp
lao động tập thể; (g) tranh chấp về xác định thứ tự sử dụng tài sản và luật Liên bang có thể qui định thẩm phán
hòa giải xét xử cả những việc khác.
Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga.

31

32
33
34

Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga.
Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga.
Theo Điều 320 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga.


17

Thẩm phán hòa giải và ra phán quyết mới; hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ bản án của

Thẩm phán hịa giải và đình chỉ vụ án hoặc khơng xem xét đơn khởi kiện35.
Đối với vụ việc được xét xử lần đầu bởi Tòa án quận cũng được xét xử lần hai
theo thủ tục kháng cáo phúc thẩm: “Mọi bản án cấp sơ thẩm của tất cả Tòa án Liên
bang Nga, trừ bản án của Thẩm phán hịa giải, có thể bị các bên và những người tham
gia tố tụng khác kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm và có thể bị Kiểm sát viên tham
gia tố tụng đề nghị xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm36”. Khi bản án sơ thẩm bị kháng
cáo theo thủ tục phúc thẩm, Tịa án cấp phúc thẩm có quyền: hủy bỏ một phần hoặc
tồn bộ bản án của Tịa án cấp sơ thẩm và chuyển vụ án để xét xử lại ở Tòa án cấp sơ
thẩm với thành phần Hội đồng xét xử như cũ hoặc thay đổi, nếu sai sót của Tịa án
cấp sơ thẩm khơng thể khắc phục được ở Tòa án cấp phúc thẩm; thay đổi hoặc hủy
bỏ bản án của Tòa án cấp sơ thẩm và ra bản án mới mà không chuyển vụ án để xét
xử lại, nếu xác định được những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án trên cơ sở những
chứng cứ đã được xem xét và những chứng cứ bổ sung; hủy bỏ một phần hoặc tồn
bộ bản án của Tịa án cấp sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án hoặc không xem
xét đơn khởi kiện37.
Như vậy, đối với pháp luật tố tụng dân sự của Liên bang Nga, mặc dù vụ việc
dân sự có thể được giải quyết bằng nhiều thủ tục khác nhau nhưng đều tôn trọng
nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. Trong cấp xét xử thứ hai (phúc thẩm),
Hội đồng xét xử có quyền hủy bản án của cấp xét xử thứ nhất (sơ thẩm).
1.4.2. Quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong
pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản
Pháp luật Nhật Bản cũng bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân
sự. Để được giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, đương sự có thể nộp đơn kháng cáo
Koso. Kháng cáo Koso là trường hợp để “phản đối bản án sơ thẩm cuối cùng của Tòa
án quận hoặc phản đối bản án cuối cùng của Tòa giản lược38”. Thời hạn nộp đơn
kháng cáo Koso được qui định là “hai tuần kể từ ngày tống đạt bản án39”. Người
kháng cáo cịn “có thể kháng cáo Koso bổ sung trước khi có kết luận của phần tranh
35
36
37

38
39

Theo Điều 328 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga.
Theo Điều 336 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga.
Theo Điều 361 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga.
Trích Điều 281 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.
Theo Điều 285 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.


18

luận bằng miệng” và “thực hiện việc kháng cáo Koso bổ sung bằng cách nộp kháng
cáo Koso bổ sung lên Tòa phúc thẩm”; “kháng cáo Koso bổ sung cũng được điều
chỉnh bởi những qui định về kháng cáo Koso40”. Khi xét xử phúc thẩm, bản án sơ
thẩm có thể bị hủy bỏ trong phạm vi kháng cáo41 và trong trường hợp việc xét xử
của Tịa án cấp sơ thẩm khơng thỏa đáng42 hoặc khi thủ tục ban hành bản án sơ thẩm
trái với luật pháp43. Như vậy, theo tố tụng dân sự Nhật Bản, bản án sơ thẩm có thể bị
Tòa án cấp phúc thẩm hủy bỏ về thủ tục tố tụng lẫn nội dung giải quyết. Sau khi hủy
bỏ bản án sơ thẩm do vi phạm thủ tục tố tụng, Tòa án cấp phúc thẩm chuyển lại hồ
sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án: “Tòa án phúc thẩm sẽ trả lại vụ kiện
cho Tòa án sơ thẩm trong trường hợp Tòa án phúc thẩm hủy bỏ bản án sơ thẩm vì lý
do có những việc trái pháp luật trong tố tụng…44”. Ngoài trường hợp trả hồ sơ vụ án
cho Tòa án cấp sơ thẩm khi hủy bản án sơ thẩm vì có vi phạm thủ tục tố tụng, trong
những trường hợp hủy vì các lý do khác, Tòa án cấp phúc thẩm cũng phải trả lại hồ
sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm nếu xét thấy vụ án cần phải giải quyết tiếp: “Trong trường
hợp Tòa án phúc thẩm hủy bỏ bản án sơ thẩm và cần phải có tranh luận tiếp theo cho
vụ kiện, Tịa án phúc thẩm có thể trả lại vụ kiện cho Tịa án sơ thẩm45”.
Ngồi kháng cáo Koso, pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản còn qui định kháng
cáo Jokoku đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm. Các đương sự “có thể nộp đơn

kháng cáo Jokoku lên Tòa án tối cao phản đối bản án của Tòa án cao cấp sơ thẩm
hoặc phúc thẩm ban hành46”. Những cơ sở để kháng cáo Jokoku theo pháp luật tố
tụng dân sự Nhật Bản qui định là: có sai lầm trong giải thích Hiến pháp hoặc có những
vi phạm Hiến pháp khác trong bản án; có căn cứ cho thấy: (1) Tịa án xét xử khơng
được thành lập phù hợp với luật, (2) Thẩm phán không thể tham gia vào bản án theo
qui định của luật pháp đã tham gia vào bản án, (3) những qui định liên quan đến thẩm
quyền chuyên biệt bị vi phạm, (4) có thiếu sót về quyền hạn của đại diện luật pháp
hoặc ủy quyền của Luật sư, hoặc trong việc trao quyền cần thiết cho người đại diện
để thực hiện các hành vi tố tụng, (5) khơng có lập luận trong bản án hoặc các lập luận
40

Theo Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.

41

Theo Điều 304 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.

Theo Điều 305 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.
43
Theo Điều 306 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.
42

44
45
46

Theo Điều 307 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.
Theo Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.
Theo Điều 311 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.



19

khơng thống nhất, (6) có những vi phạm luật hoặc pháp lệnh rõ ràng là quan trọng
đối với bản án47. Trong quá trình giải quyết vụ án theo kháng cáo jokoku, Tịa án có
thẩm quyền có thể hủy bỏ bản án của Tòa án cấp sơ thẩm. Sau khi hủy bỏ bản án của
Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án có thẩm quyền phải trả lại hồ sơ vụ kiện cho Tịa án nơi
vụ kiện bắt đầu. Ngồi ra, khi bản án bị hủy bỏ vì lý do Tịa án cấp sơ thẩm khơng có
thẩm quyền giải quyết vụ kiện (sai thẩm quyền), thì Tịa án phúc thẩm phải ra một
bản án chuyển vụ án đến Tịa án có thẩm quyền48. Tòa án nhận được vụ kiện trả lại
hoặc chuyển đến phải làm thủ tục thụ lý lại vụ án và những nhận định về sự thật và
luật pháp làm căn cứ cho việc hủy bỏ bản án sơ thẩm của Tịa án có thẩm quyền đối
với kháng cáo jokoku có hiệu lực ràng buộc đối với Tịa án mà vụ kiện được trả lại
hay chuyển đến49.
Như vậy, tương tự như pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam, bản án của Tịa
án cấp sơ thẩm Nhật Bản có thể bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy, trả hồ sơ vụ án cho
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng dân sự Nhật
Bản có những qui định rộng và nghiêm ngặt hơn, là cho phép Tòa án cấp trên được
chuyển vụ án đến Tòa án khác với Tòa án cấp sơ thẩm có bản án bị hủy và những
nhận định và căn cứ pháp luật của Tịa án cấp trên có hiệu lực ràng buộc đối với Tòa
án cấp dưới. Điều này có nghĩa là khi giải quyết lại vụ án Tòa án cấp sơ thẩm bắt
buộc phải tuân theo quan điểm của Tịa án cấp trên, như vậy có thể tránh việc một vụ
án bị hủy và trả về Tòa án cấp sơ thẩm xử đi xử lại nhiều lần.
1.4.3. Quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong
pháp luật tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp
Trong tố tụng dân sự của Nước Cộng hòa Pháp, thủ tục xét xử cũng tuân theo
nguyên tắc hai cấp xét xử. Vụ án dân sự được giải quyết lần đầu ở Tịa án cấp sơ thẩm.
Sau đó, vụ án dân sự sẽ được giải quyết lần thứ hai ở Tịa án cấp cao hơn (cấp phúc
thẩm) nếu có kháng cáo, kháng nghị. Việc kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là nhằm
yêu cầu Tòa án phúc thẩm sửa hoặc hủy một bản án của Tòa án sơ thẩm50. Tòa phúc

thẩm theo thủ tục tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp chỉ xét những nội dung trong
bản án bị kháng cáo, kháng nghị có ghi rõ trong đơn kháng cáo, kháng nghị hoặc ám
47

Theo Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.

48

Theo Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.
Theo khoản 3 Điều 325 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản.

49
50

Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, Điều 542.


20

chỉ trong đơn kháng cáo, kháng nghị và nội dung liên quan. Trong trường hợp đối
tượng tranh chấp không thể phân chia được, Tòa phúc thẩm sẽ xét xử lại tồn bộ vụ
việc khi có kháng cáo, kháng nghị u cầu hủy bản án51.
Khi xét xử lại bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị Tịa phúc thẩm có
quyền hủy bản án sơ thẩm. “Nếu Tòa phúc thẩm xử hủy bản án vì lý do vượt q
thẩm quyền, Tịa phúc thẩm có thể quyết định cả về nội dung vụ kiện nếu quyết định
bị phản kháng, có thể bị kháng cáo về toàn bộ các quyết định và nếu Tòa phúc thẩm
là cấp phúc thẩm đối với Tòa án đã ra bản án bị kháng cáo phúc thẩm. Trong các
trường hợp khác, Tòa phúc thẩm khi xử hủy quyết định bị kháng cáo về mặt thẩm
quyền, sẽ giao vụ kiện lại cho Tòa án là cấp phúc thẩm đối với Tòa án đã xử sơ thẩm
xem xét về nội dung52”.

Như vậy, trong thủ tục tố tụng dân sự của Nước Cộng hịa Pháp, Tịa án cấp
phúc thẩm cũng có quyền hủy bản án sơ thẩm như trong pháp luật tố tụng dân sự của
Việt Nam. Tuy nhiên, quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm
trong tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp được qui định chặt chẽ và mở rộng hơn so với
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Theo đó, đối với những bản án sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị vì lý do thẩm quyền, thì Tịa án cấp phúc thẩm ngồi việc xem xét
lại thẩm quyền xét xử của Tịa án cấp sơ thẩm, cịn có thể xem xét cả về mặt nội dung
vụ kiện. Tòa phúc thẩm khi xử hủy quyết định bị kháng cáo về mặt thẩm quyền, sẽ
giao vụ kiện lại cho Tòa án là cấp phúc thẩm đối với Tòa án đã xử sơ thẩm xem xét
về nội dung. Đây là những nét khác biệt với thủ tục phúc thẩm trong tố tụng dân sự
Việt Nam. Từ những qui định có tính chất mở rộng và tồn diện hơn về thẩm quyền
của Tịa án cấp phúc thẩm khi hủy bản án dân sự sơ thẩm trong tố tụng dân sự nước
Cộng hịa Pháp, có thể đạt hiệu quả cao hơn so với tố tụng dân sự Việt Nam, tình
trạng bản án sơ thẩm bị hủy, xử đi xử lại nhiều lần giảm hơn so với Việt Nam. Đây
làm những điểm tiến bộ của pháp luật tố tụng dân sự nước ngồi mà Việt Nam có thể
nghiên cứu tiếp thu.

51

Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, Điều 562.

52

Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, Điều 79.


×