Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về đất đai trên địa bàn huyện lạng giang, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 124 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





LƯƠNG VĂN BƯỜNG



ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ
CÁO VÀ TRANH CHẤP VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG


CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ: 60.85.01.03


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS.HỒ THỊ LAM TRÀ


HÀ NỘI, NĂM 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tất cả các số
liệu trên địa bàn nghiên cứu của luận văn là trung thực, chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ luận văn nào khác và xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong
luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin cảm ơn mọi sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện
tốt luận văn này.


Tác giả luận văn


Lương Văn Bường








Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi
xin chân thành cảm ơn Quý Thầy - Cô giáo Học viện Nông nghiệp Việt Nam và
Khoa Quản lý đất đai, Ban quản lý Đào tạo, đã tận tình truyền đạt cho tôi những
kiến thức quí báu và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học

tập tại trường và viết luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, xin chân thành cảm ơn cô giáo, PGS.TS. Hồ Thị Lam Trà, người
hướng dẫn khoa học tận tình, chu đáo đã giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi có thể hoàn
thành luận văn này.
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới cán bộ các phòng ban thuộc: Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Bắc Giang; Uỷ ban nhân dân huyện, Thanh tra huyện, phòng
Tài nguyên và Môi trường huyện Lạng Giang; Uỷ ban nhân dân các xã, thị trấn;
Cán bộ và nhân dân trên địa bàn nghiên cứu đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình
thu thập số liệu.
Tôi xin cảm ơn cơ quan, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã động viên giúp
đỡ tôi cả về vật chất lẫn tinh thần để tôi hoàn thành đề tài này.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2014



Lương Văn Bường

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
Danh mục các hình viii
MỞ ĐẦU 1

1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục đích nghiên cứu 2
3 Yêu cầu của đề tài 2
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1 Cơ sở lý luận các vấn đề nghiên cứu 4
1.1.1 Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai 4
1.1.2 Tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai 6
1.1.3 Tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đất đai 8
1.1.4 Một số khái niệm trong quản lý đất đai liên quan đến vấn đề nghiên cứu 10
1.2 Cơ sở thực tiễn của các vấn đề nghiên cứu của một số nước trên thế giới 12
1.2.1 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 12
1.2.2 Hàn Quốc 12
1.2.3 Đài Loan 12
1.2.4 Cộng hòa Pháp và Cộng hòa liên bang Đức 13
1.2.5 Hoa kỳ 13
1.3 Tính pháp lý và cơ sở thực tiễn về các vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam 14
1.3.1 Chủ trương, chính sách của Đảng và công tác chỉ đạo về giải quyết
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai 14
1.3.2 Căn cứ pháp lý về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về
đất đai của các cơ quan hành chính Nhà nước 16
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

1.3.3 Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh
chấp về đất đai hiện nay 20
1.3.4 Khái quát thực trạng tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai
và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai hiện nay 26
1.4 Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 28
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.1 Đối tượng nghiên cứu 31

2.2 Phạm vi nghiên cứu 31
2.3 Nội dung nghiên cứu 31
2.4 Phương pháp nghiên cứu 31
2.4.1 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp 31
2.4.2 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp 32
2.4.3 Phương pháp phân tích, thống kê và xử lý số liệu 33
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
3.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và công tác quản lý
nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện Lạng Giang 35
3.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Lạng Giang 35
3.1.2 Công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện 36
3.2 Khái quát tình hình khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai trên địa
bàn huyện Lạng Giang 41
3.2.1 Tình hình KNTC, TCĐĐ 41
3.2.2 Các nội dung KNTC và TCĐĐ 46
3.2.3 Nguyên nhân dẫn đến khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai 49
3.3 Đánh giá kết quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp
đất đai trên địa bàn huyện 55
3.3.1 Sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện pháp luật đối
với công tác giải quyết KNTC và TCĐĐ 55
3.3.2 Hiện trạng cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân, giải
quyết đơn thư KNTC 57
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.3.3 Đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan
HCNN 62
3.3.4 Kết quả cụ thể về giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai
trên địa bàn huyện Lạng Giang 64

3.3.5 Đánh giá những kết quả đạt được trong công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo, tranh chấp đất đai và nguyên nhân 69
3.3.6 Những tồn tại, hạn chế trong công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai và nguyên nhân 72
3.3.7 Một số trường hợp nghiên cứu điển hình về giải quyết khiếu nại, tố
cáo, tranh chấp về đất đai 77
3.3.8 Những bài học kinh nghiệm rút ra từ công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo, tranh chấp về đất đai 84
3.4 Giải pháp tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh
chấp đất đai của UBND huyện Lạng Giang 85
3.4.1 Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai,
pháp luật khiếu nại và các văn bản quy phạm pháp luật khác cho
nhân dân ở huyện Lạng Giang 85
3.4.2 Tổ chức tốt khâu tiếp công dân, phân loại và xử lý đơn gắn với
trách nhiệm giải quyết khiếu nại 87
3.4.3 Nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức cho cán bộ, công
chức có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về
đất đai 88
3.4.4 Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và phát huy vai trò
của các tổ chức chính trị - xã hội trong huyện đối với hoạt động giải
quyết khiếu nại về đất đai 90
3.4.5 Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, ứng dụng công nghệ thông tin
trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo 91
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 92
1 Kết luận 92
2 Kiến Nghị 93
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

Tài liệu tham khảo 95

Phụ lục 99

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Cụm từ được viết tắt
CBCC Cán bộ công chức
CNTT Công nghệ thông tin
GCNQSD

Giấy chứng nhận quyền sử dụng
GPMB Giải phóng mặt bằng
GTSX Giá trị sản xuất
HCNN Hành chính nhà nước
HĐND Hội đồng nhân dân
HVHC Hành vi hành chính
KNTC Khiếu nại, tố cáo
QĐHC Quyết định hành chính
QPPL Quy phạm pháp luật
QSDĐ Quyền sử dụng đất
TCĐĐ Tranh chấp đất đai
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
UBND

Uỷ ban nhân dân
VPPL Vi phạm pháp luật

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC CÁC BẢNG


STT Tên bảng Trang

1.1 Danh mục các văn bản pháp luật quy định về giải quyết khiếu nại,
tố cáo và tranh chấp đất đai 18
1.2 Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, tranh chấp trong lĩnh
vực đất đai của UBND tỉnh Bắc Giang từ năm 2009 – 2013 27
3.1 Thống kê diện tích đất đai của huyện Lạng Giang 36
3.2 Kết quả sản xuất và cơ cấu kinh tế của huyện từ năm 2009-2013 35
3.3 Kết quả cấp Giấy chứng nhận các loại đất trên địa bàn huyện Lạng
Giang (tính đến ngày 31/12/2013) 38
3.4 Tổng hợp các công trình, dự án giao đất, cho thuê đất từ năm
2009-2013 39
3.5 Tổng hợp các nguồn thu từ đất giai đoạn 2009 - 2013 40
3.6 Tình hình tiếp nhận đơn KNTC, tranh chấp giai đoạn 2009 - 2013 42
3.7 Phân loại, xử lý đơn thư KNTC và tranh chấp thuộc thẩm quyền
giải quyết trong lĩnh vực đất đai 44
3.8 Nội dung khiếu nại về đất đai thường xảy ra trên địa bàn huyện 46
3.9 Nội dung tố cáo về đất đai thường xảy ra trên địa bàn huyện 48
3.10 Nội dung tranh chấp về đất đai thường xảy ra trên địa bàn huyện 49
3.11 Các văn bản chỉ đạo, giải quyết KNTC sau khi có Thông báo số
130-TB/TW của Bộ Chính trị 56
3.12 Hiện trạng hạ tầng công nghệ thông tin tại các đơn vị 58
3.13 Thực trạng cán bộ tham gia công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và
tranh chấp đất đai 60
3.14 Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tranh chấp trong lĩnh vực đất
đai giai đoạn 2009 – 2013 65
3.15 Kết quả giải quyết đơn tố cáo trong lĩnh vực đất đai giai đoạn 2009
- 2013 68


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC CÁC HÌNH

STT Tên hình Trang

1.1 Sơ đồ về giải quyết khiếu nại các QĐHC, hành vi hành chính (các
quyết định, hành vi hành chính theo Điều 162 Nghị định
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004) 22
1.2 Sơ đồ về giải quyết khiếu nại các QĐHC, hành vi hành chính theo
pháp luật về đất đai, pháp luật về khiếu nại (các quyết định, hành vi
từ cấp tỉnh trở xuống) 23
3.1 Bản đồ hành chính huyện Lạng Giang 35
3.2 Cơ cấu kinh tế huyện Lạng Giang năm 2013 37
3.3 Kết quả giải quyết đơn thư KNTC giai đoạn 2009 - 2013 65



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khiếu nại tố cáo (KNTC) là quyền cơ bản của công dân, là một trong
những phương thức thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy Nhà
nước. Đồng thời, tổ chức thực hiện tốt quyền này là cơ sở để củng cố mối quan
hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. KNTC được quy định trong Hiến pháp,
là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị xâm

phạm, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khiếu nại tố cáo, tranh chấp đất đai (TCĐĐ) là một hiện tượng xảy ra phổ
biến trong xã hội; đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,
Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý mới bằng việc trả lại đất đai những giá trị
vốn có thì TCĐĐ phát sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng
như tính chất phức tạp về mặt nội dung. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến
công tác giải quyết KNTC, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
cả hệ thống chính trị. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị
quyết như Chỉ thị số 09/CT-TW ngày 06/03/2002, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày
18/5/2012, Nghị quyết số 39/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về giải quyết
KNTC, tranh chấp trong lĩnh vực đất đai. Tuy nhiên, tình hình KNTC vẫn có
những diễn biến phức tạp, có những công dân thường xuyên KNTC không
đúng sự thật, lôi kéo, xúi giục người khác, đã và đang làm ảnh hưởng đến sự
ổn định chính trị, xã hội, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Theo số liệu thống kê năm
2012 của Chính phủ, trong tổng số đơn KNTC hàng năm các cơ quan HCNN
nhận được có khoảng 70% là đơn KNTC và TCĐĐ.
Từ năm 2009 đến nay Công tác giải quyết KNTC, tranh chấp về đất đai
của các cơ quan Nhà nước tại tỉnh Bắc Giang nói chung và huyện Lạng Giang
nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định, tạo cơ sở cho việc bảo đảm và
tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Tuy nhiên, bên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

cạnh đó vẫn tồn tại một số yếu kém, hạn chế và bất cập trong công tác này như:
hệ thống văn bản pháp luật thiếu đồng bộ; lực lượng cán bộ giải quyết KNTC về
đất đai còn thiếu; một số cán bộ có thẩm quyền giải quyết KNTC còn thiếu trách
nhiệm, chưa nhận thức đầy đủ về công tác giải quyết KNTC về đất đai. Trong
quá trình giải quyết còn vi phạm quy định về thời hạn theo luật định; hiệu quả
giải quyết chưa cao; vẫn xảy ra tình trạng KNTC về đất đai kéo dài chưa được

giải quyết một cách triệt để.
Giải quyết KNTC và TCĐĐ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong
công tác quản lý nhà nước về đất đai. Kết quả giải quyết tranh chấp, KNTC góp phần
ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, đảm bảo pháp chế xã
hội chủ nghĩa, kỷ luật trong quản lý nhà nước và là phương thức để bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Vì vậy, việc tăng
cường công tác giải quyết KNTC, TCĐĐ của các cơ quan HCNN là rất cần thiết.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật đất đai, pháp luật KNTC, xuất phát
từ thực tiễn công tác giải quyết KNTC, TCĐĐ trên địa bàn huyện Lạng Giang,
để góp phần đổi mới, tăng cường công tác giải quyết KNTC, TCĐĐ và công tác
quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện Lạng Giang, chúng tôi chọn đề
tài: “Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp tăng cường công tác giải quyết
KNTC và TCĐĐ trên địa bàn huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang” làm đề tài
nghiên cứu cho Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý đất đai.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình giải quyết KNTC, tranh chấp về đất đai và đánh giá thực
trạng công tác giải quyết đơn thư, KNTC về đất đai trên địa bàn huyện Lạng Giang từ
01/01/2009 đến 31/12/2013, từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu để tăng cường công
tác giải quyết KNTC, TCĐĐ trên địa bàn huyện trong những năm tiếp theo, góp phần
tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện Lạng Giang.
3. Yêu cầu của đề tài
- Đảm bảo tính chính xác, khách quan của số liệu thu thập được.
- Những giải pháp, kiến nghị, đề xuất phải phù hợp với thực tế tại
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

địa phương.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4


Chương 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở lý luận các vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
1.1.1.1. Khái niệm khiếu nại
Về lịch sử xuất hiện, thuật ngữ “khiếu nại” ở Việt Nam được sử dụng lần
đầu tiên trong văn bản chính thức của Nhà nước Việt Nam, đó là Sắc lệnh số
64/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 23/11/1945 về Thành lập Ban Thanh tra
đặc biệt. Tại Điều 2 Sắc lệnh số 64/SL quy định: “…Ban Thanh tra đặc biệt có
toàn quyền: Nhận các đơn khiếu nại của nhân dân…”. Khiếu nại của nhân dân ở
đây là sự khiếu nại đối với chính quyền khi người khiếu nại cho rằng cán bộ,
nhân viên nhà nước đang làm việc trong chính quyền có những hành vi VPPL
hoặc vi phạm quyền lợi của mình. Thực chất, đó chính là sự khiếu nại những
hành vi nảy sinh trong bộ máy HCNN, do những người làm trong các cơ quan
HCNN thực hiện.
Theo Từ điển Luật học Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006)
“Khiếu nại hành chính là yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét
lại QĐHC, hành vi hành chính hoặc quyết định kỉ luật cán bộ, công chức, viên chức
khi có căn cứ cho rằng các quyết định hay hành vi đó xâm phạm đến quền, lợi ích
hợp pháp cuả mình ”. Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đã đưa ra
nhiều định nghĩa, khái niệm về khiếu nại. Theo Nguyễn Ngọc Điệp (2008), khiếu
nại là việc yêu cầu cơ quan nhà nước, trước tiên là tổ chức xã hội hoặc người có
chức vụ giải quyết việc phạm quyền hoặc lợi ích hợp pháp của bản thân người
khiếu nại hay người khác. Theo Nguyễn Như Ý (2009), khiếu nại là: “thắc mắc
về những kết luận, quyết định do cơ quan có thẩm quyền đã làm”. Theo Hoàng
Phê (2010), khiếu nại là: “đề nghị cơ quan có thẩm quyền xét một việc làm mà
mình không đồng ý, cho là trái phép hay không hợp lý”.
Nhằm bảo đảm quyền khiếu nại của công dân, các bản Hiến pháp năm
1959, năm 1980, năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 của nước ta đều quy định về
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5

quyền khiếu nại của công dân. Tại Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi
người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về
những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, GQKN, tố cáo, người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của
pháp luật; nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Dưới góc độ pháp lý tại Điều 2 Luật KNTC năm 1998 (Sửa đổi, bổ sung năm
2004 và 2005); Luật khiếu nại năm 2011 thì: Khiếu nại là việc công dân, cơ quan,
tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại QĐHC, hành vi hành chính của
cơ quan HCNN, của người có thẩm quyền trong cơ quan HCNN hoặc quyết định
kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là
trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tại Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 giải thích một số khái niệm có liên
quan đến khiếu nại, cụ thể:
Người khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức
thực hiện quyền khiếu nại.
Người bị khiếu nại là cơ quan HCNN hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan HCNN có QĐHC, hành vi hành chính bị khiếu nại; cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền có quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại.
Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại.
Quyết định hành chính (QĐHC) là văn bản do cơ quan HCNN hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan HCNN ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể
trong hoạt động quản lý HCNN được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể.
Hành vi hành chính (HVHC) là hành vi của cơ quan HCNN, của người có

thẩm quyền trong cơ quan HCNN thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

công vụ theo quy định của pháp luật.
Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức
thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải
quyết khiếu nại.
1.1.1.2. Giải quyết khiếu nại
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đồng bào có oan ức hoặc chưa hiểu rõ chính
sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Câu nói đó thể hiện sự chia sẻ và
quan điểm vì dân, luôn luôn đứng về phía người dân của Người. Dù công việc
khiếu nại là công việc phức tạp nhưng phải luôn luôn thấu triệt cách nhìn nhận và
đánh giá đúng thì mới có một thái độ đúng đắn trong khi tiếp nhận và giải quyết
khiếu nại của công dân. Đó cũng chính là yêu cầu đòi hỏi đặt ra cho các cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải làm cho nhân dân hiểu rõ.
Theo khoản 11, Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011 thì giải quyết khiếu nại là
việc cơ quan Nhà nước thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu
nại. Theo khoản 6, Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011 thì người giải quyết khiếu nại
là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo quy định của
pháp luật.
Như vậy có thể hiểu giải quyết khiếu nại về đất đai là việc cơ quan HCNN
tiến hành kiểm tra, xác minh, kết luận về tính hợp pháp, hợp lý của QĐHC, hành
vi hành chính trong lĩnh vực đất đai bị khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của
các cơ quan HCNN để có biện pháp giải quyết theo quy định của pháp luật nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và lợi ích chung
của nhà nước và xã hội.
1.1.2. Tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai

1.1.2.1. Khái niệm tố cáo
Tố cáo là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Tố cáo
được quan niệm khác nhau tùy theo mức độ, phạm vi, đối tượng tố cáo.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

Dưới góc độ xã hội thì tố cáo thể hiện sự bất bình của người này về hành vi
của người khác và báo cho cơ quan, tổ chức và người khác biết để có thái độ, biện
pháp giải quyết. Tố cáo phản ánh những điều bất ổn trong xã hội cần được thiết chế
chính trị - xã hội có phương thức giải quyết.
Dưới góc độ chính trị - pháp lý, tố cáo là quyền của công dân, là phương
thức để công dân giám sát quyền lực nhà nước, bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã
hội và công dân.
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, tố cáo là “vạch rõ tội lỗi của
người khác trước cơ quan pháp luật hoặc trước dư luận”, theo nghĩa này, tố
cáo hướng tới tất cả mọi sự vi phạm, có thể là vi phạm pháp luật hoặc đạo
đức, tập quán, điều lệ… Theo Nguyễn Lân (2006), “tố” là vạch tội, “cáo” là
báo cho người khác biết, tố cáo là vạch tội của người nào cho mọi người biết.
Theo Ngọc Xuân Quỳnh (2009), tố cáo là “nói rõ việc làm sai trái của ai trước
cơ quan pháp luật hoặc trước dư luận”.
Theo khoản 1, Điều 2, Luật Tố cáo năm “Tố cáo là việc công dân theo thủ
tục do luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về
hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.
Như vậy, tố cáo thực chất là việc công dân phát hiện và thông báo chính thức với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những hành vi vi phạm pháp luật nào đó diễn ra
trong đời sống xã hội có thể liên quan hoặc không liên quan trực tiếp đến quyền và
lợi ích của mình. Tố cáo thể hiện sự phản ứng của công dân trước hành vi vi phạm
pháp luật của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Tại Điều 2, Luật Tố cáo năm 2011 giải thích một số khái niệm có liên quan

đến Tố cáo và giải quyết tố cáo cụ thể:
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ là việc công dân báo cho cơ quan , tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là
việc công dân báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền biết về hành vi vi
phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đối với việc chấp hành quy
định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
Người tố cáo là công dân thực hiện quyền tố cáo
Người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo
Người giải quyết tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải
quyết tố cáo.
1.1.2.2. Giải quyết tố cáo
Điều 139 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Cá nhân có quyền tố cáo
VPPL về quản lý và sử dụng đất đai. Việc giải quyết tố cáo VPPL về quản lý và
sử dụng đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về KNTC”. Trình tự thủ
tục giải quyết KNTC về đất đai sẽ thực hiện theo các quy định của Luật Khiếu
nại, Luật Tố cáo.
Theo quy định Luật Tố cáo năm 2011 thì giải quyết tố cáo là việc tiếp
nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải
quyết tố cáo.
Giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai: là việc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh, kết luận về tính hợp pháp của hành vi
bị tố cáo liên quan đến lĩnh vực đất đai để có biện pháp giải quyết theo quy định
của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức.

1.1.3. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đất đai
1.1.3.1. Khái niệm tranh chấp, tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai (TCĐĐ) hiểu theo nghĩa rộng là biểu hiện sự mâu
thuẫn, bất đồng trong việc xác định quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng đối với đất đai, phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong lĩnh vực quản lý và
sử dụng đất đai.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “tranh chấp” là: (1) Giành nhau một cách
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

giằng co cái không rõ thuộc về bên nào và (2) Đấu tranh giằng co khi có ý
kiến bất đồng thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên. Việc “giành
nhau” này có thể bằng hành động trực tiếp (chiếm trực tiếp), cũng có thể mới
ở phần ý kiến (đòi cơ quan có thẩm quyền phải công nhận cho mình thay vì
cho người khác). Việc giành nhau này không chỉ “giữa hai bên” như Từ điển
nêu mà có thể giữa nhiều bên.
Trong thực tế, TCĐĐ được hiểu là sự tranh chấp về quyền quản lý, quyền
sử dụng xung quanh một khu đất cụ thể mà mỗi bên đều cho rằng mình phải
được quyền đó do pháp luật quy định và bảo hộ. Vì vậy, họ không thể cùng nhau
tự giải quyết các tranh chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phân xử
(giải quyết).
Dưới góc độ pháp lý theo khoản 26, Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 định
nghĩa “TCĐĐ là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa
hai hay nhiều bên trong quan hệ đất đai”.
Như vậy TCĐĐ có thể hiểu là việc tranh chấp phát sinh giữa cá nhân và
cá nhân hoặc giữa cá nhân và tổ chức hoặc giữa tổ chức và tổ chức (giữa các chủ
thể tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai) với nhau về quyền sử dụng đất mà
một trong các chủ thể cho rằng quyền sử dụng đất của họ bị bên kia vi phạm thì
có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp buộc bên kia chấm
dứt hành vi vi phạm, khắc phục lại tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại

(nếu có) do hành vi vi phạm gây ra. Trong TCĐĐ, chủ thể tham gia tranh chấp
thực chất không phải là chủ sở hữu mà họ chỉ được Nhà nước giao đất để sử
dụng theo quy định của pháp luật, các chủ thể đều bình đẳng với nhau về quyền
và nghĩa vụ trước pháp luật.
1.1.3.2. Giải quyết tranh chấp
Có thể nói, TCĐĐ là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích,
về quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất
đai, cần được nhà nước giải quyết theo quy định của pháp luật.
Theo Nguyễn Ngọc Hoà (1999), "Giải quyết TCĐĐ là giải quyết bất đồng,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức và trên cơ sở đó phục hồi các quyền lợi
hợp pháp bị xâm hại đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi VPPL
về đất đai".
Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xem xét giải quyết TCĐĐ là một
trong những biện pháp quan trọng để pháp luật đất đai phát huy được vai trò
trong đời sống xã hội. Thông qua việc giải quyết TCĐĐ, Nhà nước điều chỉnh
các quan hệ đất đai cho phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của xã hội. Đồng
thời, giáo dục ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật cho mọi công dân, ngăn
ngừa những VPPL có thể xảy ra.
Theo Trần Minh Hương (2007), việc giải quyết TCĐĐ là tìm ra giải pháp
đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân. Trên cơ sở đó phục hồi các quyền lợi hợp pháp cho bên bị xâm
phạm đồng thời bắt buộc bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả pháp lý do
hành vi của họ gây ra.
Như vậy, giải quyết TCĐĐ là việc vận dụng đúng đắn các quy định của
pháp luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Theo Điều 135, Luật Đất đai 2003: Nhà nước khuyến khích các bên TCĐĐ
tự hoà giải hoặc giải quyết TCĐĐ thông qua hoà giải ở cơ sở. TCĐĐ mà các bên

tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn đến UBND xã, phường, thị trấn nơi có
đất tranh chấp. UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác
để hoà giải TCĐĐ. Thời hạn hoà giải là ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày UBND
xã, phường, thị trấn nhận được đơn. Kết quả hoà giải TCĐĐ phải được lập thành
biên bản có chữ ký của các bên tranh chấp và xác nhận của UBND xã, phường, thị
trấn nơi có đất. Trường hợp kết quả hoà giải khác với hiện trạng sử dụng đất thì
UBND xã, phường, thị trấn chuyển kết quả hoà giải đến cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để giải quyết theo quy định về quản lý đất đai.
1.1.4. Một số khái niệm trong quản lý đất đai liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

Quản lý Nhà nước về đất đai: Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 quy định: “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lý ”; Hiến pháp năm 2013 (được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013) quy
định: " Đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý". Luật Đất đai 2003 cũng quy định: “Đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”. Tại Điều 1, Luật Đất đai
2013 “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy
định của Luật này”. Điều này đã khẳng định được tính chất quan trọng của đất
đai. Đồng thời, đây là cơ sở pháp lý để Nhà nước thống nhất quản lý đất đai
nhằm đưa chính sách quản lý và sử dụng đất đúng đối tượng, đúng mục đích và
có hiệu quả. Trong đó có nội dung về giải quyết KNTC trong việc quản lý và sử
dụng đất đai.
Theo Điều 4, Luật Đất đai 2003 có quy định cụ thể về các khái niệm liên quan:
- Giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng QĐHC cho đối
tượng có nhu cầu sử dụng đất.

- Thu hồi đất: là việc Nhà nước ra QĐHC để thu lại quyền sử dụng đất hoặc
thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định.
- Bồi thường là trả lại tương xứng giá trị hoặc công lao cho một chủ thể
nào đó bị thiệt hại vì mọi hành vi của chủ thể khác. Bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị
thu hồi cho người bị thu hồi đất.
- Hỗ trợ Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị
thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời
đến địa điểm mới.
- Giá quyền sử dụng đất là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do
Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một
diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định.
- Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối
với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất.
1.2. Cơ sở thực tiễn của các vấn đề nghiên cứu của một số nước trên thế giới
1.2.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là nước thành lập hệ thống Tòa hành chính
từ những năm 1990. Luật tố tụng hành chính Trung Quốc có những điều khoản
liên quan đến khiếu nại hành chính. Khiếu nại hành chính không phải là một
trình tự bắt buộc. Người khiếu nại không buộc phải khiếu nại tới cơ quan hành
chính trước khi khởi kiện ra toà án. Tuy nhiên, nếu luật hoặc văn bản pháp quy
có quy định thì nó trở thành điều kiện bắt buộc. Cơ quan hành chính phải giải
quyết khiếu nại trong thời gian hai tháng kề từ ngày nhận được khiếu nại. Trường

hợp không có sự thống nhất quá trình khiếu nại hành chính, người khiếu nại có
thể kiện ra Toà án hành chính trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thống
báo trả lời của cơ quan hành chính (Đinh Văn Minh, 2009).
1.2.2. Hàn Quốc
Thụy Điển có Tòa hành chính thực hiện việc xét xử các vụ án hành chính.
Tòa hành chính được thành lập từ năm 1909, song hiện nay pháp luật Thụy Điển
vẫn quy định các cơ quan hành chính và Tòa hành chính có thẩm quyền ngang
nhau trong việc giải quyết tranh chấp hành chính. Khiếu nại của công dân có thể
được giải quyết theo thứ bậc hành chính mà không cần phải kiện ra Tòa hành
chính và trong trường hợp này pháp luật Thụy Điển có những quy định cụ thể
nhằm tránh tình trạng cùng một vụ việc nhưng cả cơ quan hành chính và Tòa
hành chính đều thụ lý giải quyết (Đinh Văn Minh, 1995).
1.2.3. Đài Loan
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

Đối với Đài Loan, theo Luật xét xử của Tòa hành chính ban hành năm
1932, được sửa đổi, bổ sung năm 1975 thì khi công dân cho rằng quyền lợi của
mình bị xâm hại bởi một QĐHC của cơ quan nhà nước trung ương hoặc cơ quan
hành chính địa phương, họ có quyền khởi kiện lên Tòa hành chính nếu không
đồng ý với việc giải quyết của cơ quan có thẩm quyền hoặc trong thời hạn 02
tháng mà họ không được giải quyết. Như vậy, muốn khởi kiện vụ án hành chính
thì vụ việc phải được giải quyết qua giai đoạn tiền tố tụng hành chính (Đinh Văn
Minh, 2009).
1.2.4. Cộng hòa Pháp và Cộng hòa liên bang Đức
Việc giải quyết khiếu nại hành chính ở Cộng hoà Pháp và Cộng hoà Liên
bang Đức được giao cho một cơ quan xét xử đặc biệt là các toà án hành chính
độc lập hoàn toàn với các toà án tư pháp. Cộng hòa Pháp là nước có lịch sử hơn
200 năm về tổ chức, thực hiện hoạt động tài phán hành chính; Cộng hòa liên
bang Đức có Tòa án hành chính từ nửa sau thể kỷ 19. Đến nay, cả hai nước này

đều có hệ thống cơ quan tài phán hành chính được tổ chức và hoạt động rất chặt
chẽ, song việc giải quyết khiếu nại hành chính vẫn được coi trọng. Nguyên nhân
là do các nước này quan niệm rằng Tòa án hành chính chỉ giải quyết tính hợp
pháp của các QĐHC mà không thể giải quyết được các vấn đề phức tạp phát sinh
trong quá trình quản lý, điều hành kinh tế xã hội như các cơ quan hành chính.
(Nguyễn Thị Phượng, 2010).
1.2.5. Hoa kỳ
Hoa Kỳ là nhà nước liên bang, do vậy việc tổ chức thực hiện hoạt động
giải quyết khiếu nại hành chính cũng có những nét đặc thù so với các quốc gia
khác. Theo báo cáo kết quả nghiên cứu, khảo sát về giải quyết khiếu nại hành
chính tại Hoa Kỳ của Ủy ban pháp luật Quốc hội thì việc tổ chức các cơ quan
giải quyết khiếu kiện hành chính ở Hoa Kỳ chia làm ba loại:
Loại thứ nhất, là cơ quan giải quyết khiếu nại hành chính độc lập và chúng
ta vẫn thường gọi là cơ quan Tài phán hành chính. Hiện nay có 26 trên tổng số 53
bang của Hoa Kỳ có cơ quan này.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

Loại thứ hai, là cơ quan giải quyết khiếu nại hành chính được tổ chức
trong chính cơ quan hành chính, nhưng chuyên trách hóa- tức là những người
trong cơ quan này chỉ có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết khiếu nại đối với
các QĐHC trong lĩnh vực quản lý của cơ quan mình. Chẳng hạn như cơ quan giải
quyết khiếu kiện về phát minh sáng chế và đăng ký nhãn hiệu hàng hóa (patent &
trademark) nằm trong Ủy ban phát minh sáng chế và đăng ký nhãn hiệu hàng
hóa. Trong trường hợp bị từ chối thì đương sự có thể gửi đơn đến Tòa án tư pháp
để giải quyết khiếu kiện.
Loại thứ ba, trong một số lĩnh vực quản lý không có cơ quan chuyên trách
giải quyết khiếu nại hành chính mà chỉ có một bộ phận chịu trách nhiệm tiếp
nhận và giải quyết các khiếu nại trong ngành và lĩnh vực đó - điển hình là Hải
quan Hoa Kỳ. Trong lĩnh vực hải quan, pháp luật Hoa Kỳ cho phép đương sự có

thể kiện ra Tòa án hoặc khiếu nại bằng con đường hành chính. Trên thực tế 90%
vụ việc đương sự chọn con đường khiếu nại hành chính vì vụ việc sẽ được giải
quyết nhanh hơn, đồng thời đỡ tốn kém hơn nếu khiếu kiện ra Tòa án. Ngoài ra,
ở Hoa Kỳ còn có cơ quan độc lập chuyên giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật
công chức, có tên gọi là Merit systems protection board.
Pháp luật Hoa Kỳ quy định trường hợp tranh chấp hành chính đã được cơ
quan hành chính hoặc cơ quan tài phán hành chính giải quyết mà đương sự vẫn
tiếp tục khiếu kiện tới Tòa án thì Tòa án không xem xét lại nội dung sự việc mà
chỉ xem xét việc áp dụng pháp luật của cơ quan hành chính hoặc cơ quan chuyên
trách giải quyết khiếu nại hành chính trong quá trình giải quyết trước đó (Đinh
Văn Minh, 2010).
1.3. Tính pháp lý và cơ sở thực tiễn về các vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam
1.3.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và công tác chỉ đạo về giải quyết
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai
Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác tiếp công dân, giải quyết
KNTC, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, gắn với việc xây dựng bộ máy nhà
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

nước ngày càng trong sạch, vững mạnh. Các Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 (được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày
28/11/2013) đều ghi nhận quyền KNTC là một trong những quyền cơ bản của
công dân và quy định việc KNTC phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng,
theo quy định của pháp luật.
Để phát huy và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại của cả hệ
thống chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 09- CT/TW
ngày 06/3/2002 về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết
khiếu nại hiện nay. Kết luận số 130/TB-TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị về
tình hình kết quả giải quyết KNTC từ năm 2006 đến nay và giải pháp trong thời

gian tới. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản, chỉ thị nhằm khắc
phục những tồn tại, hạn chế, chấn chỉnh và tăng cường công tác của công tác tiếp
công dân, giải quyết KNTC Những nội dung này thể hiện rất rõ và cụ thể
những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xác định: tiếp dân, giải
quyết KNTC của công dân là trách nhiệm của người lãnh đạo, quản lý. Nghị
quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về tiếp tục
đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại nhấn mạnh: “Các cơ quan có thẩm quyền phải tập
trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các tranh chấp, KNTC về đất đai theo đúng
quy định của pháp luật về KNTC, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự; công bố
công khai kết quả giải quyết” .
Ngày 23/11/2012, tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII đã thông qua
Nghị quyết số 39/2012/QH13 "Về việc tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực
hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết KNTC của công dân đối với các
QĐHC về đất đai" đã chỉ rõ: “Thủ trưởng các cơ quan HCNN theo thẩm quyền
chủ động xem xét từng vụ việc tranh chấp, KNTC về đất đai trong phạm vi quản
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

lý để giải quyết kịp thời, dứt điểm, công bố công khai kết quả giải quyết, không
để khiếu kiện vượt cấp, diễn biến phức tạp, khiếu kiện đông người; chịu trách
nhiệm về việc giải quyết tranh chấp, KNTC ”.
Ngày 26/5/2014 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về tăng cường
sự lãnh đào của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Có thể nói, tranh chấp, khiếu kiện đất đai đang là một thách thức đối với
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc giải quyết dứt điểm, có hiệu quả vấn
đề này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc duy trì sự ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội trong cả nước và ở từng địa phương. Đổi mới công tác giải quyết
TCĐĐ, KNTC trong lĩnh vực đất đai, tiếp nhận ý kiến phản hồi từ tổ chức, cá

nhân để hoàn thiện và xây dựng hệ thống quản lý đất đai (thể chế, bộ máy tổ
chức), quan tâm thấu đáo lợi ích thiết thực của người dân để giải quyết tranh
chấp khiếu kiện về đất đai đạt hiệu quả cao, góp phần ổn định tình hình an ninh,
chính trị xã hội là vấn đề cấp bách, là yêu cầu đang đặt ra hiện nay đối với các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
1.3.2. Căn cứ pháp lý về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về đất
đai của các cơ quan hành chính Nhà nước
Để cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và tạo cơ sở pháp lý
cho công tác giải quyết KNTC, TCĐĐ, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
quy định về trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan HCNN, trình tự, thủ tục giải
quyết các KNTC và TCĐĐ. Các văn bản đã được ban hành qua các thời kỳ, thể
hiện sự thay đổi về cơ chế chính sách, theo hướng minh bạch, ngày càng có lợi
hơn cho người dân, nhằm phù hợp với thực tiễn của từng giai đoạn và hướng đến
sự thống nhất, khắc phục sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật
quy định về vấn đề này (Bảng 1.1). Tuy nhiên, qua hệ thống các văn bản QPPL
quy định về giải quyết KNTC, TCĐĐ được ban hành thiếu đồng bộ, còn nhiều
điểm chưa thống nhất hệ thống pháp luật nước ta trong việc giải quyết KNTC,
tranh chấp của công dân.

×