Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.41 KB, 38 trang )









Tài Liệu




Công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo của tư pháp huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh
Với mục tiêu góp phần nâng cao kiến thức, kỹ năng cơ bản về chuyên môn
nghiệp vụ Tư pháp cấp huyện nói chung, kiến thức, nghiệp vụ về xử lý đơn
thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực Tư pháp cấp huyện nói
riêng, chuyên đề này trình bày và phân tích các vấn đề chính bao gồm: vai trò
của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cơ sở và nhiệm vụ, quyền hạn của
Phòng Tư pháp trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo; những vấn đề cơ
bản về quy trình nghiệp vụ xử lý đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
I. Vai trò của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cơ sở và nhiệm vụ,
quyền hạn của Phòng Tư pháp trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo
1. Vai trò của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cơ sở
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền tự nhiên của con người trước những
vấn đề bị vi phạm để tự bảo vệ mình. Hay nói một cách khác, bản chất của quyền
khiếu nại, tố cáo là quyền tự vệ hợp pháp trước những hành vi vi phạm để tự bảo


vệ mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích của xã hội. Đó là quyền hiến định, quyền
phản hồi, quyền dân chủ và hơn thế nữa, đó là quyền để bảo vệ quyền. Chính vì
vậy, khiếu nại, tố cáo là hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội. Khiếu nại,
tố cáo là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ
máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do
đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không những có vai trò quan trọng trong
quản lý nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn,
sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành, từ đó có cơ sở
thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà
nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một vấn đề được Đảng,
Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức; tạo cơ sở pháp lý trong giải quyết khiếu nại, tố cáo Nhà
nước ta đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và được sửa đổi, bổ sung
vào các năm 2004, 2005. Để phát huy và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo của cả hệ thống chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban
hành Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 6-3-2002 về một số vấn đề cấp bách cần thực
hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay.
Thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo và Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư, các
ngành, các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, nhờ đó, công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã
có những chuyển biến tích cực. Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo đã góp phần
quan trọng vào việc ổn định tình hình an ninh, chính trị, phục vụ phát triển kinh tế
- xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân
ở một số địa phương vẫn có chiều hướng gia tăng, số lượng các vụ việc khiếu kiện
vượt cấp, đông người vẫn còn nhiều. Trong những người đi khiếu nại, tố cáo, có
những người khiếu nại, tố cáo đúng, mong muốn được pháp luật giải quyết công
minh; nhưng cũng có một số người mặc dù về việc khiếu nại đã được cơ quan có

thẩm quyền xem xét, giải quyết đúng pháp luật, nhưng hoặc vì thiếu hiểu biết,
hoặc vì cố chấp mà vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài. Một số người đi khiếu
nại, tố cáo có thái độ gay gắt, cực đoan, có hành vi quá khích làm ảnh hưởng đến
trật tự xã hội ở một số địa bàn.
Tuy nhiên, những năm gần đây, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập. Nhiều nơi số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo gia tăng,
thậm chí có nơi tình hình khiếu nại, tố cáo diễn biến hết sức phức tạp, làm ảnh
hưởng đến an ninh, trật tự tại địa phương như Hà Tây, Hưng Yên… Thời gian gần
đây, có rất nhiều vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai. Nhiều trường hợp khiếu
nại có liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển
kinh tế - xã hội, như đòi được bồi thường đất ở, nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ
trợ, bố trí tái định cư, giải quyết việc làm; đòi lại đất cũ, tranh chấp đất đai, nhà ở.
Ngoài ra, có một số khiếu nại liên quan đến việc thực hiện chính sách xã hội, kỷ
luật của cán bộ, công chức Về nội dung tố cáo, chủ yếu là tố cáo cán bộ, công
chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đất đai, tài chính, đầu
tư, xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu
trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này thì có nhiều, nhưng có thể nói một trong
nguyên nhân cơ bản là do một số nơi chính quyền cơ sở còn chưa quan tâm đúng
mức tới công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là chính quyền cấp xã
phường và chính quyền cấp quận, huyện và thị xã. Khi phát sinh khiếu nại, tố cáo,
một số chính quyền cơ sở chưa làm tròn trách nhiệm của mình, thiếu quan tâm giải
quyết từ gốc - nơi phát sinh khiếu nại, tố cáo, có nhiều vụ việc giải quyết chậm,
thẩm tra, xác minh sơ sài, thu thập chứng cứ không đầy đủ, kết luận thiếu chính
xác, áp dụng pháp luật cứng nhắc, phương án giải quyết thiếu thuyết phục, dân
không đồng tình, tiếp tục khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó, sự phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước để giải quyết khiếu nại, tố cáo có lúc chưa tốt, còn có hiện tượng
đùn đẩy trách nhiệm, chuyển đơn lòng vòng, trả lời thiếu thống nhất. Việc tuyên
truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục, hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo và

công tác hòa giải ở cơ sở chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên có những
vụ việc đơn giản vẫn phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp. Bên cạnh đó,
trong một số trường hợp, bọn phản động và phần tử cơ hội lợi dụng, kích động
những người đi khiếu nại, tố cáo; tổ chức, lôi kéo khiếu kiện đông người, biến các
vụ việc khiếu nại thuần túy trở thành vấn đề chính trị - xã hội, dẫn đến tình hình
khiếu nại, tố cáo thời gian qua có những diễn biến phức tạp như vụ Thích Quảng
Độ, Thích Không Tánh âm mưu tiến hành tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
vào ngày 23/8/2007.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp trong lĩnh vực giải quyết khiếu
nại, tố cáo
Ngày 28/4/2009 Tư pháp và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số
01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp
xã. Thông tư này thay thế Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV ngày 05-5-
2005 của lien Bộ Tư pháp và Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý quản lý
nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương. Theo quy định của Thông tư số
01/2009/TTLT-BTP-BNV thì Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân cấp huyện; tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về: công tác xây dựng và thi hành văn bản quy phạm pháp
luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi
hành án dân sự; chứng thực; hộ tịch; trợ giúp pháp lý; hoà giải ở cơ sở và công tác tư
pháp khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể nói cùng với sự trưởng thành của ngành Tư pháp, vị trí và chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp cũng ngày càng được tăng cường. So
với trước kia, Phòng Tư pháp hiện nay được quy định có tư cách pháp nhân, con dấu
và tài khoản riêng; đồng thời, Phòng Tư pháp cũng được bổ sung một số nhiệm vụ,
quyền hạn, trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn rất mới và quan trọng như về theo dõi
tình hình thi hành văn bản quy phạm pháp luật (điểm a, khoản 6, Điều 5, Thông tư số

01/2009/TTLT-BTP-BNV)- đây là một nhiệm vụ mang tính thường xuyên, liên tục,
toàn diện và kịp thời và luôn gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan chuyên môn của Ủy ban, trong đó có trách nhiệm nhiệm giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân theo thẩm quyền; có những nhiệm vụ quyền hạn được bổ sung rất
“nhạy cảm”, liên quan đến nhiều thủ tục hành chính như thực hiện chứng thực bản
sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài; chứng thực chữ ký
của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc
từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài; chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản
bằng (điểm b, khoản 11, Điều 5, Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV); hay
Giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho
người từ đủ 14 tuổi trở lên và xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung
hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi, cấp bản
sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch theo quy định của pháp luật (điểm b, khoản 12,
Điều 5, Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV). Đặc biệt, khoản 16, Điều 5 của
Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV quy định Phòng Tư pháp có nhiệm vụ và
quyền hạn:
“Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra, thanh tra việc thi hành
pháp luật về hoạt động tư pháp trên địa bàn; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong hoạt động tư pháp
trên địa bàn theo quy định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp
huyện”.
Trên thực tế, có những địa phương, Phòng Tư pháp được giao phối hợp với Thanh
tra huyện ngay trong giai đoạn phân loại, xác định thẩm quyền giải quyết và xử lý
đối với một số trường hợp khiếu nại, tố cáo. Đặc biệt, khi công chức Phòng Tư pháp
được giao nhiệm vụ tham gia các đoàn thanh tra, xác minh liên ngành để giúp Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền thì công
chức Phòng Tư pháp, ngoài việc giữ vai trò là thành viên của đoàn, còn phải tư vấn
không những nội dung pháp luật có liên quan mà còn cả những nghiệp vụ về xác
minh, giải quyết khiếu nại, tố cáo sao cho việc xác minh, kết luận, kiến nghị và giải
quyết đúng quy trình pháp luật và đạt hiệu quả. Tuy nhiên, thực tiễn, số Phòng Tư

pháp các quận, huyện thực hiện tốt những nhiệm vụ, quyền hạn này chưa nhiều, có
nơi còn hiểu chưa rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thậm chí có nơi hầu như các
công việc liên quan đến khiếu nại, tố cáo là do Thanh tra huyện thực hiện. Đây cũng
là một trong những tồn tại của công tác cấp huyện cần phải được quan tâm, khắc phục
để Tư pháp cấp huyện thực hiện tốt hơn nữa chức năng tham mưu của mình đối với
Uỷ ban nhân dân cùng cấp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý
nhà nước của Ngành và địa phương.
II. Quy trình nghiệp vụ xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn phản ánh, kiến
nghị liên quan đến khiếu nại, tố cáo
Theo quy định của Thông tư số 04/2010/TT-TTCP ngày 26/8/2010 của Thanh tra
Chính phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, đơn phản ánh, kiến nghị
liên quan đến khiếu nại, tố cáo thì cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm xử
lý đơn tiếp nhận đơn từ 3 nguồn: Trực tiếp từ cơ quan, tổ chức, cá nhân; do đại
biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành
viên của Mặt trận, các cơ quan báo chí và các cơ quan khác chuyển đến, hoặc đơn
gửi qua dịch vụ bưu chính. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đơn, Thủ
trưởng các cơ quan này có trách nhiệm xử lý đơn trên nguyên tắc đảm bảo tính
khoa học, khách quan, trung thực, chính xác, kịp thời. Cũng theo quy định của
Thông tư này việc phân loại đơn được theo 6 tiêu chí: theo nội dung đơn (đơn
khiếu nại, đơn tố cáo, đơn phản ánh, kiến nghị ); theo điều kiện xử lý (đủ điều
kiện hoặc không đủ điều kiện xử lý); theo thẩm quyền giải quyết; theo số lượng
người khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị; theo giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn;
hoặc phân loại theo thẩm quyền của cơ quan, tổ chức. Cán bộ Phòng Tư pháp khi
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến phân loại, xử lý đơn cần lưu ý một số
nội dung chính được đề cập đến trong Thông tư 04/2010/TT-TTCP dưới đây:
1. Phân loại theo nội dung đơn:
Bao gồm đơn khiếu nại; đơn tố cáo; đơn phản ánh kiến nghị liên quan đến khiếu
nại, tố cáo. Khi phân loại theo nội dung đơn, cần chú ý phân biệt giữa đơn khiếu
nại và đơn tố cáo, theo các đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, xét về chủ thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo:

+ Chủ thể của hành vi khiếu nại có thể là công dân, cơ quan, tổ chức, cán bộ,
công chức có quyền lợi bị xâm hại bởi một quyết định hành chính, hành vi hành
chính hoặc một quyết định kỷ luật cán bộ, công chức hoặc người đại diện hợp
pháp của những người này khi họ thực hiện quyền khiếu nại. Có nghĩa là, chủ thể
của hành vi khiếu nại phải là người bị tác động trực tiếp bởi chính đối tượng của
hành vi đó hoặc là người được những người này uỷ quyền theo quy định của pháp
luật. Trong trường hợp phát hiện thấy các quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức có biểu hiện vi phạm pháp luật, những
người không thuộc diện vừa nêu trên cũng không có quyền khiếu nại, họ chỉ có thể
“tư vấn”, “góp ý” hoặc sử dụng các hình thức tác động khác để chính người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện hành vi khiếu nại.
Ví dụ: Văn phòng luật sư ĐQ đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý làm đại diện, nhận
uỷ quyền của 1200 hộ dân đang kinh doanh tại chợ Mơ khiếu nại Uỷ ban nhân dân
quận Hai Bà Trưng. Việc này phù hợp với quy định của Luật Luật sư về lĩnh vực
hoạt động "đại diện ngoài tố tụng" của tổ chức hành nghề luật sư nhưng lại vi
phạm Luật Khiếu nại, tố cáo vì tại điểm a, khoản1, Điều 17, Luật Khiếu nại, tố
cáo quy định "người khiếu nại phải "tự mình khiếu nại; trường hợp thì được uỷ
quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người
khác để khiếu nại." và điểm b, khoản 1, Điều 17, Luật Khiếu nại, tố cáo cũng quy
định người khiếu nại chỉ được "nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình
khiếu nại". Do đó, theo quy định của pháp luật hiện hành Văn phòng luật sư ĐQ
không được nhận uỷ quyền của các hộ dân nói trên để thực hiện quyền khiếu nại.
Tuy nhiên, Dự thảo Luật KN đã mở rộng vai trò của Lsư trong quá trình giải quyết
KNHC thông qua việc ghi nhận lsư có quyền đại diện cho người KN và người bị
KN.
+ Đối với tố cáo: Chủ thể của hành vi tố cáo chỉ có thể là công dân, song cho dù
có liên quan hay không có liên quan tới hành vi vi phạm pháp luật là đối tượng của
việc tố cáo, công dân vẫn có quyền thực hiện hành vi tố cáo của mình.
- Thứ hai, xét về đối tượng của khiếu nại, tố cáo:
+ Đối tượng của khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc

quyết định kỷ luật cán bộ, công chức của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền bị người khiếu nại cho là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể khiếu nại.
Ví dụ: bà X là một công dân làm nghề tự do sinh sống trên địa bàn Phường Y, vì
nhiều nguyên nhân khác nhau, bà X biết được rằng Chủ tịch UBND quận B ban
hành quyết định thu hồi đất của ông A là trái quy định của pháp luật và gây thiệt
hại cho ông A, tuy bà X hoàn toàn không có liên quan gì đến việc đó nhưng lại
làm đơn khiếu nại về quyết định thu hồi đất của Chủ tịch UBND quận B thay cho
ông A. Đơn khiếu nại của bà X trong trường hợp này không được chấp nhận xem
xét giải quyết.
+ Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức,
cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; có nghĩa là hành vi trái pháp luật
là đối tượng của tố cáo có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người tố cáo hoặc có thể không.
Ví dụ: bà X là một công dân làm nghề tự do sinh sống trên địa bàn Phường Y, vì
nhiều nguyên nhân khác nhau, bà X biết được rằng ông A – Trưởng phòng Tài
nguyên môi trường của quận B nhận hối lộ của nhiều người, tuy bà hoàn toàn
không có liên quan gì đến việc đó nhưng do bất bình bà đã làm đơn tố cáo ông A
tới Chủ tịch quận B. Đơn tố cáo của bà X trong trường hợp này được chấp nhận và
phải được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo đúng quy định của
pháp luật.
- Thứ ba, xét về quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, người tố cáo:
+ Người tố cáo có quyền “gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền” (Điều 57, khoản 1, điểm a - Luật khiếu nại, tố cáo năm
1998). Theo đó, người tố cáo không có nghĩa vụ phải tố cáo tại đúng cơ quan có
thẩm quyền giải quyết, họ có thể tố cáo tại bất kì cơ quan, tổ chức Nhà nước nào.
Khác với khiếu nại, khi nhận được đơn tố cáo của công dân, các cơ quan, tổ chức
có trách nhiệm xem xét giải quyết hoặc chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền
tuỳ thuộc đơn tố cáo đó thuộc hay không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ

quan, tổ chức mình. Điều 66 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 quy định “trong
trường hợp tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải chuyển
đơn cho cơ quan, tổ chức, có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo
khi họ yêu cầu”.
2. Đơn đủ điều kiện xử lý là đơn đáp ứng các yêu cầu sau đây:
- Đơn có chữ viết là tiếng Việt và được người khiếu nại, người tố cáo, người phản
ánh, kiến nghị ký tên trực tiếp;
- Đơn khiếu nại phải ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại; họ, tên, địa chỉ của người
khiếu nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý do
khiếu nại và yêu cầu của người khiếu nại. Đơn tố cáo phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ
người tố cáo; nội dung tố cáo; cơ quan, tổ chức, cá nhân bị tố cáo.
- Đơn phản ánh, kiến nghị liên quan đến khiếu nại, tố cáo phải ghi rõ họ, tên, địa
chỉ của người phản ánh, kiến nghị; nội dung phản ánh, kiến nghị.
- Đơn chưa được cơ quan tiếp nhận đơn xử lý theo quy định của pháp luật hoặc đã
được xử lý theo quy định của pháp luật nhưng người khiếu nại, người tố cáo người
phản ánh, kiến nghị cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới.
3. Đơn không đủ điều kiện xử lý:
Đơn không đủ điều kiện xử lý là đơn không đáp ứng các yêu cầu nêu trên; đơn
được gửi cho nhiều cơ quan, nhiều người, trong đó đã gửi đến đúng cơ quan hoặc
người có thẩm quyền giải quyết.
4. Đơn khiếu nại có họ, tên, chữ ký của nhiều người:
Cán bộ xử lý đơn đề xuất Thủ trưởng cơ quan chuyển trả đơn và toàn bộ tài liệu
kèm theo (nếu có) cho người gửi đơn và hướng dẫn người khiếu nại,viết đơn khiếu
nại riêng của từng người, gửi đến cơ quan, đơn vị, người có thẩm quyền để được
giải quyết theo quy định của pháp luật.
5. Đơn khiếu nại có kèm theo giấy tờ, tài liệu gốc:
Trường hợp đơn khiếu nại có kèm theo giấy tờ, tài liệu gốc không được thụ lý để
giải quyết thì cơ quan nhận được đơn sau khi xử lý xong đơn phải trả lại người
khiếu nại giấy tờ, tài liệu đó; nếu được thụ lý để giải quyết thì việc trả lại được
thực hiện ngay sau khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại.

6. Đơn tố cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý:
Đơn tố cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý được thực hiện
theo Quyết định số 190-QĐ/TW ngày 29/9/2008 của Bộ Chính trị.
7. Đơn phản ánh, kiến nghị liên quan đến khiếu nại, tố cáo:
- Đơn phản ánh, kiến nghị liên quan đến khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải
quyết thì cán bộ xử lý đơn đề xuất Thủ trưởng cơ quan thụ lý giải quyết theo quy
định của pháp luật.
- Đơn phản ánh, kiến nghị liên quan đến khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền
giải quyết thì cán bộ xử lý đơn đề xuất Thủ trưởng cơ quan xem xét, quyết định
việc chuyển đơn kèm theo tài liệu (nếu có) đến cơ quan, đơn vị, người có thẩm
quyền để được giải quyết theo quy định của pháp luật.
8. Trường hợp đơn có nhiều nội dung khác nhau:
Đối với đơn có nhiều nội dung khác nhau thì cán bộ xử lý đơn phải tách riêng từng
nội dung trong đơn để xử lý. Việc xử lý nội dung khiếu nại, nội dung tố cáo và nội
dung phản ánh, kiến nghị theo quy định của khoản 3, Điều 6, Nghị định
136/2006/NĐ-CP và Thông tư 04/2010/TT-TTCP.
III. Quy trình nghiệp vụ giải quyết khiếu nại
Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành, quy trình giải quyết khiếu nại
có thể chia làm 03 giai đoạn gồm: thụ lý, chuẩn bị giải quyết khiếu nại; tiến hành
xác minh khiếu nại và kết thúc giải quyết khiếu nại.
1. Thụ lý, chuẩn bị giải quyết khiếu nại
1.1. Thụ lý để giải quyết khiếu nại
Khi nhận được khiếu nại, cần căn cứ vào các quy định của pháp luật về khiếu nại
để xác định xem vụ việc có đủ điều kiện thụ lý hay không. Sau khi xác định khiếu
nại có đủ các điều kiện để được giải quyết và thuộc thẩm quyền giải quyết thì phải
thụ lý để giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật.
+ Việc thụ lý để giải quyết khiếu nại phải được người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại ra văn bản thông báo gửi cho người khiếu nại biết; trường hợp thụ lý để
giải quyết lần 2 thì thông báo này còn phải gửi cho người giải quyết khiếu nại lần
đầu. Nội dung của thông báo gồm: ngày, tháng, năm thụ lý đơn khiếu nại, tên cơ

quan thụ lý để giải quyết; các nội dung khiếu nại được thụ lý để xem xét, giải
quyết; thời hạn tiến hành giải quyết.
+ Sau khi ra văn bản thông báo thụ lý để giải quyết khiếu nại phải mở hồ sơ giải
quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật.
1.2. Thu thập tài liệu, thông tin về khiếu nại và tham mưu xác minh để giải
quyết khiếu nại
Trên cơ sở đơn và các tài liệu mà người khiếu nại cung cấp, cán bộ thụ lý phải tiến
hành nghiên cứu kỹ để xác định nội dung khiếu nại của người khiếu nại bao gồm
những vấn đề gì, yêu cầu của người khiếu nại là như thế nào, những căn cứ mà
người khiếu nại đưa ra để chứng minh cho yêu cầu của họ có đúng pháp luật
không, đã đầy đủ chưa Đồng thời, có thể tiến hành việc tiếp xúc sơ bộ đối với
người khiếu nại. Thông thường, đối với những vụ việc khiếu nại bức xúc, kéo dài
thì người khiếu nại thường cho mình là người bị oan ức, quyền và lợi ích hợp pháp
bị xâm phạm do vậy trong đơn của họ thường không phản ánh trung thực bản chất
của vấn đề hoặc “thổi phồng” sự việc, thêm bớt tình tiết để có lợi cho mình, giấu
giếm các chứng cứ để làm sai lệch thông tin, làm lạc hướng sự nhận định của
người giải quyết khiếu nại. Do vậy, người giải quyết khiếu nại trong những trường
hợp nhất định, để làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của vụ việc mà mình chưa
rõ, cần thiết phải tiếp xúc, đối thoại với đương sự nhằm khẳng định những nội
dung khiếu nại và yêu cầu của họ, qua đó cũng có thể cung cấp thông tin thác
thêm phần nào những thông tin liên quan đến vụ việc bị khiếu nại.
Sau khi thụ lý việc khiếu nại, thu thập thông tin tài liệu liên quan, thấy các tình tiết
của vụ việc khiếu nại đã rõ ràng, có đủ căn cứ, cơ sở pháp lý để khẳng định tính
đúng, sai về nội dung khiếu nại thì cơ quan tham mưu cho người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại tổ chức đối thoại với người khiếu nại theo quy định, sau đó có
thể ban hành ngay quyết định giải quyết khiếu nại, không cần thực hiện quy trình
xác minh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định giải quyết khiếu nại
mà mình ban hành. Nếu xét thấy cần thực hiện các bước xác minh để làm rõ các
tình tiết, nội dung của việc khiếu nại trước khi ra quyết định giải quyết khiếu nại
thì cơ quan thanh tra tham mưu cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thực

hiện các thủ tục để tiến hành thành lập đoàn (hoặc tổ) xác minh khiếu nại theo quy
định.
Trường hợp việc xác minh để giải quyết khiếu nại được thực hiện bằng hoạt động
của đoàn thanh tra thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra và pháp
luật về khiếu nại, tố cáo.
1.3. Xây dựng hoạch xác minh khiếu nại
Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày ký quyết định xác minh, Trưởng đoàn xác minh
có trách nhiệm xây dựng kế hoạch xác minh, trình người ra quyết định phê duyệt.
Nội dung kế hoạch xác minh khiếu nại gồm:
a) Căn cứ pháp lý để tiến hành xác minh;
b) Mục đích, yêu cầu của việc xác minh;
c) Các nội dung cụ thể cần xác minh; những yêu cầu mà đối tượng bị khiếu nại
phải giải trình;
d) Các tài liệu, bằng chứng chủ yếu cần thu thập, kiểm tra xác minh;
đ) Dự kiến tiến độ và lịch làm việc với các cơ quan, đơn vị, cá nhân cần phải làm
việc để thu thập chứng cứ, bằng chứng;
e) Dự kiến các tình huống phát sinh trong quá trình giải quyết;
f) Các điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc xác minh.
Trưởng đoàn thanh tra xỏc minh phải phổ biến kế hoạch xác minh, phân công
nhiệm vụ, tổ chức thực hiện kế hoạch xỏc minh.
2. Tiến hành xác minh nội dung khiếu nại
Xác minh là nhằm mục đích thu thập chứng cứ, tài liệu làm cơ sở cho nhận xét
chính xác, khách quan, đúng pháp luật về vụ việc, từ đó mới đề xuất đến cấp có
thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại được chính xác, đủ căn cứ, bảo vệ
được lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Đây là khâu rất quan trọng trong quá trình xem xét, giải quyết vụ việc khiếu nại.
Khiếu nại có được giải quyết kịp thời, đúng chính sách pháp luật hay không phụ
thuộc rất nhiều vào việc xác minh, thu thập chứng cứ.
Khi tiến hành xác minh, cần phải khách quan, trung thực, chú ý tìm hiểu bản chất
của sự việc dẫn đến khiếu nại. Điều quan trọng là xác minh rõ nguồn gốc của

chứng cứ, mức độ trung thực và chính xác của chứng cứ. Tuy nhiên, trong quá
trình xác minh, cũng cần phải xem xét đến cả tính hợp pháp, tính hợp lý của vấn
đề mà các bên nêu ra. Chú ý phải lập biên bản từng vụ việc, từng nội dung xác
minh
Để tiến hành xác minh đạt kết quả tốt, cần phải vận dụng khéo léo, linh hoạt các
biện pháp nghiệp vụ nhằm thu thập thông tin, chứng cứ. Người xác minh tố cáo có
thể thu thập thông tin từ các nguồn sau:
+ Người khiếu nại: việc gặp gỡ, tiếp xúc với người khiếu nại là công việc mang
tính bắt buộc đối với người giải quyết khiếu nại lần đầu. Luật khiếu nại, tố cáo
hiện hành quy định: “Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải gặp gỡ, đối thoại
trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu
cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại”. Đối với người giải quyết
khiếu nại tiếp theo thì luật quy định: “người giải quyết khiếu nại lần tiếp theo phải
gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại trong trường
hợp cần thiết”.
+ Người bị khiếu nại: đoàn xác minh có quyền triệu tập người bị khiếu nại đến để
giải trình rõ sự việc, lời giải trình phải được thể hiện bằng văn bản chính thức do
người có thẩm quyền ký.
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan: đây là những người biết được
những thông tin liên quan đến vụ việc hoặc có mối quan hệ nào đó với nội dung
của vụ việc mà đoàn xác minh cần thiết phải gặp gỡ, tiếp xúc nhằm làm rõ những
thông tin nhất định, từ đó mới có đủ cơ sở để kết luận một cách khách quan, toàn
diện về vấn đề.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại nếu xét thấy việc thi hành quyết định hành
chính bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục thì người xác minh tố cáo kiến
nghị cấp có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó.
Quyết định tạm đình chỉ phải được gửi cho người khiếu nại hoặc người có quyền,
lợi ích liên quan. Quyết định tạm đình chỉ sẽ bị huỷ khi lý do của việc tạm đình chỉ
không còn.
Sau khi đã xác minh, thẩm tra hết các nội dung, đối tượng liên quan, đoàn xác

minh cần so sánh, đối chiếu với các văn bản pháp luật hiện hành, các quy định của
cơ quan, đơn vị người bị khiếu nại; so sánh, đối chiếu giữa các chứng cứ thu thập
được để phân tích, đi đến nhận định rõ việc khiếu nại đúng hay sai, từ đó kết luận
từng vấn đề và đưa ra phương hướng giải quyết cụ thể.
Đặc biệt chú ý khi sử dụng những thông tin do người làm chứng, người có liên
quan hoặc đối tượng xác minh cung cấp thông qua làm việc hoặc đối thoại thì
người xác minh tố cáo phải lập biên bản theo yêu cầu sau:
- Biên bản phải chính xác, cụ thể trung thực.
- Người lập biên bản không được trình bày vấn đề, nhận xét, đánh giá, kết luận
theo chủ quan của mình trong quá trình xác minh.
- Biên bản phải được phản ánh có trọng tâm, trọng điểm.
- Biên bản phải đảm bảo đầy đủ các thủ tục pháp lý.
- Khi lập biên bản cần tránh lối ghi cẩu thả, ghi miên man, dài dòng, chữ viết phải
rõ ràng, dễ đọc, không tẩy xoá, phải dùng từ phổ thông, dễ hiểu, trong sáng, rõ
nghĩa. Nếu có từ ngữ nước ngoài phải ghi theo phiên âm tiếng Việt và giải thích rõ
nghĩa.
Đặc biệt, để đảm bảo thu thập chứng cứ một cách khách quan, toàn diện thì khi đối
thoại, làm việc, người xác minh tố cáo phải thận trọng kiểm tra, đánh giá xem
những vấn đề mà họ cung cấp có đúng sự thật hay không để sử dụng vào việc đấu
tranh với đối tượng xác minh, xác định càng chính xác bao nhiêu thì giá trị chứng
cứ càng vững chắc bấy nhiêu.
Người liên quan trình bày đến đâu, phải kiểm tra ngay những vấn đề cần thiết đó.
Tránh tình trạng ghi biên bản liên miên đến cuối cùng mới kiểm tra, xác minh. Sau
mỗi lần kiểm tra tài liệu họ cung cấp, ta lại có kế hoạch và biện pháp làm việc tiếp
theo.
Ngoài ra khi đối thoại, làm việc cần áp dụng 03 phương pháp kiểm tra sau đây:
- Đối chiếu lời trình bày trước với lời trình bày sau, lời trình bày của người liên
quan này với lời trình bày của người liên quan khác;
- Đối chiếu lời trình bày của người liên quan với các tài liệu, chứng cứ đã có trong
hồ sơ và với tình hình thực tế của vụ việc đã xảy ra mà ta đã biết qua các nguồn

khác (vật chứng, giám định chuyên môn );
- Dùng các biện pháp nhận dạng, giám định, thực nghiệm, đối chất để xác minh
lời trình bày của người liên quan khi cần thiết và có đủ điều kiện. Ngoài ra ta có
thể áp dụng phương pháp kiểm tra tại chỗ; phương pháp khẳng định sự có mặt của
người liên quan trong thời gian xảy ra sự kiện; xác minh về nhân thân người liên
quan, dùng điện thoại, áp dụng công nghệ tin học (thông tin qua mạng) để kiểm
tra lời trình bày của người liên quan.
Các biện pháp trên đây bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà
kiểm tra bằng biện pháp này hay biện pháp khác. Không phải lúc nào cũng sử
dụng tất cả các biện pháp để kiểm tra. Người xác minh tố cáo phải lấy sự kiện thực
tế làm cơ sở để xác định đúng, sai, tránh vội tin ngay vào lời trình bày của người
liên quan hay kiểm tra một cách qua loa, đại khái.
Kết thúc xác minh, Trưởng đoàn xây dựng văn bản "báo cáo kết quả xác minh".
Văn bản báo cáo phải có các nội dung chính sau:
a) Tóm tắt về người khiếu nại (họ tên, địa chỉ nơi cư trú…).
b) Những nội dung khiếu nại.
c) Các căn cứ, lý do mà người khiếu nại đưa ra;
d) Kết quả kiểm tra xác minh theo từng nội dung khiếu nại, khẳng định tính đúng,
sai, có cơ sở (hoặc không có cơ sở) về từng nội dung khiếu nại.
e) Nhận xét và kiến nghị của người kiểm tra xác minh:
- Nhận xét về từng nội dung khiếu nại; kết luận về tính đúng, sai, có cơ sở (hoặc
không có cơ sở) về từng nội dung khiếu nại. Những vi phạm, thiệt hại xảy ra;
nguyên nhân và trách nhiệm của tập thể, cá nhân (nếu có).
- Kiến nghị với người giải quyết khiếu nại các biện pháp để giải quyết khiếu nại
hoặc chỉ đạo giải quyết khiếu nại; kiến nghị với người có thẩm quyền xử lý vi
phạm, khắc phục hậu quả do vi phạm gây ra (nếu có).
- Những kiến nghị khác.
3. Kết thúc giải quyết khiếu nại
- Căn cứ vào báo cáo kết quả xác minh, người đã ra quyết định xác minh phải ban
hành văn bản "kết luận về nội dung khiếu nại” hoặc kết luận thanh tra (trong

trường hợp thành lập đoàn thanh tra). Kết luận về khiếu nại phải thể hiện các nội
dung sau:
a) Tóm tắt về người khiếu nại, người bị khiếu nại.
b) Nội dung khiếu nại.
c) Tóm tắt kết quả xác minh về từng nội dung khiếu nại.
d) Kết luận về tính đúng, sai, có cơ sở (hoặc không có cơ sở) đối với từng nội
dung khiếu nại. Những vi phạm, thiệt hại xảy ra (nếu có); nguyên nhân và trách
nhiệm của tập thể, cá nhân.
e) Quyết định về việc giải quyết đối với từng nội dung khiếu nại.
Văn bản kết luận về khiếu nại phải được gửi cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức có
liên quan theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Tham mưu ban hành quyết định giải quyết khiếu nại: sau khi có kết luận về nội
dung khiếu nại, đoàn xác minh phải tham mưu người giải quyết khiếu nại phải ban
hành quyết định giải quyết khiếu nại bằng văn bản. Nội dung của quyết định giải
quyết khiếu nại và việc gửi quyết định giải quyết khiếu nại được thực hiện theo
quy định của Điều 38 của Luật khiếu nại, tố cáo (đối với việc giải quyết khiếu nại
lần đầu); và theo Điều 45 của Luật khiếu nại, tố cáo (đối với việc giải quyết khiếu
nại lần hai).
- Về vấn đề hoàn chỉnh hồ sơ giải quyết khiếu nại: Trong hoạt động thanh tra, giải
quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo, hồ sơ xác minh, hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố
cáo có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là những căn cứ, chứng cứ để đưa ra kết luận
thanh tra, quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đồng thời đó
cũng là sự thể hiện kết quả của quá trình thanh tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết
tố cáo. Chính vì vậy, ngày 24/10/2007, Tổng Thanh tra đã có Quyết định số
2278/2007/QĐ-TTCP ban hành Quy chế lập, quản lý hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải
quyết khiếu nại, hồ sơ giải quyết tố cáo. Cụ thể, hồ sơ giải quyết khiếu nại phải
gồm những loại tài liệu sau:
+ Đơn khiếu nại hoặc bản ghi lời khiếu nại;
+ Văn bản trả lời của người bị khiếu nại;
+ Biên bản thẩm tra, xác minh, kết luận, kết quả giám định;

+ Nhật ký Đoàn Thanh tra;
+ Báo cáo kết quả thanh tra;
+ Kết luận thanh tra;
+ Quyết định giải quyết khiếu nại;
+ Các tài liệu khác có liên quan.
Nếu người khiếu nại tiếp tục khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại cơ
quan toà án thì hồ sơ đó phải được chuyển cho cơ quan hoặc toà án có thẩm quyền
khi có yêu cầu.
III. Quy trình nghiệp vụ giải quyết tố cáo
Khác với khiếu nại, các bước giải quyết tố cáo chỉ được Luật Khiếu nại, tố cáo
quy định mang tính chất nguyên tắc. Tuy nhiên, ngày 15/12/2009, Thanh tra Chính
phủ đã ban hành Thông tư số 01/2009/TT-TTCP quy định về quy trình giải quyết
tố cáo (có hiệu lực ngày 01/02/2010), theo đó trình tự, thủ tục, nội dung nghiệp vụ
giải quyết tố cáo cũng bao gồm 03 giai đoạn: thụ lý, chuẩn bị giải quyết tố cáo;
tiến hành xác minh nội dung tố cáo và kết thúc giải quyết tố cáo.
1. Thụ lý, chuẩn bị giải quyết tố cáo
Sau khi xác định tố cáo có đủ các điều kiện để được giải quyết và thuộc thẩm
quyền giải quyết thì phải thụ lý để giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật.
1.1. Quyết định xác minh tố cáo:
- Khác với khiếu nại là việc giải quyết khiếu nại có thể không cần thiết phải qua
xác minh, nhưng trong tố cáo, theo quy định tại Điều 5 của Thông tư số
01/2009/TT-TTCP việc giải quyết tố cáo phải thông qua xác minh, cụ thể như sau:
“ Người giải quyết tố cáo phải ban hành quyết định xác minh tố cáo; thành lập Tổ
xác minh tố cáo hoặc Đoàn xác minh tố cáo (sau đây gọi chung là Đoàn xác
minh) có từ hai người trở lên, trong đó giao cho một người làm Tổ trưởng Tổ xác
minh hoặc Trưởng đoàn xác minh (sau đây gọi chung là Trưởng đoàn xác minh).
Quyết định xác minh tố cáo phải ghi rõ họ tên, chức vụ của từng người trong
Đoàn xác minh (sau đây gọi chung là người xác minh tố cáo), nội dung cần xác
minh, thời gian tiến hành xác minh, quyền hạn, trách nhiệm của Đoàn xác minh.
- Trường hợp cần thiết, người giải quyết tố cáo giao nhiệm vụ cho Thủ trưởng các

cơ quan thanh tra nhà nước hoặc Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc quyền quản
lý trực tiếp của mình ban hành quyết định xác minh tố cáo, kết luận, kiến nghị biện
pháp xử lý tố cáo. Việc giao nhiệm vụ của người giải quyết tố cáo thực hiện bằng
văn bản theo mẫu số 02 hoặc văn bản thông báo ý kiến chỉ đạo của người giải
quyết tố cáo theo mẫu số 03 kèm theo Thông tư này, trong đó phải quy định cụ thể
thời hạn hoàn thành việc xác minh, kết luận nội dung tố cáo.
- Trước khi ban hành quyết định xác minh tố cáo, trong trường hợp cần thiết,
người ra quyết định xác minh tố cáo tổ chức làm việc trực tiếp với người tố cáo để
làm rõ nội dung tố cáo và các vấn đề khác có liên quan.
- Quyết định xác minh tố cáo thực hiện theo mẫu số 04 ban hành kèm theo Thông
tư này. Việc thay đổi, bổ sung nội dung quyết định xác minh tố cáo phải thực hiện
bằng quyết định của người ra quyết định xác minh tố cáo.”
- Việc giải quyết tố cáo thông qua hoạt động của đoàn thanh tra thực hiện theo
Quy chế hoạt động của đoàn thanh tra và các quy định khác có liên quan khác.
1.2. Xây dựng kế hoạch xác minh tố cáo
- Nội dung kế hoạch xác minh tố cáo gồm:
+ Căn cứ pháp lý để tiến hành xác minh;
+ Mục đích, yêu cầu của việc xác minh;
+ Nội dung xác minh;
+ Các đơn vị, cá nhân cần phải làm việc để thu thập, xác minh các thông tin, tài
liệu, bằng chứng;
+ Các điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc xác minh;
+ Dự kiến thời gian thực hiện từng công việc đã xác định; thời gian dự phòng để
xử lý các công việc phát sinh nhằm đảm bảo thời hạn xác minh theo quyết định
xác minh tố cáo;
+ Thời điểm báo cáo tiến độ xác minh tố cáo, hình thức báo cáo tiến độ;
+ Các nội dung khác (nếu có).
- Trưởng đoàn xác minh có trách nhiệm xây dựng kế hoạch xác minh tố cáo trình
người ra quyết định xác minh phê duyệt trước khi tiến hành xác minh tố cáo; chủ
động thực hiện kế hoạch xác minh được duyệt và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của

người ra quyết định xác minh.
- Trường hợp người ra quyết định xác minh giao cho đơn vị trực thuộc chủ trì việc
xác minh và Trưởng đoàn xác minh thuộc sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng đơn
vị đó thì:
+ Thủ trưởng đơn vị chủ trì xác minh có trách nhiệm xét duyệt kế hoạch xác minh
tố cáo. Trưởng đoàn xác minh hoàn thiện kế hoạch xác minh theo nội dung xét
duyệt của Thủ trưởng đơn vị chủ trì xác minh và ký kế hoạch trình người ra quyết
định xác minh phê duyệt. Khi Trưởng đoàn xác minh có ý kiến khác với Thủ
trưởng đơn vị chủ trì xác minh về nội dung kế hoạch xác minh thì phải báo cáo
bằng văn bản với người ra quyết định xác minh.
+ Trong quá trình xác minh, Trưởng đoàn xác minh đồng thời chịu sự chỉ đạo trực
tiếp của người ra quyết định xác minh và Thủ trưởng đơn vị chủ trì xác minh. Khi
người ra quyết định xác minh và Thủ trưởng đơn vị chủ trì xác minh có sự chỉ đạo
mâu thuẫn nhau thì Trưởng đoàn xác minh thực hiện theo chỉ đạo của người ra
quyết định xác minh đồng thời báo cáo để Thủ trưởng đơn vị chủ trì xác minh biết
sự việc đó.
2. Tiến hành xác minh nội dung tố cáo
2.1. Giao quyết định xác minh tố cáo cho người bị tố cáo
- Trưởng đoàn xác minh có trách nhiệm giao quyết định xác minh tố cáo cho
người bị tố cáo chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ban hành quyết định xác minh tố
cáo. Trường hợp người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức thì giao quyết định xác minh
tố cáo cho người đứng đầu hoặc người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó.
Việc giao quyết định xác minh tố cáo phải lập thành biên bản có chữ ký của người
giao và người nhận quyết định. Biên bản phải lập thành ít nhất hai bản và giao một
bản cho người nhận quyết định.
- Trường hợp cần thiết, người ra quyết định xác minh tố cáo tổ chức việc công bố
quyết định xác minh tố cáo với người bị tố cáo. Khi công bố quyết định xác minh
tố cáo, người công bố quyết định đọc toàn văn quyết định xác minh tố cáo, nêu rõ
quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo; giao quyết định xác minh tố cáo và thông
báo cho người bị tố cáo biết lịch làm việc, những công việc khác có liên quan (nếu

có). Việc công bố quyết định xác minh tố cáo phải lập thành biên bản có chữ ký
của người công bố quyết định và người bị tố cáo. Biên bản phải lập thành ít nhất
hai bản và giao một bản cho người bị tố cáo.
2.2. Làm việc trực tiếp với người bị tố cáo và người tố cáo
- Người xác minh tố cáo phải làm việc trực tiếp với người bị tố cáo. Trên cơ sở
nghiên cứu, phân tích hồ sơ đã có, người xác minh tố cáo đưa ra những nội dung
cụ thể để yêu cầu người bị tố cáo giải trình bằng văn bản về những nội dung bị tố
cáo và cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung tố cáo, nội
dung giải trình. Trường hợp văn bản giải trình của người bị tố cáo, thông tin, tài
liệu, bằng chứng do người bị tố cáo cung cấp thể hiện chưa rõ hoặc chưa đầy đủ
nội dung theo yêu cầu thì người xác minh tố cáo yêu cầu người bị tố cáo tiếp tục
giải trình bằng văn bản, cung cấp thêm thông tin, tài liệu, bằng chứng hoặc làm
việc trực tiếp để yêu cầu người bị tố cáo giải thích cụ thể các vấn đề còn chưa rõ.
Nội dung làm việc với người bị tố cáo giải thích cụ thể các vấn đề còn chưa rõ.
Nội dung làm việc với người bị tố cáo được lập thành biên bản có chữ ký xác nhận
của người bị tố cáo và người xác minh tố cáo. Biên bản phải lập thành ít nhất hai
bản và giao một bản cho người bị tố cáo.
- Người xác minh tố cáo phải làm việc trực tiếp với người tố cáo để làm rõ về
những nội dung tố cáo, đồng thời yêu cầu người tố cáo cung cấp các thông tin, tài
liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung tố cáo. Nội dung làm việc với người tố
cáo phải lập thành biên bản, có chữ ký của người tố cáo, người xác minh tố cáo.
Biên bản được lưu trong hồ sơ vụ việc. Trường hợp không thể làm việc trực tiếp
với người tố cáo vì lý do khách quan hoặc theo yêu cầu của người tố cáo hoặc để
bảo vệ người tố cáo thì người ra quyết định xác minh tố cáo phải có văn bản yêu
cầu người tố cáo cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung tố
cáo.
2.3. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu,
bằng chứng liên quan đến nội dung tố cáo
- Việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu,
bằng chứng liên quan đến nội dung tố cáo thực hiện bằng văn bản của người ra

quyết định xác minh tố cáo.
- Trường hợp cần thiết, người ra quyết định xác minh tố cáo có văn bản hoặc giấy
giới thiệu cử người xác minh tố cáo đến làm việc với cơ quan, tổ chức, cá nhân
liên quan để trực tiếp yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan

×