Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận CHUYÊN ĐỀ: NGỮ PHÁP VĂN BẢN VÀ VIỆC DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN Ở TIỂU HỌC Đề tài: VẬN DỤNG CÁC GIAI ĐOẠN SẢN SINH VĂN BẢN CỦA NGỮ PHÁP VĂN BẢN VÀO QUÁ TRÌNH DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ CÂY CỐI LỚP 4.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.4 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA GIÁO DỤC
_____________________________________

BÀI TIỂU LUẬN
CHUYÊN ĐỀ: NGỮ PHÁP VĂN BẢN VÀ VIỆC DẠY HỌC
TẬP LÀM VĂN Ở TIỂU HỌC
Đề tài:

VẬN DỤNG CÁC GIAI ĐOẠN SẢN SINH VĂN
BẢN CỦA NGỮ PHÁP VĂN BẢN VÀO QUÁ
TRÌNH DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ CÂY CỐI LỚP 4.

Giảng viên hướng dẫn: TS. Chu Thị Hà Thanh
Học viên thực hiện: Trần Quang Vũ
Mã số học viên:

228140101100004

Lớp: K30C1 – GD tiểu học

1


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 4
PHẦN NỘI DUNG

6

Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI


1. Một số khái niệm
1.2. Văn bản:

6

6

6

1.2.1. Khái niệm về văn bản

6

1.2.2. Đặc trưng của văn bản 6
1.2.3. Kết cấu văn bản

10

1.2.4. Các giai đoạn sản sinh văn bản
a) Giai đoạn định hướng

11

11

b) Giai đoạn lập đề cương (hay làm dàn bài, dàn ý)
c) Giai đoạn thực hiện văn bản

12


12

d) Giai đoạn kiểm tra văn bản 13
1.3. Văn miêu tả 13
1.3.1. Khái niệm văn miêu tả: 13
1.3.2. Đặc điểm của Văn miêu tả

14

1.4. Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 4

15

1.4.1. Đặc điểm tư duy 15
1.4.2. Đặc điểm về ngôn ngữ

16

Chương 2 17
THỰC TRẠNG DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ CÂY CỐI Ở LỚP 4 17
2.1. Nội dung dạy học văn miêu tả cây cối ở lớp 4

17

Chương 3. 22
VẬN DỤNG CÁC GIAI ĐOẠN SẢN SINH VĂN BẢN CỦA NGỮ PHÁP
VĂN BẢN VÀO QUÁ TRÌNH DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ CÂY CỐI Ở LỚP
4

22


3.1. Định hướng hoạt động giao tiếp: Hướng dẫn học sinh phân tích đề 23
3.2. Lập chương trình hoạt động giao tiếp (lập đề cương): Hướng dẫn học sinh
tìm ý, lập dàn ý

24
2


3.3. Hiện thực hóa hoạt động giao tiếp: Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn và
liên kết đoạn thành bài văn

28

3.4. Kiểm tra văn bản: Hướng dẫn học hoàn thiện bài viết (phát hiện và sửa
chữa lỗi)

32

KẾT LUẬN 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI CẢM ƠN

36

36

3



PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài:

Tốc độ phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật và cơng nghệ thông tin
đang làm thay đổi vị thế của nhiều quốc gia trên thế giới. Thực tế ở các nước tiên
tiến đã chỉ ra rằng: nhân tố con người là vô cùng quan trọng. Nắm bắt tình hình
đó, Đảng ta đã khẳng định: “ Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “ đâu tư
cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”
Quan tâm đến giáo dục và đào tạo, Đảng và nhà nước đặc biệt chú ý đến
giáo dục tiểu học_ Giai đoạn đầu tiên trong hệ thống quốc dân. Sở dĩ như vậy, vì ở
tiểu học, lần đầu tiên trẻ tham gia vào hoạt động học với tư cách là hoạt động chủ
đạo. Trong quá trình hoạt động đó, ở học sinh sẽ hình thành hệ thống những kiến
thức và kĩ năng học tập cơ bản với từng mơn học. Khác với Tốn, Tự nhiên xã
hội,... chương trình mơn Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm hình thành và phát triển ở
học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao
tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Các phân môn trong môn học này
đểu hướng tới thực hiện nhiệm vụ trẽn.
Môn Tiếng Việt ở nhà trường tiểu học được phân chia thành nhiều phân
mơn như: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn
và đều hướng tới mục đích trong giao tiếp vì thế con người cần phải biết vận dụng
ngữ pháp văn bản, biết cách sản sinh các văn bản nói và viết cho phù hợp với mục
đích giao tiếp, nội dung giao tiếp và hiệu quả giao tiếp. Chính vì vậy, trong phân
môn tập làm văn Tiểu học từ lớp 2 đến lớp 5, đã chú trọng hình thành và rèn luyện
cho các em cách sản sinh văn bản.
Tập làm văn là một phân mơn nhỏ trong chương tình Tiếng Việt của bậc
Tiểu học, đây là một phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp. Việc dạy tập
làm văn ở bậc Tiểu học có một vị trí rất quan trọng, nó góp phần rèn luyện cho
học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong

hàng ngày và học tập thật tốt các môn học khác.Nếu như môn học và phân môn
khác của môn Tiếng Việt cung cấp cho các em một hệ thống các kiến thức kĩ năng
4


thì phân mơn Tập làm văn tạo điều kiện cho các em
thể hiện các kiến thức, rèn luyện các kĩ năng một
cách linh hoạt và có hệ thống hơn. Chính những
văn bản nói, viết các em có được từ phân môn Tập
làm văn đã thể hiện đưuọc những hiểu biết thực tế,
những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em đã
học ở phân môn Tập làm văn. Các kiểu bài miêu tả
được học nhiều nhất, nó giúp học sinh tái hiện lại
cuộc sống con người phong cảnh thiên nhiên hiện
lên như một bức tranh nhiều màu sắc. Nó giúp các
em có tâm hồn văn học, có tình u q hương đất
nước và con người.
Với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh
Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 4 tư duy ngôn
ngữ đã phát triển, các em rất thích và rất có khả
năng sản sinh các văn bản nói và viết giàu hình ảnh
mang đậm chất học sinh Tiểu học. Đối với các em,
cảnh vật bên ngoài ln mới mẻ. Bên cạnh đó, thể
loại văn miêu tả cây cối của lớp 4 để giúp các em
phát triển hết khả năng quan sát, thể hiện được tất
cả các cảm xúc của mình một cách trong sáng, lại
có sự khác biệt giữa lăng kính chủ quan của từng
em. Tơi mạnh dạn lựa chọn tiểu luận: “vận dụng các giai đoạn sản sinh văn bản
của ngữ pháp văn bản vào quá trình dạy học văn miêu tả cây cối lớp 4”.
2.


Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu nãy nhằm phát hiện thực trạng kĩ năng viết bàỉ tập làm vãn của
học sinh lớp 4 và chỉ rõ sự vận dụng các giai đoạn sản sinh văn bản của ngữ pháp văn
bản vào quá trình dạy học văn miêu tả cây cối ở lớp 4. Trên cơ sờ đó đề xuất một số biện
pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập làm văn cho học
5


sình lớp 4 nói riêng và hoc sinh tiểu học nói chung.
3.

Đốỉ tượng và khách thể nghiên cứu

-

Đối tượng nghiên cứu: Tất cả học sinh lớp 4 ở địa phương,Quận

-

Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 4 trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Một số khái niệm
1.1. Ngữ pháp văn bản:
Ngữ pháp văn bản là một bộ phận của Ngôn ngữ học văn bản, chuyên
nghiên cứu tổ chức ngữ pháp – ngữ nghĩa của văn bản với tư cách là đơn vị cuối

cùng của sự giao tiếp bằng ngôn ngữ.
1.2. Văn bản:
1.2.1. Khái niệm về văn bản
Hiện nay, chưa có định nghĩa nào về văn bản được tất cả các nhà ngơn ngữ
học chấp nhận. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều quan niệm khác nhau vềì văn bản
trong các từ điển tiếng Việt, trong các sách giáo khoa phổ thông, trong các giáo
trình tiếng Việt thực hành cũng như trong các sách ngơn ngữ học trong, ngồi
nước. Trong đó tác giả Phan Mậu Cảnh trong cuốn Ngôn ngữ học văn bản cho
rằng: “Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp băng ngôn ngữ, là đơn vị
được tạo lập bởi sự liên kết các câu, các đoạn văn... tạo thành một thể thống nhất,
một đơn vị hoàn chỉnh về nội dung và hình thwucs, mang tính phong cách và
nhằm một mục đích nhất định”.
Khi nói đến văn bản ta cần chú ý:
- Đó là sản phẩm của hoạt động giao tiếp, bao gồm các chuỗi phát ngôn liên
tục dưới hình thức viết.
6


- Sản phẩm đó nhằm mục đích giao tiếp nhất định (nhận thức hoặc tác
động).
- Văn bản có quan hệ hướng nội và quan hệ hướng ngoại. Quan hệ hướng
nội là quan hệ nằm trong nội dung văn bản. Còn quan hệ hướng ngoại là quan hệ
nằm ngoài văn bản như: các văn bản khác, người tiếp nhận, đối tượng giao tiếp,
hoàn cảnh giao tiếp.
1.2.2. Đặc trưng của văn bản
a. Văn bản có tính chỉnh thể
Văn bản bao gồm nhiều đặc trưng, nhưng đặc trưng cơ bản nhất đó là tính
chỉnh thể. Tính chỉnh thể này biểu lộ về cả nội dung và hình thức văn bản.
- Về mặt nội dung: Tính hồn chỉnh của văn bản làm cho văn bản dễ có tên
gọi (tựa đề) nhất định. Một văn bản hoàn chỉnh về nội dung thường là văn bản

diễn đạt một thông tin trọn vẹn gồm thông tin hiển ngôn và thông tin hàm ngôn.
Tựa đề của văn bản thường là dự báo một trong hai thông tin ấy. Thông tin hiển
ngôn là thông tin bề nổi, là ý nghĩa có thể thấy được trực tiếp từ câu chữ. Ðó là sự
kiện, q trình đã, đang, sẽ diễn ra trong thực tế khách quan hoặc trong trí tưởng
tượng của người viết được biểu hiện trên câu chữ. Thông tin hàm ngôn là thông
tin bề sâu, là cách hiểu, là chủ ý của người viết khi thể hiện nội dung trong thơng
tin hiển ngơn và cịn là cách hiểu của xã hội, của người đọc khi tiếp nhận văn bản.
Tùy loại hình văn bản mà hiển ngơn và hàm ngơn có sự thể hiện khác nhau. Trong
văn bản khoa học, người ta cố gắng tối đa để loại trừ càng nhiều càng tốt thông tin
hàm ngôn. Trong văn chương, nghệ thuật hai loại thông tin trên cùng tồn tại và
đôi khi chính sự lung linh trong thơng tin hiển ngơn lại làm nên giá trị. Trong văn
bản ngoại giao, có khi vì một mục tiêu cụ thể nào đấy, thơng tin khơng xác định
lại được chọn dùng.
Tính hồn chỉnh của văn bản là tương đối. Nó được coi là hồn chỉnh trong
một hoàn cảnh, một mục tiêu giao tiếp nhất định. Khả năng tạo lập nội dung một
văn bản rất khác nhau đối với những người thuộc các trình độ hiểu biết khác nhau.
Một bài làm văn được điểm cao hồi học cấp hai thường là một bài làm cùng đề tài
7


sơ sài ở cấp ba hoặc đại học. Trong thực tế, người ta cũng có thể trích chọn một
chương sách, một đoạn văn của một tác phẩm để làm thành một văn bản và đặt
cho nó một tựa đề mới. Trong trường hợp này, chúng chỉ là văn bản so với tựa đề
mới của nó mà thơi. Các bài trích giảng tác phẩm văn chương trong các sách giáo
khoa văn học chính là các văn bản như thế. Ðơi khi, người ta cũng chọn trích một
câu của văn bản và đặt nó tồn tại như một văn bản.
- Về mặt hình thức: Tính hồn chỉnh thể hiện ở chỗ văn bản có thể tồn
tại độc lập khơng cần phải thêm bất kì yếu tố ngơn ngữ nào vào trước và sau nó.
Trong nội bộ, văn bản phải là một cấu trúc hoàn chỉnh các đơn vị và kết cấu văn
bản. Chúng được hợp nhất lại bằng các phương tiện liên kết văn bản theo các quy

tắc cấu tạo văn bản. Các quy tắc này thể hiện ở thói quen sắp xếp các thành tố, các
bộ phận của văn bản được cả xã hội chấp nhận. Thông thường văn bản gồm tên
gọi (tựa đề, đầu đề) và thân văn bản. Ðôi khi có thêm lời nói đầu và lời bạt ở một
số văn bản dài hơi.
Tên văn bản là bộ phận trong cấu trúc của văn bản nhằm mục đích dự
báo các loại thơng tin trong văn bản.
Lời nói đầu thường báo trước các loại thông tin hiển ngôn, hàm ngôn
trong văn bản để người đọc có hướng lĩnh hội chúng. Nó cũng là nơi để người viết
giới thiệu động cơ tạo lập văn bản và bày tỏ sự tri ân của mình với những người
đã giúp đỡ mình trong quá trình tạo lập văn bản.
Thân văn bản là bộ phận có kết cấu nội bộ. Khái niệm cấu trúc chung
của văn bản có từ thời cổ đại. Cấu trúc chung ấy có thể gồm hai phần, ba phần,
bốn phần, năm phần và thậm chí nhiều hơn nữa. Bài thơ tứ tuyệt thường có cấu
trúc song song đồng tả ngụ ý hoặc cấu trúc hai phần nêu - báo hay thực - luận. Bài
văn ngắn thường có cấu trúc ba phần: mở đầu - triển khai - kết luận. Bài văn tế
thường có cấu trúc ba phần: lung khởi - thích thực - ai vãn. Bài thơ thất ngôn bát
cú thường có cấu trúc bốn phần: đề - thực - luận - kết. Truyện và kịch thường có
cấu trúc năm phần: mở đầu - khai đoan - phát triển - điểm đỉnh - kết thúc. Trong
số đó, kiểu kết cấu ba phần là phổ biến hơn cả. Cấu trúc chung của văn bản còn
8


được gọi là bố cục. Trong văn bản, bố cục vừa là hình thức, vừa là nội dung, nó
phản ánh chiến lược hành ngôn của người tạo lập văn bản.
Lời bạt, nếu có, thường ở cuối văn bản để người viết nói thêm một vài
điều có tính chất nhấn mạnh giúp người đọc hiểu thấu đáo hơn về văn bản. Lời bạt
cũng có thể do một nhân cách lớn hay một bạn tri âm, tri kỉ mà tác giả mời viết.
b. Văn bản có tính liên kết, mạch lạc
Tồn bộ các mối liên hệ, quan hệ giữa văn bản với cuộc sống khách quan
và giữa các thành tố của văn bản với nhau tạo nên tính liên kết của văn bản. Cả

hai phạm vi liên kết bên trong và bên ngoài ấy của văn bản đều quan trọng. Một
văn bản, chẳng hạn như bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu, sẽ khó, thậm
chí khơng thể hiểu được, nếu ta khơng liên hệ nó với cuộc sống bên ngoài là cuộc
đời Nguyễn Du, cuộc đời Thúy Kiều, cuộc đời Tố Hữu cũng như hoàn cảnh ra đời
của bài thơ. Trong mặt liên hệ nội tại, mối liên kết giữa các thành tố, trước hết là
mối liên hệ giữa các ý tưởng trong các câu, các đơn vị trên câu; chúng được thể
hiện ra nhờ các các yếu tố ngôn từ được gọi là các phương tiện liên kết hình thức.
Các mặt liên kết nội dung và hình thức ấy được thể hiện ở nhiều cấp độ: cấp độ
các câu tiếp nối (liên kết liên câu), các câu gián cách và cấp độ các đơn vị trên câu
như cụm câu, đoạn văn, tiết, mục, chương, phần trong quy mô tồn văn bản. Ðiều
này làm văn bản có tính hệ thống. Người đọc văn bản chỉ có thể hiểu được từng
câu, từng đoạn văn bản nếu đặt nó trong mối liên hệ với tồn bộ văn bản.
c. Văn bản có tính mục tiêu, thực dụng
Mục tiêu thực dụng là đích người ta muốn đạt tới khi hành động. Mọi văn
bản được tạo ra đều nhằm một mục tiêu cụ thể. Việc tạo văn bản không những là
một hành động viết mà cịn là một hành động xã hội bằng ngơn ngữ. Viết cái gì,
viết cho ai, viết để làm gì? Ðó là những câu hỏi ln được đặt ra trước mỗi bài
viết. Mục tiêu thực dụng ấy của văn bản quy định cách viết văn bản, quy định việc
lựa chọn thể loại văn bản và các phương tiện ngôn từ quen dùng cho thể loại ấy.
Một số sách ngữ pháp văn bản còn đề cập tới một số đặc trưng khác như
tính hệ thống và tính khả phân (có thể phân chia thành các đơn vị) của văn bản.
9


Quả là văn bản có những đặc trưng ấy. Tuy nhiên, trong thực chất, hai đặc trưng
này là hai mặt biểu hiện cụ thể của các đặc trưng hoàn chỉnh và liên kết. Liên kết
nhiều thành tố để trở thành văn bản hồn chỉnh thì tất nhiên văn bản có tính hệ
thống. Văn bản được liên kết từ nhiều thành tố bộ phận thì tất nhiên có thể được
phân chia thành các bộ phận nhỏ hơn trên cơ sở liên kết chủ đề, liên kết logic và
liên kết hình thức.

1.2.3. Kết cấu văn bản
Kết cấu của văn bản là kết quả của việc sắp đặt, tổ chức các bộ phận ngơn
từ có nghĩa của văn bản theo một cấu trúc nhất định. Kết cấu của văn bản là yêu tố
quy định tính chất của văn bản cũng như phong cách của kiểu loại và phing cách
của người tạo lập văn bản. Một kết cấu văn bản ở dạng đầy đủ nhất, thường gồm
có bốn phần: tiêu đề, phần mở đầu, phần chính, phần kết.
- Têu đề là tên gọi của văn bản, giúp người ta phân biệt văn bản này với văn
bản khác. Về chức năng của tiêu đề phụ thuộc vào cách đặt tên cho văn bản của
tác giả. Có nhiều loại tiêu đề khác nhau. Ngồi ra có một số văn bản khơng có tiêu
đề như ca dao, tục ngữ, câu đố, công văn,... Tiêu đề gắn liền với đặc điểm phong
cách của văn bản.
- Phần mở đầu có nhiệm vụ giới thiệu nội dung hoặc nhận định khái quát,
dẫn dắt người đọc đi dần vào vẫn đề cần trình bày. Mục đích của phần này là thu
hút sự chú ý của người đọc, kích thích được suy nghĩ và lơi cuốn người đọc vào
q trình tìm hiểu, nhận thức. Bởi vậy nó phải được trình bày một cách ngắn ngọn
vê nội dung nhưng có sự lựa chọn linh hoạt trong cách đưa các yếu tố vào văn
bản. Phần mở đầu thường được tách ra một cách rõ ràng và đứng độc lập ở đầu
văn bản.
- Phần thân được xem là phần nội dung quan trọng nhất trong toàn bộ văn
bản. Nhiệm vụ trọng tâm của phần này là triển khai đầy đủ đề tài- chủ đề theo
hướng đã được xác định ở phần mở đầu củ văn bản. Đây là phần có dung lượng
lớn nhất trong văn bản nên nó được chia thành từng bộ phận, được trình bày thành

10


các chương, mục, các đoạn văn. Để đáp ứng được nội dung thông tin quan trọng,
phần thân bao giờ cũng phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức biểu hiện.
Văn bản có thể có hoặc khơng có phần tiêu đề, phần mở đầu, phần kết thúc
nhưng nhất thiết cần phải có phần thân. Cần chú ý rằng, việc phân đoạn trong

phần thân là cần thiết, đồng thời phải biết liên kết các đoạn để tạo thành một chỉnh
thể.
- Phần kết là phần tóm lược, tổng kết, khái quát hóa và nâng cao nội dung
đã được đề cập ở phần thân. Phần kết cũng có khi gợi mở ra những hướng giải
quyết tiếp vấn đề, hoặc nêu những cảm nghĩ, những bài học bổ ích được rút ra từ
những vấn đề mà nội dung trình bày. Phần kết cũng là phần khép lại văn bản, làm
cho văn bản mang tính hồn chỉnh.
Như vậy dạng đầy đủ nhất, một văn bản thường có kết cấu gồm: tiêu đề,
phần mở đầu, phần thân và phần kết.
Ngồi ra, có những loại văn bản có kết cấu khơng đủ các thành phần. Có
văn bản chỉ có phần mở đầu và phần chính, có văn bản chỉ có phần chính và phần
kết, lại có văn bản chỉ có phần chính. Cịn tiêu đề của văn bản cũng có thể có, có
thể khơng. Song tối thiểu nhất văn bản cũng phải có phần chính.
1.2.4. Các giai đoạn sản sinh văn bản
Thực hiện một văn bản làm văn là chúng ta thực hiện một hoạt động giao
tiếp, do đó vấn đề đặt ra là cần phải đạt được chiến lược giao tiếp. Chiến lược giao
tiếp được thể hiện một cách cụ thể trong đề cương văn bản - đó chính là các giai
đoạn sản sinh văn bản. Theo lí thuyết ngữ pháp văn bản, quy trình sản sinh văn
bản gồm bốn giai đoạn: định hướng, lập đề cương, thực hiện và giai đoạn cuối
cùng là kiểm tra văn bản.
a) Giai đoạn định hướng
Khi tạo lập một văn bản người viết cần phải định hướng cho văn bản đó.
Hay nói đúng hơn người viết cần phải xác định rõ các nhân tố giao tiếp. Các nhân
tố giao tiếp bao gồm: đối tượng giao tiếp, nội dung giao tiếp, hồn cảnh giao tiếp,
mục đích giao tiếp và cách thức giao tiếp.
11


Đối tượng giao tiếp gồm: người tạo lập văn bản (người viết), người tiếp
nhận (người đọc) và nững đối tượng tham gia q trình giao tiếp. Hiệu quả giao

tiếp khơng chỉ phụ thuộc vào người tạo lập mà nó cịn phụ thuộc vào cả người tiếp
nhận.
Nội dung giao tiếp: Đó có thể là những sự vật, hiện tượng của tự nhiên, của
xã hội được người phát ngôn nhận thức, hay cũng có thể là những tư tưởng tình
cảm, hoặc những câu chuyện tưởng tượng của người phát ngôn. Giữa ý định của
người tạo lập văn bản (nội dung dự kiến) với sản phẩm của việc thực hiện ý định
đó (nội dung văn bản) bao giờ cũng có khoảng cách nhất định.
Hồn cảnh giao tiếp: Hồn cảnh giao tiếp có thể có thể được hiểu rất rộng:
từ hồn cảnh tâm lí chung của cộng đồng đến bối cảnh lịch sử... Hoàn cảnh giao
tiếp hiểu theo nghĩa rộng này dù ít hay nhiều cũng có ảnh hưởng nhất định đến
việc xây dựng văn bản. Mặc khác, hoàn cảnh giao tiếp: thời gian, địa điểm, hình
thức giao tiếp, sức khỏe, những sự việc xảy ra xung quanh cuộc giao tiếp...
Mục đích giao tiếp: Mỗi văn bản khi viết ra đều nhằm mục đích giao tiếp
nhất định. Đó chính là việc trao đổi tư tưởng, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng, ước
muốn,... để từ đó người phát ngơn lựa chọn cách thức tổ chức, thể hiện các kiến
thức, kĩ năng tạo lập văn bản. Văn bản đạt được hiệu quả giao tiếp khi nó có sự
tác động tới người đọc, làm cho họ thay đổi về nhận thức, biến đổi về tình cảm và
từ đó hành động theo hướng mà người viết mong muốn.
Cách thức trình bày: Đây chính là u cầu gợi ý về việc lựa chọn thể loại
văn bản.
b) Giai đoạn lập đề cương (hay làm dàn bài, dàn ý)
Đề cương của văn bản bao gồm nhiều ý chính, luận điểm cơ bản cùng với
những luận cứ cần thiết, nghĩa là những điều cốt yếu trong văn bản. Đề cương
chính là cơ sở cho việc tiến tới việc sản sinh một văn bản hoàn chỉnh. Đề cương
văn bản bao gồm hai loại:
Đề cương sơ lược: Nêu lên nội dung cơ bản của các phần, các chương, các
mục thông qua tên gọi của chúng.
12



Đề cương chi tiết: Đề cương chi tiết không những chỉ có những ý lớn,
những luận điểm cơ bản mà cịn có các ý nhỏ, các dẫn chứng cụ thể. Loại đề
cương này thể hiện khá đầy đủ nội dung của văn bản.
c) Giai đoạn thực hiện văn bản
Từ đề cương đa soạn người viết chuyển hóa thành văn bản. Vì vậy sau giai
đoạn định hướng và lập đề cương là giai đoạn hoàn chỉnh văn bản. Tuy nhiên, để
viết phải trải qua việc luyện tập công phu về khả năng dùng từ đặt câu, dựng đoạn,
tách đoạn, tách đoạn, dùng các phượng tiện liên kết sao cho phù hợp và cuối cùng
là viết một văn bản hoàn chỉnh.
d) Giai đoạn kiểm tra văn bản
Việc kiểm tra văn bản nhằm xem xét lại văn bản đã tạo ra có phù hợp với
các nhân tố giao tiếp, thực hiện đúng các bước sản sinh văn bản hay khơng. Ngồi
ra, về nội dung và hình thức, văn bản đó đảm bảo được các yêu cầu như đề cương
đã lập ra hay chưa. Nếu sai sót cần điều chỉnh lại.
1.3. Văn miêu tả
1.3.1. Khái niệm văn miêu tả:
Theo Từ điển Tiếng Việt, miêu tả là “dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện
nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự
việc, hoặc thế giới nội tâm của con người”
Miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho
người nghe đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc
như nó vốn có trong đời sống. Qua văn miêu tả, chúng ta có thể hình dung được
q trình vận động của sự vật cũng như những thứ vơ hình như âm thanh, mùi vị,
màu sắc. Một bài văn miêu tả hay không những phải thể hiện rõ nét, chính xác,
sinh động đối tượng miêu tả mà cịn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và
đánh giá của người viết đối với đối tượng. Bởi vì trong thực tế khơng ai tả mà để
tả, thường ta để gửi gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá và thể hiện những yêu
ghét cụ thể của mình. Một bài văn miêu tả cịn là kết tinh của những quan sát tinh
13



tế, những rung động sâu sắc, những ấn tượng đặc biệt mà người viết đã góp nhặt
qua khả năng quan sát nhạy bén, sự phong phú của trí tưởng tượng và một tâm
hồn nhạy cảm.
Nói tóm lại, văn miêu tả là thể loại văn vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi
bật của cảnh, của người, của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được
đối tượng ấy.
1.3.2. Đặc điểm của Văn miêu tả
a. Văn miêu tả là thể văn sang tác, mang tính chân thật
Văn miêu tả khơng phải là sự sao chép, thu lượm thông tin một cách máy
móc mà là kết quả của sự quan sát, nhận xét, tinh tế của mỗi người trước một cảnh
vật, một đối tượng.
Văn miêu tả thể hiện “cái tôi” của mỗi người. Trước một sự vật, hiện tượng
giống nhau nhưng mỗi người có mọt cách quan sát, một cách đánh giá, cách thể
hiện tình cảm khác nhau, tùy thuộc vào kiến thức, kinh nghiệm vốn có và tâm lý,
tính cách của mỗi người. Mỗi bài văn miêu tả là một sản phẩm riêng không lặp lại
ở người khác, thể hiện cách nhìn, cách cảm của người viết đối với đối tượng được
tả.
Bên cạnh sự sáng tạo để bộc lộ cái riêng, cái độc đáo của mỗi tác giả, văn
miêu tả cịn rất cần sự thể hiện của tính chân thực. Bất kỳ một tác phẩm nào cũng
địi hỏi tính chân thật. Nhờ có tính chân thật mà mỗi khi đọc những bài văn miêu
tả chúng ta được gặp lại những sự vật, đối tượng gần gũi, quen thuộc trong quộc
sống. Có gì hay và dễ đi vào lịng người bằng cái thật. Cái thật trong văn miêu tả
làm nên thế đứng của mỗi bài văn trong lòng người đọc.
b. Văn miêu tả mang tính sinh động và tạo hình
Sinh động và tạo hình là một đặc trưng và là tiêu chí để đánh giá một bài
văn miêu tả hay. Đặc trưng này thực ra là hệ quả của tính cụ thể, chân thực và
sáng tạo trong văn miêu tả. Nó địi hỏi người viết dù có miêu tả đối tượng nào ở
góc độ nào cũng phải tạo được sự hấp dẫn, truyền cảm đối với người đọc. Muốn
vậy, khi miêu tả, các em phải thổi vào đó hơi thở của cảm xúc, để miêu tả trở nên

14


có hồn, nếu khơng đơn thuần chỉ là những dịng chữ khơ khan, lạnh lùng, khơng
để lại ấn tượng gì cho độc giả. Một bài văn miêu tả được coi là sinh động, tạo hình
khi các sự vật, đồ vật, phong cảnh, con người… trong đó hiện lên qua từng câu,
từng dịng như trong cuộc sống thực, tưởng có thể cầm được, nắm được…
c. Văn miêu tả mang tính thơng báo, thẩm mỹ và chứa đựng tình cảm của
người viết
Bất kì bài văn nào cũng có nội dung, mục đích của nó và chính những nội
dung đó thể hiện tính thông báo của tác phẩm. Và trong văn miêu tả những nội
dung đó được chọn lọc, chọn những chi tiết hay và đẹp nhất để đưa vào bài văn.
Khác với miêu tả trong khoa học, tả trong phân môn Tập làm văn bao giờ đối
tượng được miêu tả cũng được người viết dánh giá chúng theo quan điểm thẩm
mĩ, cũng gửi vào bài viết ít nhiều tình cảm hay ý kiến đánh giá, bình luận của
mình. Do vậy từng chi tiết của bài miêu tả đều mang ấn tượng cảm xúc chủ quan.
d. Ngôn ngữ của văn miêu tả giàu cảm xúc và hình ảnh
Ngơn ngữ trong văn miêu tả là yếu tố quan trọng làm nên sức sống của bài
văn. Khác với những văn bản khoa học, ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn
ngữ được trau chuốt, chọn lọc giàu cảm xúc và hình ảnh, có thể gây ấn tượng
mạnh, tác động sâu xa trong trí tưởng tượng và cảm nhận của người đọc. Có như
thế thì ngơn ngữ miêu tả mới có khả năng diễn tả cảm xúc của người viết, vẽ được
một cách sinh động, tạo hình đối tượng miêu tả. Ngơn ngữ trong văn miêu tả là sự
phong phú đa dạng của các động từ và tính từ đan xen nhau tạo thành những hạt
pha lê lấp lánh trong văn miêu tả. Tiếng Việt giàu và đẹp, là một kho tàng ngữ liệu
vô tận cho nhà văn lựa chọn ngơn từ một cách chính xác và tinh tế. Ngôn ngữ
miêu tả là biểu hiện của những cung bậc tình cảm trong bài văn. Tạo nên màu sắc
của cảm xúc và hình ảnh, người ta cịn phối hợp tính từ, động từ với nhiều biện
pháp so sánh, nhân hóa và ẩn dụ. Mặc dù nghệ thuật miêu tả khơng phải chỉ tạo
hình ảnh nhưng ma thuật của hành văn, sự sống của bài văn miêu tả lại nằm trong

hình ảnh. Hình ảnh thật sự là một cách viết văn mạnh mẽ, một phương thức làm

15


cho sự vật trở nên nhạy cảm hơn. Nhiều biện pháp tu từ như ân dụ, so sánh, nhân
hóa tạo nên hình ảnh ngơn ngữ.
1.4. Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 4
1.4.1. Đặc điểm tư duy
Học sinh lớp 4 chủ yếu là tư duy trực quan hình tượng.
Học sinh nắm được những mối quan hệ của khái niệm. Những thao tác về
tư duy như phân loại, phân hạng tính tốn, khơng gian, thời gian,… phát trển
mạnh.
Tư duy ngơn ngữ cũng bắt đầu hình thành. Theo lí thuyết phát triển của
Piaget, thì đây được gọi là giai đoạn “vận dụng năng lực tư duy cụ thể” với hai
đặc điểm nổi bật là trẻ am hiểu nguyên lí bảo tồn và khái niệm ngịch đảo. Tuy
nhiên năng lực tư duy của trẻ còn chịu sự ràng buộc với những thật tại vất chất cụ
thể. Trẻ gặp khó khăn trong tư duy trừu tượng.
1.4.2. Đặc điểm về ngôn ngữ
Do học sinh lớp 4 là giai đoạn cuối tiểu học nên học sinh đã có nền tảng
ngơn ngữ khá vững chắc làm tiền đề để rèn luyện các kỹ năng nghe, nói đọc, viết
ở mức độ cao hơn. Vì thế, cùng với sự phát triển của tư duy, ngôn ngữ của học
sinh lúc này đã có sự phát triển đáng kể so với giai đoạn trước đó. Ở lứa tuổi này,
khả năng vận dụng những kiến thức, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ từ nhà trường vào
cuộc sống của học sinh cũng cao hơn, có hiệu quả hơn. Nắm được điều này, người
giáo viên cần phải biết xây dựng được hệ thống bài tập sao cho các em có thể biết
khái quát hóa và đơn giản hóa vấn đề, giải quyết được vấn đề với một tâm lí thoải
mái, hứng thú bằng nhiều hình thức khác nhau từ đó giúp trẻ ngày càng có được
vốn ngơn ngữ đa dạng và phong phú hơn.


16


Chương 2
THỰC TRẠNG DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ CÂY CỐI Ở LỚP 4
2.1. Nội dung dạy học văn miêu tả cây cối ở lớp 4
Văn tả cây cối là loại văn căn cứ vào những điều quan sát, ghi chép, cảm
nhận được về đối tượng là cây cối trong thiên nhiên, cảnh vật..., dùng ngơn ngữ để
vẽ ra hình ảnh chân thực của đối tượng đó, trình bày theo bố cục hợp lí và diễn đạt
bằng lời văn sinh động, khiến cho người đọc người nghe cùng thấy, cùng cảm
nhận như mình.
Ở lớp 4, văn miêu tả được dạy trong 30 tiết với 3 kiểu bài cụ thể: tả đồ vật,
tả con vật, tả cây cối. Trong đó văn miêu tả cây cối chiếm 11 tiết, trong đó có 9
tiết lí thuyết kết hợp thực hành cịn lại kiểm tra và trả bài. Nội dung miêu tả tập
trung vào tả các loài cây: cây ăn quả, cây hoa và cây cho bóng mát.
Văn miêu tả cây cối được dạy ở kì II (từ tuần 21 đến tuần 27) cụ thể ở các
bài sau:
- Tuần 21: Cấu tạo bài văn miêu tả cây cối - trang 30.
- Tuần 22: Luyện tập quan sát cây cối - trang 39; Luyện tập miêu tả các bộ
phận của cây cối - trang 41.
- Tuần 23: Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối - trang 50; Đoạn văn
trong bài văn miêu tả cây cối - trang 52.
- Tuần 24: Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối - trang 60.
- Tuần 25: Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả cây cối - trang
75.
- Tuần 26: Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả cây cối - trang
82; Luyện tập miêu tả cây cối - trang 83.
- Tuần 27: Miêu tả cây cối (Kiểm tra viết) - trang 92; Trả bài văn miêu tả
cây cối - trang 60.
2.2. Thực trạng việc dạy và học văn miêu tả cây cối trong nhà

trường tiểu học
17


Việc dạy và học trong nhà trường hiện nay đã có nhiều khởi sắc về
điều kiện cơ sở vật chất và thiết bị dạy học. Đội ngũ giáo viên tương đối đầy đủ
về số lượng, tỉ lệ chuẩn hoá đã được nâng cao. Đặc biệt là đổi mới phương
pháp dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học từng bước được đẩy
mạnh.
Tuy nhiên để tiết học thực sự lơi cuốn học sinh vào q trình học tập, các
hoạt động của thầy và trò diễn ra được tự nhiên, nhẹ nhàng, hiệu quả trên cơ sở
phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh cịn là một vấn đề cần
được quan tâm trong dạy học môn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm
văn nói riêng nhằm mục đích nắm được đối tượng của mình và đề ra biện pháp
giúp học sinh lớp 4 làm tốt bài văn miêu tả cây cối. Qua đó tơi thấy thực trạng dạy
Tập làm văn như sau:
2.2.1. Đối với giáo viên:
Giáo viên dạy kiến thức trong sách giáo khoa và trong chương trình
chủ yếu bằng phương pháp thuyết trình, giảng giải. Học sinh thụ động tiếp thu
kiến thức. Đôi khi giáo viên có đàm thoại hay sử dụng đồ dùng trực quan… thì
cũng chỉ nhằm cho trị hiểu được, nhớ được lời thầy giảng để làm được bài tập
thầy ra. Hoạt động của thầy và trò giới hạn trong bốn bức tường, lấy bàn và
bảng đen làm trọng tâm thu hút của học sinh.
Giáo viên chưa chú ý phát huy hết khả năng sáng tạo của học sinh,
chưa khơi dậy, đánh thức trong mỗi học sinh những tiềm năng trí tuệ, vốn sống
thực tế của học sinh nên khi dạy giáo viên còn áp đặt cách cảm, cách nghĩ của
người lớn cho học sinh, học sinh ít có cơ hội được bộc lộ tâm trạng cảm xúc của
mình qua ngôn ngữ.
Việc nhận xét bài cho học sinh của một số giáo viên cịn chung chung
khơng cụ thể như: Bài văn chưa hay, bài viết chưa chân thực, dùng từ chưa

chính xác..., hoặc nhìn thấy lỗi của các em nhưng giúp các em sửa thì lại rất
lúng túng hoặc ngại.

18


Trong quá trình giảng dạy, nhiều giáo viên mới chỉ chú ý hướng dẫn học sinh
tìm ý, lập dàn bài, làm bài mang tính chất khung sườn, chưa chú ý nhiều đến hướng
dẫn học sinh quan sát, gợi mở, cung cấp vốn từ ngữ miêu tả, các biện pháp nghệ
thuật cho học sinh, rèn các kĩ năng liên kết câu, đoạn. Hoặc hướng dẫn chung
chung để học sinh tự mày mò. Hoặc dùng “văn mẫu”, học sinh cứ việc sao chép.
Các cách trên đều làm cho HS không biết làm văn, ngại học văn, mặc dù vẫn có
tình u đối với văn học (ví dụ các em rất thích đọc truyện). Nguyên nhân dẫn đến
thực trạng này, một phần là do trình độ, nhận thức, năng lực sư phạm của giáo viên,
cũng có thể chính ngay trong giáo viên cũng thiếu những tri thức khoa học cũng
như vốn sống thực tế. Một số nguyên nhân nữa đó là “bệnh thành tích” trong Giáo
dục.
2.2.2. Đối với học sinh:
Tơi gặp gỡ học sinh trò chuyện, phỏng vấn một số học sinh lớp 4 /3 tôi dạy
và một số học sinh lớp 4 trong trường với một số câu hỏi như:
Ví dụ:
- Con có thích văn miêu tả cây cối khơng? Vì sao? Thì chỉ có 25,8% nói là
thích vì: Nhà con có nhiều cây cối, vì con thích ăn nhiều quả chín, vì nó giúp con
quan sát cây cối một cách tinh tế, giúp con hiểu biết về thiên nhiên, về thế giới
xung quanh con nhiều hơn. Học văn giúp con diễn đạt tốt hơn, lớn lên giúp con
diễn đạt cho người khác nghe dễ thành công hơn.
- “ Con thấy văn tả cây cối có khó khơng? Vì sao?” thì hầu hết học sinh trả
lời là khó vì con khơng quan sát nhiều về thiên nhiên, vì muốn viết được câu
văn hay con phải suy nghĩ kỹ, đôi khi con ngồi nghĩ mãi không biết diễn đạt
như thế nào cho hay, làm một bài văn rất lâu cho nên con rất ngại học văn hơn

các mơn học khác.
-“ Con có nhờ đến bố mẹ, người thân giúp con khi làm văn khơng?”thì rất
nhiều học sinh trả lời là “có” vì con nhờ bố mẹ, người thân giúp tìm những câu

19


văn hay, hỏi về cây đó có những đặc điểm như thế nào, nhờ bố mẹ sửa cho
những câu văn cho hay hơn.
Qua trao đổi với đồng nghiệp và phỏng vấn học sinh các lớp 4, đọc các bài
văn của học sinh, tôi nhận thấy:
- Nhiều học sinh ngại học văn vì theo các em học văn phải là viết nhiều,
phải tìm tịi suy nghĩ nhiều. Phỏng vấn học sinh lớp 4 tại trường tôi thu được
kết quả: Số học sinh thích học mơn Tiếng Việt chiếm khoảng 55 %. Số học
sinh thích học phân mơn Tập làm văn chỉ chiếm khoảng 20 % - 25,5% (Tập
trung vào những em học sinh có năng khiếu viết văn).
- Việc sử dụng từ ngữ của học sinh còn lặp, còn vụng, chưa hợp văn
cảnh.
- Các em thiếu kiến thức thực tế về đối tượng miêu tả, có em tả cây hoa
hồng nhung cao ngập đầu bố em, thân cây bàng bốn bạn học sinh lớp 4 ơm
khơng xuể, cây chuối có cành rung rinh, hoa phượng thơm nồng nàn như hoa
sữa…
- Một số học sinh có năng khiếu cũng chưa chú ý một cách đúng mức
đến việc tập viết những câu văn giàu giá trị nghệ thuật.
- Bài viết thiếu cảm xúc, khô cứng, chưa trọng tâm hoặc sơ sài, hay lan
man.
- Nhiều học sinh còn rất vụng trong việc nối câu, tạo đoạn, sắp xếp bố
cục, liên kết giữa các đoạn trong bài để có bài văn bố cục chặt chẽ.
- Học sinh thường miêu tả rất chung chung, đối tượng miêu tả dù là loài
cây nào cũng giống nhau: tả gốc, thân, cành, lá, hoa, quả… Các em không

phân biệt giữa các lồi cây với nhau, khơng nắm được với loài cây ăn quả tả kĩ
bộ phận nào? Loài cây cho bóng mát cần tả bộ phận nào là chính, lồi cây hoa
thì cần làm nổi bất bộ phận nào?
Với đề bài tả cây cối, tôi thấy các em thường gặp một số hạn chế sau:

20



×