Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tổ chức và hoạt động của thanh tra sở nội vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 104 trang )

ĐẶNG NGỌC SƠN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG NGỌC SƠN

LUẬN VĂN CAO HỌC

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THANH TRA SỞ NỘI VỤ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NĂM 2014
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG NGỌC SƠN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THANH TRA SỞ NỘI VỤ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thƣơng Huyền


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin đoan luận văn thạc sỹ luật học: “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở
Nội vụ” là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các tài liệu, số liệu và một số kiến thức của các tác giả khác trong luận văn này được
sử dụng trung thực, có dẫn chiếu, tham chiếu đầy đủ nguồn theo quy định của một số cơng
trình khoa học. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này chưa từng được
cơng bố tại bất kỳ cơng trình khoa học nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày

tháng 7 năm 2014

Tác giả luận văn

ĐẶNG NGỌC SƠN


MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA SỞ NỘI VỤ ................................................... 5
1.1. Khái niệm “Thanh tra Sở Nội vụ”................................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm “thanh tra” .............................................................................. 5
1.1.2. Khái niệm “Thanh tra Sở Nội vụ” ........................................................... 9

1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Thanh tra Sở Nội vụ......... 11
1.2.1. Giai đoạn trước khi có Luật thanh tra năm 2004 .................................. 11
1.2.2. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay ............................................................. 14
1.3. Tổ chức của Thanh tra Sở Nội vụ ................................................................................ 15
1.3.1. Địa vị pháp lý của Thanh tra Sở Nội vụ ................................................. 16
1.3.2. Cơ cấu tổ chức của Thanh tra Sở Nội vụ ............................................... 18
1.3.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Sở Nội vụ ...................................... 21
1.4. Hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ............................................................................ 26
1.4.1. Đối tượng và phạm vi thanh tra ............................................................. 26
1.4.2. Hình thức thanh tra ................................................................................ 29
1.4.3. Thủ tục thanh tra .................................................................................... 30
Kết luận chƣơng 1 .................................................................................................. 35
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
SỞ NỘI VỤ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ..................................... 37
2.1. Thực trạng về tổ chức của Thanh tra Sở Nội vụ ....................................................... 37
2.1.1. Thực trạng về cơ cấu, tổ chức ................................................................ 37
2.1.2. Thực trạng về nhiệm vụ, quyền hạn ......................................................... 48
2.2. Thực trạng hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ .................................................. 50
2.2.1. Thực trạng về đối tượng và phạm vi thanh tra ....................................... 51


2.2.2. Thực trạng về hình thức thanh tra ........................................................... 55
2.2.3. Thực trạng về thủ tục thanh tra ..................................................................... 56
2.3. Một số giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ ...... 66
2.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra Sở Nội vụ .................................................................................................. 67
2.3.2. Giải pháp tăng cường sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước......... 79
2.3.3. Nhóm giải pháp khác .............................................................................. 80
Kết luận chƣơng 2 .................................................................................................. 83
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 84



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Qua đánh giá của Quốc hội, Chính phủ và báo cáo của các bộ, ngành, địa
phương cũng như phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng, công tác tổ
chức – cán bộ ở nước ta trong thời gian qua còn nhiều yếu kém, bất cập, tiêu cực
song ít được phát hiện, xử lý1. Đó là những hạn chế trong quản lý nhà nước về cơng
tác tổ chức – cán bộ nói chung và cơng tác thanh tra cơng vụ nói riêng. Do hạn chế,
bất cập trong tổ chức và hoạt động thanh tra, nên kết quả hoạt động thanh tra do
Thanh tra ngành Nội vụ tiến hành những năm qua, có thể nói, hiệu quả cao chưa
cao, chưa góp phần đắc lực trong việc giúp các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện
chức năng, thẩm quyền quản lý theo luật định, khơng phản ánh đúng bức tranh tồn
cảnh về tình hình vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Sở Nội vụ.
Với góc độ tiếp cận là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong hoạt động Thanh tra ngành Nội vụ, quy định về tổ chức và
hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ không chỉ là Luật Thanh tra mà còn bao gồm hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về Nội vụ. Trong đó, mỗi một
hệ thống lại được điều chỉnh bằng Luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn thi
hành riêng như: Luật cán bộ, công chức năm 2008; Luật viên chức năm 2010; Luật
khiếu nại năm 2011; Luật Tố cáo năm 2011; Luật Phòng, chống tham nhũng năm
2005; Luật thi đua khen thưởng; Luật Lưu trữ; Luật Giáo dục; Luật thanh niên;
Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo; Luật Kế toán; Bộ Luật Lao động; Luật Bảo hiểm xã
hội; Luật bảo hiểm y tế…và các văn bản dưới luật.
Trước yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính và hội
nhập Quốc tế, nhằm thể chế hóa chủ trương hồn thiện thể chế về tổ chức và hoạt
động thanh tra theo tinh thần Nghị quyết số 48/2005/NQ – TW ngày 25 tháng 4

năm 2005 của Bộ Chính trị: “Hồn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh
tra, kiểm tra bảo đảm mọi hoạt động của nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra
của Chính phủ, đồng thời khắc phục tình trạng cơng tác thanh tra, kiểm tra gây khó

1

Nguyễn Khánh Ly (2012), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay, (truy cập ngày 20/10/2013)


2

khăn, phiền hà cho hoạt động của cơ quan hành chính”2, Luật thanh tra năm 2010
bước đầu đã điều chỉnh tương đối toàn tiện về tổ chức và hoạt động của thanh tra
nhà nước nói chung, tổ chức và hoạt động Thanh tra ngành Nội vụ nói riêng.
Tuy nhiên, quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ vẫn
còn nhiều bất cập, hạn chế nhất là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh các lĩnh vực: Tổ chức bộ máy hành chính, sự nghiệp và quản lý biên chế nhà
nước; chính quyền địa phương, địa giới hành chính; cán bộ, cơng chức, viên chức;
tiền lương; Tôn giáo; thi đua khen thưởng; công tác thanh niên.., cụ thể như: hình
thức pháp luật cịn phân tán và dàn trải ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác
nhau, hiệu lực pháp lý không cao; quy định chuyên ngành về Nội vụ thiếu các định
nghĩa; nội dung pháp luật quy định về nguyên tắc hoạt động thanh tra còn thiếu
thống nhất; quy định về nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra còn chồng chéo, bất hợp lý,
ảnh hưởng đến tính độc lập của tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ; chưa
phân định rõ thanh tra hành chính với thanh tra chuyên ngành; thiếu các quy định về trình
tự, thủ tục chun mơn, nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành. Từ đó làm giảm hiệu lực, hiệu
quả của pháp Luật thanh tra.
Từ cơ sở lý luận – pháp lý và thực trạng pháp luật nêu trên đã đặt ra yêu cầu
cần phải xây dựng kịp thời các luận cứ khoa học cho việc nhận thức đầy đủ lý luận

chung của pháp luật, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội
vụ, xây dựng một số giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở
Nội vụ, hoàn thiện pháp luật điều chỉnh đối tượng thanh tra trong giai đoạn hiện
nay. Vì lý do trên, tác giả chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội
vụ” làm luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ nhiều năm qua, ở nước ta những vấn đề liên quan đến thanh tra đã thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn.
Về tổ chức và hoạt động thanh tra có các luận văn thạc sỹ ở Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh như: “Pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành
trong lĩnh vực văn hóa – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” của tác giả Bùi Ngọc
Thanh Trung năm 2011; “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Giao thông vận tải”
của tác giả Lê Thị Thanh Nga năm 2012; “Hoạt động thanh tra chuyên ngành về lao
động của Thanh tra Sở Lao động Thương binh và Xã hội” năm 2012 của tác giả
Nguyễn Tất Năm; “Tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành Thông tin và truyền
Thông” của tác giả Trần Thị Ngọc Hoan năm 2012; “Tổ chức và hoạt động của Thanh
2

Mục II Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.


3

tra Sở Tư pháp” của tác giả Trần Đức Toàn năm 2013; Học viện hành chính Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh có luận văn thạc sỹ: “Nâng cao năng lực công chức thanh tra
ngành Nội vụ, từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Minh Hồng
năm 2013.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu khoa học của các cá nhân từ trước đến

nay đã góp phần lý giải các vấn đề về khái niệm, cơ sở pháp lý và đánh giá thực
trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra nói chung và một số ngành,
lĩnh vực nói riêng. Qua đó cho thấy, đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu
khoa học nào ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học tiếp cận về tổ chức và hoạt động
của Thanh tra Sở Nội vụ một cách có hệ thống và tồn diện gồm lý luận, đánh giá
thực trạng và đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật tổ chức và hoạt động cũng như
pháp luật điều chỉnh đối tượng thanh tra ngành Nội vụ. Đề tài với tư cách xác định
đối tượng, phạm vi cùng hướng nghiên cứu riêng, không trùng lắp với các cơng
trình đã được cơng bố.

3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài để làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức và hoạt
động của Thanh tra Sở Nội vụ, làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và thực tiễn
thực hiện pháp luật, đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật. Nhằm thực hiện mục
đích trên, tác giả đưa ra một số nhiệm vụ cần giải quyết sau:
- Nêu và phân tích các khái niệm, đối tượng, phạm vi điều chỉnh và các nội
dung cơ bản của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ; khái
quát tình hình phát triển của Thanh tra Sở Nội vụ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, số lượng, chất lượng đội ngũ công chức
Thanh tra ngành Nội vụ, tìm ra nguyên nhân của bất cập, hạn chế về cơ cấu tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn; đối tượng, phạm vi thanh tra và thủ tục thanh tra. Từ đó, đề ra
một số giải pháp hồn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ trong
giai đoạn hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài để làm rõ các vấn đề lý luận – Pháp lý và thực tiễn về tổ
chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ. Do đó, đối tượng nghiên cứu chính của
đề tài là các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ. Nghiên cứu
trên cơ sở thực trạng về số lượng, chất lượng công chức của cơ quan Thanh tra Sở
Nội vụ trên phạm vi toàn quốc.


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuyên suốt các nội dung của đề tài, tác giả dựa trên phương pháp luận chủ
nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh theo quan điểm lịch sử cụ thể và


4

phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu và thống kê nhằm đạt được mục
tiêu đề ra.

6. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
- Ý nghĩa: Kết quả nghiên cứu đề tài nhằm đóng góp thiết thực vào hoạt
động nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ trên cơ sở đánh
giá thực trạng và những bất cập cần phải giải quyết, giúp cho tổ chức và hoạt động
của Thanh tra Sở Nội vụ có cơ sở lý luận để nhìn ra thực trạng, đề ra giải pháp tối
ưu nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra Sở Nội vụ và pháp luật điều chỉnh đối tượng thanh tra cho phù hợp.
- Tính mới của đề tài:
+ Xây dựng một cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ trong hoạt động thanh tra, dựa trên khía cạnh
thực tiễn từ những hoạt động thực tế của thanh tra ngành Nội vụ trên toàn quốc.
+ Phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, chồng chéo của hoạt động
Thanh tra Sở Nội vụ, từ đó nhìn nhận chuẩn xác về thực trạng công tác thanh tra
Nội vụ trong hoạt động thanh tra và đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện năng lực,
hiệu quả hoạt động thanh tra.
+ Xây dựng và ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật điều
chỉnh đối tượng thanh tra và pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở
Nội vụ phù hợp với yêu cầu thực tiễn, bảo đảm về các mặt: quy định pháp luật, bộ
máy, tổ chức, đề xuất biên chế thanh tra nhằm đáp ứng nhiệm vụ chính trị của

Thanh tra Sở Nội vụ.

7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài
được kết cấu gồm 02 chương:
Chương 1: Những vấn đề Lý luận – Pháp lý về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra Sở Nội vụ.
Chương 2: Thực trạng tổ chức, hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ và một số
giải pháp hoàn thiện.


5

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA SỞ NỘI VỤ
1.1. Khái niệm “Thanh tra Sở Nội vụ”
1.1.1. Khái niệm “thanh tra”
Thanh tra theo tiếng Anh là Inspect, xuất phát từ gốc La tinh (inspestare) có
nghĩa là “nhìn vào bên trong” chỉ “một sự xem xét từ bên ngoài vào hoạt động bên
trong của một số đối tượng nhất định”3. Theo từ điển pháp luật Anh – Việt, thanh tra
“là sự kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra”4. Từ điển tiếng việt của Viện
ngôn ngữ học thì “thanh tra” là “Kiểm sốt, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương,
cơ quan, xí nghiệp”5 với nghĩa này, “thanh tra” bao hàm kiểm soát, xem xét để phát
hiện, ngăn ngừa những gì trái với quy định. Cịn theo Từ điển Luật học, “Thanh tra”
là hoạt động “xem xét để làm rõ việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế
hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức, cá nhân…”6. Theo đó, “Thanh tra” được
hiểu là một hoạt động nhằm đánh giá quá trình thực hiện pháp luật của các chủ thể.
Theo lý luận về quán lý nhà nước, thanh tra là một chức năng cơ bản, thiết yếu của
quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý
nhà nước7.

Quan niệm về thanh tra hiện nay, cũng như trong quy định của Hiến pháp và
pháp luật được đề cập ở các góc độ khác nhau.
Ngay trong những ngày đầu xây dựng chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
sắc lệnh số 64 ngày 23/11/1945 thành lập Ban thanh tra đặc biệt, thuật ngữ “thanh
tra” xuất hiện, quyền thanh tra được xác định chính thức và giao cho Chính phủ8.
Bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) của nhà nước ta chưa sử dụng
thuật ngữ “thanh tra”, hoạt động thanh tra, kiểm tra cũng chưa được giao cho một cơ
quan chuyên trách nào, mà quyền “kiểm soát” đối với Chính phủ được giao cho Ban
Thường vụ có quyền kiểm sốt, phê bình “Khi Nghị viện khơng họp, Ban thường vụ
có quyền kiểm sốt, phê bình Chính phủ”9.
Điều 76 Hiến pháp năm 1959 cũng đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc
thi hành các quy định quản lý nhà nước: “…Hội đồng Chính phủ ra những thông tư,
3

Trường cán bộ thanh tra (2006), Nghiệp vụ công tác thanh tra, NXB Thống kê, Hà Nội, tr.9.
Nguyễn Văn Mạnh (2002), “Vị trí, vai trị của các cơ quan thanh tra nhà nước trong cơ chế thanh tra, kiểm
tra, giám sát”, Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra, (II-B), tr.109.
5
Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.882.
6
Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.697.
7
Lê Thị Thanh Nga (2012), Tổ chức và hoạt động của thanh tra sở Giao thông vận tải, Luận văn thạc sỹ, Trường
Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.5.
8
Điều 1 Sắc lệnh số 64 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời ngày 23 tháng 11 năm 1945.
9
Khoản c Điều 36, Hiến pháp năm 1946.
4



6

chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các thông tư và chỉ thị ấy”. Như vậy, thanh tra, kiểm
tra ở đây ngoài việc xem xét vi phạm của các cơ quan, nhân viên hành chính hay
Chính phủ cịn mở rộng ra là giám sát, kiểm tra các hoạt động xây dựng, ban hành,
thực hiện các văn bản pháp quy.
Theo Hiến pháp năm 1980, thuật ngữ “thanh tra” đã được áp dụng rộng rãi và
hoạt động thanh tra được giao cụ thể cho cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước
cao nhất là Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng này có nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo
cơng tác thanh tra và kiểm tra của Nhà nước”10, “Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lãnh
đạo công tác của Hội đồng Bộ trưởng, đôn đốc, kiểm tra việc thi hành những quyết
định của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng”11. Về Ủy ban nhân
dân, Điều 124 quy định: “Ủy ban nhân các cấp, chiểu theo quyền hạn do luật định,
ra những quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó”.
Theo Hiến pháp năm 1992, khái niệm thanh tra, kiểm tra được quy định tại các
Điều 112, 115, 116 và Điều 124, Khoản 7 Điều 112 quy định Chính phủ có nhiệm
vụ “Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh
tra, kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”.
Đến Hiến pháp năm 2013, khái niệm thanh tra, kiểm tra cũng được quy định tại
các Điều 96, Điều 100 và Điều 112. Khoản 5 Điều 96 quy định Chính phủ có nhiệm
vụ “…Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước…”.
Pháp lệnh thanh tra năm 1990, hoạt động của các tổ chức thanh tra được xác
định là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Luật thanh tra năm
2004 khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan thanh tra nhà nước. Hiện nay, Luật Thanh tra năm 2010 thuật ngữ “thanh tra”
dùng để chỉ hai khái niệm “thanh tra nhà nước” và “thanh tra nhân dân” mà theo đó
đều được dùng với nghĩa hoạt động “giám sát, kiểm tra xã hội”12. Do đó, khi thực

hiện hoạt động giám sát, thanh tra nhân dân chỉ có quyền kiến nghị chứ khơng có
quyền xử lý vụ việc vì khơng mang quyền lực nhà nước13, hoạt động của loại cơ
quan này mang tính chất xã hội chủ yếu là giám sát.
Như vậy, khi nói đến “thanh tra” đồng nghĩa là “thanh tra nhà nước” với tư cách
là một hoạt động cơ bản, một chức năng hay một khâu cơ bản không thể thiếu trong
quản lý nhà nước và mang quyền lực nhà nước khi thực hiện. Vị trí, vai trị, mối quan
10

Khoản 15 Điều 107 Hiến pháp năm 1980.
Điều 110 Hiến pháp năm 1980.
12
Nguyễn Cửu Việt (2010), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.668.
13
Bùi Ngọc Thanh Trung (2011), Pháp luật về hoạt thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực văn hóa- thực
trạng và giải pháp hồn thiện, luận văn thạc sỹ, Trường đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.6.
11


7

hệ giữa thanh tra và quản lý đã được Vladimir Ilyich Lenin khẳng định: “Quản lý
đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ không phải là hai”14. Đây
là nguyên tắc cơ bản đầu tiên để xác định vị trí, vai trị của cơng tác thanh tra trong
mối quan hệ với quản lý nhà nước. Ngồi nghĩa như trên, thuật ngữ “Thanh tra nhà
nước” cịn dùng để chỉ hệ thống cơ quan chuyên thực hiện chức năng thanh tra15.
Điều 2 và khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010 quy định “Thanh tra nhà
nước” là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân, mục đích nhằm phát hiện sơ
hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có

thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm
pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát
huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân. Do đó, thực hiện hoạt động thanh tra trước hết là quyền và trách nhiệm của
người đứng đầu, thủ trưởng các cơ quan hành chính. “Thanh tra nhà nước” với nghĩa
là hoạt động bao gồm “thanh tra hành chính” và “thanh tra chun ngành”16. Trong
đó: thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm
vụ, quyền hạn được giao. Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý
thuộc ngành, lĩnh vực đó17.
Từ quy định của Luật Thanh tra 2010, tác giả đồng ý với nhận định rằng sự
phân định giữa hoạt động thanh tra hành chính và hoạt động thanh tra chun ngành
vẫn mang tính chất tương đối. Vì cả hai đều do các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền tiến hành nhằm mục đích bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý, có hiệu lực,
hiệu quả góp phần làm cho bộ máy nhà nước hoạt động đúng quy định và có chất
lượng. Thanh tra hành chính và Thanh tra chuyên ngành đều là thanh tra việc chấp
hành pháp luật, xét về mặt khái niệm thì pháp luật chuyên ngành cũng nằm trong
nội hàm của khái niệm pháp luật, cịn xét về thực tiễn thì rất khó xác định được ranh

14

Viện khoa học thanh tra – Thanh tra chính phủ (2009), Đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra trong cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tr.10.
15
Nguyễn Cửu Việt, tlđd 11, tr.693.
16
Nguyễn Cửu Việt, tlđd 14, tr.692.

17
Khoản 3 Điều 3, Luật Thanh tra 2010.


8

giới giữa pháp luật và pháp luật chuyên ngành18. Tuy nhiên, theo tác giả quan hệ
trực thuộc hay không trực thuộc giữa đối tượng thanh tra và chủ thể cao nhất có
quyền thanh tra là tiêu chí rõ ràng để phân định phạm vi giữa hoạt động thanh tra
hành chính và hoạt động thanh tra chuyên ngành.
Ngoài việc hiểu thanh tra là một hoạt động, thuật ngữ “thanh tra” hay “thanh tra
nhà nước” ở nước ta còn được dùng để chỉ một hệ thống các cơ quan chuyên thực
hiện chức năng thanh tra.
Tùy thuộc vào thiết chế, tổ chức bộ máy của từng quốc gia, một số nước trên thế
giới, việc tổ chức thực hiện quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra khơng giống nhau, có
nước Thanh tra là cơ quan thuộc Quốc hội như ở Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch),
Canada và ở Nam Mỹ. Các quốc gia ở hai khu vực này tổ chức thanh tra với chức
năng, nhiệm vụ cơ bản là: giám sát hoạt động các cơ quan Nhà nước bao gồm các cơ
quan hành chính và cơ quan Nội vụ; nhằm đảm bảo cho các Tịa án và cơ quan hành
pháp trong q trình thực thi nhiệm vụ. Đối với các nước Châu Á, Châu Phi như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Lào, Ai Cập…chức năng nhiệm vụ cơ bản là: Giám sát hoạt
động của các cơ quan hành chính Nhà nước như xem xét, giải quyết các khiếu nại, tố
cáo theo thẩm quyền; kiểm tra, thanh tra việc thi hành công vụ của công chức Nhà
nước và các đối tượng khác19. Cho dù được tổ chức dưới hình thức nào, thanh tra
cũng là một tổ chức hoạt động có tính độc lập cao, là một trong những công cụ quản
lý của cấp trên đối với cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ được giao20. Các văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh tra như: Pháp lệnh thanh tra năm 1990,
Luật thanh tra năm 2004 và Luật thanh tra năm 2010 đều xác định cụ thể hệ thống
các cơ quan thanh tra nhà nước, bao gồm: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra bộ, cơ quan
ngang bộ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Thanh tra sở; Thanh tra

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Luật thanh tra năm 2010 đã thay đổi tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên
ngành theo hướng giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho các cơ quan thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực (bao gồm Tổng cục, Cục
thuộc bộ, Chi cục thuộc sở) trực tiếp thực hiện. Điều 4 Luật thanh tra năm 2010 quy
định cơ quan thực hiện chức năng thanh tra gồm: cơ quan thanh tra nhà nước và cơ
quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Do vậy, hiện nay hiểu
18

Trần Đức Toàn (2013), Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ, luận văn thạc sỹ, Trường đại học
luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.5.
19
Trường cán bộ thanh tra, tlđd2, tr.45.
20
Trần Đức Toàn, tlđd17, tr.6.


9

theo nghĩa rộng thì các cơ quan thanh tra bao gồm cả cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành.

1.1.2. Khái niệm “Thanh tra Sở Nội vụ”
Khái niệm đầu tiên cần tìm hiểu là khái niệm “thanh tra sở”.
Pháp lệnh thanh tra năm 1990 quy định tại khoản 1 Điều 19 “Thanh tra sở là tổ
chức thanh tra của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và cấp tương đương thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản
lý nhà nước của sở và quản lý công tác thanh tra đối với cơ quan, đơn vị do sở quản
lý trực tiếp”. Luật thanh tra năm 2004 quy định: “Thanh tra sở là cơ quan của sở, có
trách nhiệm giúp Giám đốc sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính

và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc sở” 21.
Luật thanh tra năm 2010 thì “Thanh tra sở là cơ quan của sở, giúp Giám đốc sở tiến
hành thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”22. Về cơ bản, các văn bản
pháp luật trước đây cũng như hiện hành đều thống nhất quy định: “Thanh tra sở là
cơ quan của sở”, nghĩa là Thanh tra sở từ chỗ chỉ được coi là “tổ chức”, đến nay
được xác định là “cơ quan”. Điều này xác định tầm quan trọng của cơ quan này vì
nó khẳng định Thanh tra sở có tư cách độc lập như một “cơ quan”. Như vậy, Luật
thanh tra năm 2010 so với Pháp lệnh thanh tra năm 1990 và Luật thanh tra năm
2004 trước, đã quy định theo hướng tăng vị thế độc lập của Thanh tra sở. Về cơ cấu,
thanh tra sở được quy định tại Điều 5 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014
(sau đây gọi tắt là Nghị định số 24/2014/NĐ-CP) của Chính phủ quy định tổ chức
của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố thuộc Trung
ương gồm có Văn phịng, Thanh tra, Phịng nghiệp vụ, Chi cục, đơn vị sự nghiệp công
lập và Điều 3 Nghị định số 90/2012/NĐ-CP ngày 05/11/2012 của Chính phủ quy định
các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra ngành Nội vụ (sau đây gọi tắt là Nghị định số
90/2012/NĐ-CP) trong đó có “Thanh tra Sở Nội vụ”. Ngoài ra cũng như các “cơ quan”
khác, Thanh tra Sở Nội vụ có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng23. Với
những dẫn chứng và phân tích trên, tuy có tính độc lập như “một cơ quan” nhưng Thanh
tra Sở Nội vụ có hạn chế nhất định.
Khoản 1 Điều 23 Luật thanh tra năm 2010 quy định, “Thanh tra sở là cơ quan
của sở, giúp Giám đốc sở tiến hành thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”.
21

Khoản 1 Điều 27 Luật Thanh tra năm 2004.
Khoản 1 Điều 23 Luật Thanh tra năm 2010.
23
Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/0/2011 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra.

22


10

Khái niệm “thanh tra” qua phân tích ở đây, ta có thể hiểu một cách chung nhất
“Thanh tra Sở Nội vụ” là cơ quan thuộc Sở Nội vụ có chức năng thanh tra.
Tuy nhiên, để làm rõ hơn nội hàm khái niệm “Thanh tra Sở Nội vụ”, cũng cần
làm rõ hơn nội hàm khái niệm “Nội vụ” là việc quản lý các lĩnh vực Nội vụ của nhà
nước, là ngành quản lý tất cả các cơng việc mang tính chất nội bộ của một quốc gia
hiểu theo nghĩa rộng, hiểu theo nghĩa hẹp đó là ngành quản lý các lĩnh vực cơng tác
hành chính, an ninh trong nước. Khái niệm Nội vụ được bao hàm trong khái niệm
Nội chính, đó là cơng việc chính trị, cơng việc nội trị trong một nước là tổng hợp các
công việc quản lý hành chính, trật tự, an ninh, quản trị, kinh tế, văn hóa của đất nước.
Nội vụ theo tiếng Anh là Home Affairs, theo tiếng Pháp là Affaires Interieures
có nghĩa là cơng tác nội bộ, hiểu theo nghĩa tiếng Trung là Nội vụ. Đối với cơ quan,
đơn vị, tổ chức đó là công việc bên trong của các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Đối với
một quốc gia, một đất nước, nội vụ là công việc nội bộ, công việc bên trong hay công
tác nội trị của một quốc gia, một nhà nước hiểu theo nghĩa rộng. Hiểu theo nghĩa hẹp,
nội vụ là cơng việc hành chính, an ninh trong nước. Các nước trên thế giới quan niệm
về ngành Nội vụ và giao cho Bộ Nội vụ quản lý các lĩnh vực Nội vụ rất khác nhau có
tính chất nội bộ của quốc gia ví dụ: Bộ Nội vụ Pháp quản lý chủ yếu các lĩnh vực an
ninh quốc gia, Bộ Nội vụ Liên xô trước đây cũng như Bộ Nội vụ Nga hiện nay quản
lý các lĩnh vực an ninh, trật tự, trị an quốc gia. Bộ Nội vụ Nhật Bản lại là bộ phận
quản lý có tính chất tổng hợp nội vụ của quốc gia. Có thể thấy, mặc dù phạm vi quản
lý khác nhau nhưng hầu hết Bộ Nội vụ của các nước đều lựa chọn mơ hình quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực24, vì bản thân ngành Nội vụ là ngành quản lý rất rộng, quản lý các
lĩnh vực nội vụ khác nhau của quốc gia.
Điều 8 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định Sở Nội vụ là một trong số 17 sở
được tổ chức thống nhất trên toàn quốc thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về Nội vụ như: Tổ chức bộ máy; vị trí việc làm;
biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức trong cơ quan, tổ chức hành chính; vị trí
việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc
trong các đơn vị sự nghiệp công lập; tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức,
lao động hợp đồng trong cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp cơng lập; cải
cách hành chính; cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, công chức cấp xã; những
người hoạt động không chuyên trách cấp xã; tổ chức hội, tổ chức phi chính phủ; văn
thư, lưu trữ nhà nước; tôn giáo; công tác thanh niên; thi đua – khen thưởng.

24

Văn Tất Thu (2013), Bộ Nội vụ - Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực,
(truy cập ngày 25/12/2013)


11

Quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật thanh tra năm 2010, Điều 13 Nghị định số
86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thanh tra (sau đây gọi tắt là Nghị định số 86/2011/NĐCP) và Điều 6 Nghị định số 90/2012/NĐ-CP, Thanh tra Sở Nội vụ được hiểu: Thanh
tra Sở Nội vụ là cơ quan thuộc Sở Nội vụ, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của
Giám đốc sở Nội vụ, giúp Giám đốc sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra
trong phạm vi quản lý nhà nước về Nội vụ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Quy định
trên cho thấy Thanh tra Sở Nội vụ trước hết phải là một cơ quan độc lập nằm trong cơ
cấu của Sở Nội vụ, tham mưu, giúp việc cho Giám đốc Sở Nội vụ thực hiện hoạt
động thanh tra, và sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Sở Nội vụ. Tuy nhiên, đến nay
các chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Sở Nội vụ chưa phản ánh hết quy định này,
bởi ngoài việc giúp Giám đốc Sở Nội vụ thực hiện nhiệm vụ thanh tra hành chính,
thanh tra chuyên ngành, Thanh tra Sở Nội vụ đã được giao thêm nhiều nhiệm vụ khác như
là đầu mối giúp Giám đốc Sở Nội vụ tổ chức tập huấn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành

nội vụ cho Thanh tra viên, công chức làm công tác thanh tra thuộc Sở Nội vụ; theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của
Giám đốc Sở Nội vụ, Thanh tra Sở Nội vụ; tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ
quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Sở Nội vụ trong việc thực hiện pháp luật về thanh
tra; tổng kết rút kinh nghiệm về công tác thanh tra Nội vụ và thực hiện việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo theo pháp luật về khiếu nại, tố cáo, phụ trách cơng tác phịng, chống tham
nhũng theo Luật phịng, chống tham nhũng.
Từ những phân tích trên, ta có thể định nghĩa về Thanh tra Sở Nội vụ như sau:
“Thanh tra Sở Nội vụ là cơ quan thuộc Sở Nội vụ, giúp Giám đốc Sở Nội vụ tiến
hành thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng chống tham nhũng theo quy định của pháp luật và thực hiện những nhiệm vụ
khác do Giám đốc Sở Nội vụ giao”.

1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Thanh tra Sở Nội vụ
Ở nước ta, sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký sắc lệnh 64/SL ngày 23/11/1945 thành lập Ban thanh tra đặc biệt
với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt. Trải qua các thời kỳ phát triển của đất
nước, cùng với sự đổi mới của cơ chế quản lý, tổ chức này cũng thay đổi những cơ
cấu, tên gọi khác nhau, thể hiện qua các giai đoạn sau đây:

1.2.1. Giai đoạn trước khi có Luật thanh tra năm 2004
Từ năm 1945 – năm 1970, trên cơ sở bản Tuyên cáo của Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, cơng bố danh sách 13 bộ và 15 vị Bộ trưởng đầu


12

tiên của Nội các thống nhất Quốc gia trong đó có Bộ trưởng Bộ Nội vụ25. Về tổ
chức Bộ Nội vụ giai đoạn này được quy định tại Nghị định số 14/NV ngày
19/1/1946 của Bộ Trưởng Bộ Nội vụ và tiếp đó là Sắc lệnh số 58/SL ngày

03/5/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả hai văn bản này chỉ quy định các Nha của
Bộ Nội vụ trong đó có Nha Thanh tra với nhiệm vụ phụ trách công việc thanh tra
hành chính và chính trị26.
Từ năm 1971 – năm 1989, Trước yêu cầu khách quan đòi hỏi phải điều chỉnh
tổ chức bộ máy làm công tác quản lý hành chính nhà nước trước tiên là ở Trung
ương thì ngày 20/2/1973, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 29-CP về việc thành
lập Ban Tổ chức của Chính phủ với chức năng và đa số nhiệm vụ của Bộ Nội vụ
được chuyển sang, đến đây Bộ Nội vụ khơng cịn tên nữa.
Từ năm 1990 đến 2003, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới của Chính Phủ,
ngày 30/9/1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, Ban Tổ chức – Cán bộ
Chính phủ được xác định là cơ quan ngang Bộ với tên gọi là Ban Tổ chức – Cán bộ
Chính phủ và được quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy tại
Nghị định số 181/CP ngày 09/11/1994 trong đó tại khoản 12 Điều 2 quy định nhiệm
vụ thanh tra, kiểm tra các cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội và
cơng dân trong việc thực hiện pháp luật, chính sách của nhà nước thuộc lĩnh vực do
ban phụ trách. Có thể nói, do lúc này chưa có sự phân cấp nên việc thanh tra, kiểm
tra công tác quản lý nhà nước về nội vụ tại các địa phương chưa được tổ chức,
thành lập tổ chức thanh tra nội vụ mà chủ yếu do Vụ thanh tra – pháp chế của Ban
Tổ chức – Cán bộ Chính phủ xây dựng kế hoạch thanh tra cho từng năm, tiến hành
các cuộc thanh tra theo lịch tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Giai
đoạn này cơ quan Thanh tra Sở Nội vụ cũng chưa được thành lập mà theo hệ thống
tổ chức ở các cơ quan Trung ương và địa phương có Ban Tổ chức chính quyền ở
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương27.
Qua nghiên cứu và trao đổi với một số cán bộ thanh tra làm công tác thực tiễn
qua các thời kỳ, tác giả được biết ở giai đoạn này công tác thanh tra, kiểm tra ngành
nội vụ chưa hoạt động độc lập mà còn phụ thuộc vào kế hoạch thanh tra liên ngành
của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, đoàn thanh tra liên ngành do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh thành lập, Đoàn liên ngành nào có nội dung liên quan đến Tổ chức
Chính quyền thì lúc đó Trưởng Ban Tổ chức chính quyền cấp tỉnh cử cán bộ cùng
25


Bộ Nội vụ (2010), 65 Năm xây dựng và phát triển (1945-2010), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.34.
Khoản 3 Điều 4 Nghị định số 14/NV ngày 19 tháng 01 năm 1946 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về Tổ chức Bộ
Nội vụ và khoản II Điều thứ nhất Sắc lệnh số 58/SL ngày 3 tháng 5 năm 1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt
Nam Dân chủ cộng hòa quy định về Tổ chức của Bộ Nội vụ
27
Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 181-CP ngày 9/11/1994 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và tổ chức bộ máy của Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ.
26


13

tham gia Đoàn liên ngành cấp tỉnh, ngoài ra việc thanh tra theo Đồn liên ngành thì
Ban Tổ chức chính quyền tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực ngành tổ chức nhà nước (nay gọi là
ngành Nội vụ). Tại kỳ họp thứ nhất ngày 05/8/2002, Quốc hội khóa XI đã đưa ra
Nghị quyết số 02/2002/QH11 quy định danh sách các Bộ và cơ quan ngang Bộ của
Chính phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Nội vụ là một trong 26
bộ và được Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức28. Để phù hợp với tình hình tại địa phương trong cả nước về việc thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước về Nội vụ, ngày 20/11/2003 Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 248/2003/QĐ-TTg quy định việc đổi tên Ban Tổ chức chính
quyền thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành Sở Nội vụ. Kể từ đó, Ban tổ chức
Chính quyền tỉnh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trên toàn quốc được đổi tên
thành Sở Nội vụ.
Đối với việc thành lập Thanh tra Sở Nội vụ, ngày 24/3/2004 Bộ Nội vụ ban
hành văn bản số 649/BNV-TCCB về kiện toàn tổ chức Thanh tra Sở Nội vụ, theo
phương châm cơ bản của công tác thanh tra là khách quan, thận trọng nghiêm túc,
lấy xây dựng làm chính, phát huy quyền làm chủ của tập thể, thúc đẩy trách nhiệm

của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân, đề cao ý thức kỷ luật, kịp thời biểu dương mặt tích
cực, sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm, thiết thực ngăn ngừa hiện tượng tiêu cực xảy
ra. Tuy nhiên, pháp luật về thanh tra trước năm 1990 chưa xác định Thanh tra sở là
một tổ chức thuộc hệ thống thanh tra nhà nước, chưa có văn bản quy phạm pháp
luật nào quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Sở Nội vụ.
Ở giai đoạn này, công tác thanh tra của các Sở Nội vụ cịn mờ nhạt, chưa rõ ràng,
chỉ mang tính chất kiểm tra nội bộ (gần giống như thanh tra hành chính), hoạt động
thanh tra khơng nhiều, chủ yếu chỉ là giúp Giám đốc Sở xem xét giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo, tiếp dân và thực hiện các công việc khác theo sự phân công của
Giám đốc Sở. Mặt khác, biên chế, nhân sự của các Sở Nội vụ trong giai đoạn mới
thành lập này còn rất hạn chế, cơ cấu tổ chức cũng tương đối đơn giản, có trung
bình từ 3 đến 4 phịng nghiệp vụ. Do vậy, trong giai đoạn này các Sở Nội vụ chưa
thành lập tổ chức Thanh tra, nhiệm vụ thanh tra được giao cho bộ phận Tổ chức
hoặc Văn phòng kiêm nhiệm thực hiện.
Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn từ năm 1990 - 2003 Tổ chức và hoạt
động của Thanh tra Sở Nội vụ chưa có văn bản chuyên ngành quy định mà chỉ hoạt
động dựa trên các quy định chung về thanh tra sở tại Pháp lệnh Thanh tra năm 1990
28

Nghị định số 45/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ


14

và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, các quy định của Pháp lệnh không
đáp ứng và chưa điều chỉnh hết những vấn đề liên quan đến hoạt động thanh tra, yêu
cầu của công tác quản lý. Tổ chức các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính và
thanh tra theo ngành chưa hợp lý; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chưa đầy đủ;
trình tự, thủ tục thanh tra còn chung chung, chưa phân biệt rõ giữa hoạt động thanh

tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng
đầu cơ quan thanh tra, Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước đối với công tác
thanh tra chưa được xác định đầy đủ, rõ ràng29.

1.2.2. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Nhằm khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh thanh tra năm 1990, ngày
26/05/2004 Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 đã thơng qua Luật số 22/2004/QH11 về
thanh tra có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/2004 (Luật thanh tra 2004). So với
trước đó, Luật Thanh tra năm 2004 ra đời được coi là văn bản pháp luật lớn nhất,
quy mơ nhất điều chỉnh một cách tồn diện về tổ chức, hoạt động thanh tra nhà
nước và thanh tra nhân dân, là cơng cụ góp phần tạo khung pháp lý quan trọng trong
việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơng tác thanh tra, góp phần
xây dựng hệ thống thanh tra theo hướng chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn đang đặt ra. Luật thanh tra năm 2004 tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí,
vai trị, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước, là bộ
phận quan trọng không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, là chức
năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước, là công cụ đắc lực để giữ gìn, bảo
vệ và tăng cường trật tự, kỷ cương quản lý, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp đổi
mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thực
hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất nước 30. Cùng với sự ra
đời Luật Thanh tra năm 2004, trên cơ sở Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày
29/9/2004 của Chính phủ cũng quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Bộ Nội vụ đã ban hành Thông
tư số 05/2004/TT-BNV ngày 19/01/2004 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý
nhà nước về công tác nội vụ ở địa phương, theo đó đã quy định cụ thể: trong cơ cấu
tổ chức của Sở Nội vụ có “các tổ chức giúp việc Giám đốc Sở Nội vụ gồm Văn
phòng; Thanh tra và các Phịng chun mơn và nghiệp vụ...”. Các quy định này đã
khẳng định trong cơ cấu của Sở Nội vụ thì Thanh tra Sở Nội vụ là một “bộ phận
khơng thể thiếu”, mang tính “bắt buộc” và được tổ chức thống nhất tại tất cả các Sở

29

Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật , Bộ Nội vụ - Vụ Pháp chế - Thanh tra Nhà nước (2005), Đề cương giới
thiệu Luật Thanh tra 2004, tr.01.
30
Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, tlđd 28, tr.02,03.


15

Nội vụ. Bên cạnh đó, các quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Thanh tra Sở Nội vụ ngày càng dần được hoàn thiện và cụ thể hóa hơn.
Một trong những điểm mới đáng chú ý của Luật thanh tra 2010 là nâng cao địa
vị pháp lý của cơ quan thanh tra, xác định tính độc lập tương đối của các cơ quan
thanh tra trong mối quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, đồng thời tăng
tính chủ động, tính tự chịu trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, bổ sung các qui
định về việc theo dõi, đôn đốc thực hiện kết luận thanh tra; bổ sung những chế tài 31
đối với người đi thanh tra, người chỉ đạo, người ra quyết định thanh tra, đối tượng
thanh tra và các cơ quan liên quan. Với sự ra đời của Luật thanh tra năm 2010,
thanh tra Sở Nội vụ từng bước được hoàn thiện về tổ chức, chuẩn hố về mặt pháp
lý, góp phần cùng với hệ thống thanh tra nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả
công tác quản lý nhà nước về Nội vụ ở địa phương. Đặc biệt, khi Nghị định số
90/2012/NĐ-CP có hiệu lực thi hành đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc
thực hiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ.
Trên cơ sở những quy định này và xuất phát từ sự cần thiết phải có hoạt động
thanh tra để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về nội vụ, các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đã quyết định thành lập Thanh tra Sở Nội vụ như: Quyết định số
45/QĐ-UB ngày 6/8/2004 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; Quyết
định số 60/2004/QĐ-UB ngày 5/8/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam;
Quyết định số 77/2004/QĐ-UB ngày 07/5/2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Lâm

Đồng; Quyết định số 2157/2004/UB-ND ngày 15/7/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Phú Thọ... Tùy vào tình hình cụ thể của địa phương, quy mô tổ chức, khối lượng
công việc và khả năng cán bộ để quyết định cơ cấu bộ máy và biên chế của Sở Nội
vụ theo nguyên tắc tổ chức gọn nhẹ.

1.3. Tổ chức của Thanh tra Sở Nội vụ
Tổ chức của Thanh tra Sở Nội vụ trên cơ sở quy định tại Điều 23 Luật Thanh
tra năm 2010, Điều 15 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP và Nghị định số 90/2012/NĐCP. Tuy nhiên, Nghị định số 90/2012/NĐ-CP chỉ quy định phạm vi điều chỉnh; đối
tượng thanh tra; chức năng thanh tra ngành Nội vụ; thanh tra viên ngành Nội vụ,
người được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành Nội vụ, cộng tác viên
thanh tra ngành Nội vụ; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động
thanh tra ngành Nội vụ, nhưng không quy định cụ thể về tổ chức Thanh tra Sở Nội
vụ. Vì vậy, về nguyên tắc Nghị định số 90/2012/NĐ-CP cần bổ sung quy định về tổ
chức của Thanh tra Sở Nội vụ gồm Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra, thanh

31

Điều 42 Luật thanh tra năm 2010.


16

tra viên và cơng chức khác để đảm bảo tính hợp pháp, tính đồng bộ với Luật thanh
tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP.
Tuy vậy, luận văn nghiên cứu trên cơ sở Luật thanh tra năm 2010, Nghị định
số 86/2011/NĐ-CP, Nghị định số 90/2012/NĐ-CP và các văn quy phạm pháp luật
khác hiện hành liên quan đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ.

1.3.1. Địa vị pháp lý của Thanh tra Sở Nội vụ
Thanh tra là một tổ chức bắt buộc phải có trong tổ chức của Sở Nội vụ và

được thành lập thống nhất ở tất cả các Sở Nội vụ trên toàn quốc. Là một bộ phận cơ
cấu thuộc32 Sở Nội vụ, Thanh tra Sở có mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ với Giám
đốc Sở Nội vụ. Đây là mối quan hệ giữa thủ trưởng và bộ máy giúp việc. Mối quan
hệ này thể hiện không chỉ về mặt tổ chức, biên chế, kinh phí hoạt động, trụ sở làm
việc, mà cịn cả về phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn. Cụ thể, về mặt tổ chức, Giám đốc
Sở Nội vụ là người có quyền trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
việc thành lập Thanh tra Sở Nội vụ sau khi thống nhất ý kiến với Chánh Thanh tra
tỉnh. Giám đốc Sở Nội vụ bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh Thanh tra Sở Nội vụ (sau
khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh), bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó Chánh Thanh
tra theo đề nghị của Chánh thanh tra sở, quyết định việc phân bổ biên chế và kinh
phí hoạt động cho Thanh tra Sở… Như vậy, với vị trí là một bộ phận cơ cấu thuộc
Sở, Thanh tra Sở Nội vụ là cơ quan nằm trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước,
có nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho Giám đốc Sở Nội vụ và có vị trí ngang với
các phịng, ban chun mơn khác thuộc Sở Nội vụ. Tuy nhiên, bên cạnh những
điểm giống các phịng chun mơn nghiệp vụ khác thì Thanh tra Sở Nội vụ cịn có
những điểm đặc thù như sau:
Thứ nhất, là một hoạt động đặc thù, để phát huy hiệu quả đòi hỏi phải có sự
độc lập tương đối với Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Do vậy, khác với các
phòng, ban khác thuộc sở, Thanh tra sở có tính độc lập hơn, cụ thể như: về tổ chức,
Thanh tra Sở Nội vụ có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và tài khoản riêng;
trong một số nhiệm vụ nhất định, Thanh tra Sở Nội vụ có quyền ban hành quyết
định hành chính (gồm kế hoạch thanh tra, quyết định thành đoàn thanh tra, thành
lập đoàn xác minh, báo cáo kết quả xác minh, biên bản giải quyết khiếu nại, tố cáo,
báo cáo kết quả thanh tra) là những văn bản độc lập với Giám đốc Sở, có quyền đưa
ra những kiến nghị độc lập dựa trên những thông tin, chứng cứ thu thập được trong
quá trình thanh tra. Trong khi đó, các phịng nghiệp vụ khác chỉ có quyền tham
32

Điểm 2 mục III Thông tư số 04/2008/TT-BNV ngày 04/6/2008 của Bộ Nội vụ Hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện và

điểm 2 mục I Thông tư số 06/2008/TT-BNV ngày 21/8/2008 của Bộ Nội vụ hướng dẫn sửa đổi, bổ sung
Khoản 2 Mục 3 Phần I Thông tư số 04/2008/TT-BNV ngày 04/6/2008 của Bộ Nội vụ.


17

mưu, trình Giám đốc Sở quyết định, cũng như khơng có tư cách pháp nhân, con dấu
và tài khoản riêng.
Thứ hai, trong tổ chức của Sở Nội vụ, chỉ có Thanh tra Sở mới là một cơ cấu
có chức năng, nhiệm vụ thực hiện hoạt động thanh tra và đây cũng là hoạt động chủ
yếu, quan trọng nhất của đơn vị này. Điều 11 Nghị định số 90/2012/NĐ-CP quy
định Thanh tra Sở Nội vụ có quyền “thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Sở Nội vụ”, với quy định trên các phòng, ban
nghiệp vụ thuộc Sở đều là đối tượng thanh tra của Thanh tra Sở Nội vụ. Trong hoạt
động của mình, Thanh tra Sở có quyền xem xét, đánh giá, kiểm tra, xử lý đối với
những cơ quan, tổ chức có địa vị pháp lý tương đương với mình. Trong hoạt động
thanh tra chuyên ngành, Thanh tra Sở Nội vụ có quyền thanh tra các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong nghĩa vụ chấp hành quy định pháp luật trong 12 lĩnh vực33 cụ
thể: Tổ chức bộ máy hành chính, sự nghiệp và quản lý biên chế; chính quyền địa
phương, địa giới hành chính; cán bộ, cơng chức, viên chức; tiền lương; cải cách hành
chính; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức; đạo đức, văn hóa giao
tiếp của cán bộ, cơng chức; những việc cán bộ, công chức không được làm; quy tắc
nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức;…Sự tồn tại bắt buộc của Thanh tra Sở
trong cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ, như đã trình bày ở trên, cũng được quy định tại
Điều 5 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và Thông tư số 04/2008/TT-BNV ngày
04/6/2008 của Bộ Nội vụ. Ngoài ra, tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ
còn được điều chỉnh bởi Nghị định số 90/2012/NĐ-CP. Trong khi các phịng nghiệp
vụ thuộc Sở Nội vụ chưa có văn bản điều chỉnh về tổ chức, hoạt động. Tên gọi, số
lượng, chức năng, nhiệm vụ của các phòng nghiệp vụ mang tính tùy nghi34, phụ thuộc
vào quyết định của Giám đốc Sở Nội vụ. Như vậy, cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt

động của Thanh tra Sở Nội vụ rõ ràng hơn so với các phòng, nghiệp vụ khác.
Khác với Pháp lệnh thanh tra năm 1990 và Luật thanh tra năm 2004, Luật
thanh tra năm 2010 không phân định các cơ quan thanh tra nhà nước thành hai
nhóm: thanh tra theo cấp hành chính và thanh tra theo ngành lĩnh vực. Tuy nhiên,
nhìn chung cả ba văn bản đều thống nhất quy định Thanh tra sở nói chung (trong đó
có Thanh tra Sở Nội vụ) là một tổ chức thuộc hệ thống thanh tra nhà nước. Điều 3
Nghị định số 90/2012/NĐ-CP quy định Thanh tra ngành Nội vụ được tổ chức ở Bộ
Nội vụ và ở Sở Nội vụ. Xét trên khía cạnh hệ thống tổ chức, các cơ quan thanh tra,
33

Điều 12 đến Điều 23 Nghị định 90/2012/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động thanh tra ngành Nội vụ.
34
Để tránh sự tùy nghi đặt tên phịng chun mơn của Sở Nội vụ và thống nhất trên toàn quốc, tác giả đề
nghị xây dựng và ban hành văn bản quy định cụ thể số lượng, tên gọi phòng chuyên mơn và quy định số
lượng Trưởng, Phó phịng, ban chun môn thuộc Sở Nội vụ.


18

Thanh tra Sở Nội vụ có vị trí là vừa một cơ quan thanh tra nhà nước nói chung và
cũng vừa là một cơ quan thanh tra chuyên ngành Nội vụ nói riêng.
Trong hoạt động thanh tra hành chính, Thanh tra Sở Nội vụ chịu sự chỉ đạo, theo dõi
đôn đốc, kiểm tra của Thanh tra tỉnh. Thanh tra Sở Nội vụ có nghĩa vụ, căn cứ vào kế
hoạch thanh tra của Thanh tra tỉnh, lập chương trình, kế hoạch thanh tra và phải báo cáo
tình hình hoạt động của đơn vị cho Thanh tra tỉnh theo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu.
Đồng thời, Thanh tra tỉnh và Chánh Thanh tra tỉnh cũng có trách nhiệm: chỉ đạo công tác
thanh tra về nghiệp vụ, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra hành chính; chủ trì xử lý việc chồng
chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các Thanh tra Sở, giữa
Thanh tra sở với Thanh tra huyện, xem xét xử lý những vấn đề mà Chánh Thanh tra sở

khơng nhất trí với Giám đốc sở Nội vụ. Về tổ chức, Chánh Thanh tra tỉnh cho ý kiến thống
nhất trong việc thành lập thanh tra Sở và bổ nhiệm Chánh Thanh tra Sở Nội vụ. Trong
hoạt động thanh tra chuyên ngành, Thanh tra Sở Nội vụ chịu sự chỉ đạo hướng dẫn về
nghiệp vụ của Thanh tra Bộ Nội vụ, phải căn cứ vào kế hoạch thanh tra của Thanh tra Bộ
Nội vụ để xây dựng kế hoạch thanh tra, thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ
hoặc đột xuất về kết quả công tác thanh tra về Thanh tra Bộ Nội vụ; kiến nghị, đề
xuất với Thanh tra Bộ Nội vụ để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong q
trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành ở địa phương.
Như vậy, Thanh tra Sở Nội vụ là một cơ quan thuộc trong cơ cấu bộ máy giúp việc
của Giám đốc Sở Nội vụ, mặt khác đây cũng là một cơ quan thuộc hệ thống thanh tra
nhà nước, cùng với Thanh tra Bộ Nội vụ tạo thành hệ thống cơ quan thanh tra chuyên
ngành Nội vụ trên toàn quốc. Về tổ chức và hoạt động, Thanh tra Sở Nội vụ trực thuộc
Giám đốc Sở Nội vụ là chính, cũng có quan hệ về tổ chức với Thanh tra tỉnh ở mức độ
nhất định trong việc bổ nhiệm Chánh Thanh tra Sở, và có quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo về
chun mơn, nghiệp vụ của Thanh tra tỉnh và Thanh tra Bộ Nội vụ.

1.3.2. Cơ cấu tổ chức của Thanh tra Sở Nội vụ
Như trên đã trình bày tại mục 1.3.1, Thanh tra Sở Nội vụ là một cơ quan trực
thuộc Sở Nội vụ, có vị trí pháp lý ngang với các Phịng nghiệp vụ khác nhưng có sự
độc lập hơn do bản chất của chức năng thanh tra. Về cơ cấu tổ chức của Thanh tra
Sở Nội vụ được hiểu bao gồm: Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra, Thanh tra
viên và công chức khác.
- Chánh Thanh tra Sở Nội vụ là người đứng đầu Thanh tra Sở Nội vụ, giúp
việc cho Giám đốc Sở theo phạm vi, chức năng quản lý nhà nước quy định. Do vậy,
Chánh Thanh tra Sở Nội vụ phải báo cáo và chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở
Nội vụ và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Thanh tra Sở. Nghị định
90/2012/NĐ-CP không những không quy định tổ chức Thanh tra Sở Nội vụ mà


19


cũng không quy định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh Thanh tra Sở Nội vụ. Tuy
nhiên, Điều 23 Luật thanh tra năm 2010 và Điều 15 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP
quy định chung Chánh Thanh tra sở do Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh. Như vậy, so với các chức danh
Trưởng phịng nghiệp vụ thuộc Sở Nội vụ thì quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Chánh Thanh tra sở có khác và phức tạp hơn, do phải có ý kiến của Chánh
Thanh tra tỉnh. Điều này thể hiện tính thống nhất của hệ thống thanh tra nhà nước ở
cấp tỉnh và tính độc lập nhất định của Thanh tra sở.
- Phó Chánh Thanh tra Sở Nội vụ là người giúp việc cho Chánh Thanh tra Sở
Nội vụ, được Chánh Thanh tra Sở Nội vụ giao phụ trách một số nội dung, lĩnh vực
công việc và chịu trách nhiệm trước Chánh Thanh tra trong việc thực hiện nhiệm vụ
được giao. Pháp luật hiện hành cũng không quy định giới hạn số lượng Phó Chánh
Thanh tra Sở Nội vụ. Điều 15 Nghị định 86/2011/NĐ-CP quy định Giám đốc Sở
Nội vụ quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh Thanh tra sở theo
đề nghị của Chánh Thanh tra sở. Như vậy, so với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm chức
danh Phó Phòng nghiệp vụ khác thuộc Sở Nội vụ, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó
Chánh Thanh tra khơng có gì khác biệt, đều hoàn toàn do Giám đốc Sở Nội vụ
quyết định. Từ đó, chúng ta thấy cách quy định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh
Thanh tra và Phó Chánh Thanh tra là khác nhau điều này theo tác giả nhiều hay ít
có thể ảnh hưởng đến tính độc lập, sự thống nhất trong lãnh đạo Thanh tra Sở.
Hiện nay, ngoài Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 của Chính
phủ quy định về thanh tra viên và công tác viên thanh tra (sau đây gọi tắt là Nghị
định số 97/2011/NĐ-CP) thì chưa có quy định về tiêu chuẩn cụ thể đối với chức
danh Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra Sở. Tuy nhiên, điểm c khoản 1 Điều 4
Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của Sở Nội vụ trình Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh dự thảo văn bản pháp luật quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn
chức danh đối với cấp Trưởng, cấp Phó các tổ chức thuộc Sở Nội vụ. Tác giả cho
rằng đây là sự chưa tồn diện của pháp luật, dẫn đến sự khơng đồng đều về năng
lực, trình độ chun mơn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo tại các cơ quan Thanh tra Sở

Nội vụ, thậm chí có thể dẫn đến việc bổ nhiệm người có năng lực chun mơn,
phẩm chất đạo đức không đáp ứng được yêu cầu công tác. Đặc biệt là trong việc bổ
nhiệm Phó Chánh Thanh tra Sở Nội vụ, vì việc bổ nhiệm hồn tồn do Giám đốc Sở
Nội vụ quyết định, không phải thống nhất với Chánh thanh tra tỉnh.
Trên thực tiễn, để đáp ứng được yêu cầu về năng lực cán bộ cũng như khả năng đáp
ứng yêu cầu công việc, nhiều Sở Nội vụ đã chủ động xây dựng tiêu chuẩn Trưởng, Phó
Phịng tại đơn vị và đã áp dụng quy định tiêu chuẩn này đối với việc bổ nhiệm Chánh


20

Thanh tra. Đơn cử, Sở Nội vụ tỉnh Tây Ninh bổ nhiệm Chánh Thanh tra phải theo các tiêu
chuẩn chức danh, điều kiện và quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ, công chức lãnh
đạo quản lý thuộc Sở theo Quyết định số 423/QĐ-SNV ngày 27/04/ 2012 của Sở Nội vụ35,
hoặc Sở Nội vụ tỉnh Thừa Thiên Huế bổ nhiệm Chánh Thanh tra Sở Nội vụ phải theo tiêu
chuẩn, chức danh Trưởng, Phó Phịng thuộc Sở quy định tại Quyết định số 1271/QĐ-SNV
ngày 26/8/ 201336.
- Đối với Thanh tra viên, Điều 32 của Nghị định số 90/2012/NĐ-CP quy định:
“Thanh tra viên ngành Nội vụ (sau đây gọi là Thanh tra viên) là công chức của
Thanh tra Sở Nội vụ được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để thực hiện nhiệm vụ
thanh tra và các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh Thanh tra Sở Nội vụ.
Thanh tra viên được cấp trang phục, thẻ thanh tra”. Thanh tra viên ngành Nội vụ
tuy cũng là một chức danh trong hệ thống cơng chức nhà nước, nhưng có đặc thù
khác so với cơng chức khác tại Sở Nội vụ, vì Thanh tra viên được hưởng chế độ,
chính sách đặc thù, phụ cấp37, trang phục, được Tổng Thanh tra Chính phủ cấp thẻ
Thanh tra38 và được đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động thanh tra. Chịu
trách nhiệm trước Chánh Thanh tra Sở Nội vụ về nhiệm vụ được giao, chịu trách
nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận, kiến nghị, quyết định thanh tra của mình.
Trong tổ chức Thanh tra Sở Nội vụ, Thanh tra viên là lực lượng nịng cốt trong hoạt
động thanh tra. Trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị, trình độ học vấn, kinh

nghiệm công tác của lực lượng Thanh tra viên quyết định hiệu quả hoạt động của
các tổ chức thanh tra ngành Nội vụ. Vì vậy, người được bổ nhiệm vào các ngạch
Thanh tra viên tại cơ quan Thanh tra Sở Nội vụ ngoài việc phải đáp ứng các tiêu
chuẩn nhất định, khoản 2 Điều 32 Nghị định số 90/2012/NĐ-CP và Điều 32 Luật
Thanh tra năm 2010 còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung như trung thành với Tổ
quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo
đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan, tốt
nghiệp đại học, có kiến thức quản lý nhà nước và am hiểu pháp luật, có văn bằng
hoặc chứng chỉ về nghiệp vụ thanh tra, có ít nhất hai năm làm công tác thanh tra
(không kể thời gian tập sự 12 tháng), trừ trường hợp là cán bộ, công chức, viên

35

Sở Nội vụ tỉnh Tây Ninh (2012), Quyết định về việc bổ nhiệm chức vụ công chức,
/>nh%20Thanh%20tra%20So.pdf (truy cập ngày 23/6/2014).
36
Minh Phương (2013), Sở Nội vụ tổ chức lễ công bố quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ, lãnh đạo,
quản lý (truy cập ngày 23/6/2014).
37
Quyết định số 202/2005/QĐ-TTg ngày 09 tháng 8 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp
trách nhiệm theo nghề đối với thanh tra viên.
38
Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 của chính phủ quy định về thanh tra viên
và cộng tác viên thanh tra.


×