Một cuộc cách mạng thực hiện ba chức năng lịch sử, mang dấu ấn thời đại
Có những sự kiện lịch sử khi thời gian càng lùi xa, người ta nhận thấy tầm
vóc, ý nghĩa của nó càng lớn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của dân tộc
ta là một trong những sự kiện vĩ đại đó, đã đồng thời thực hiện được 3 chức
năng lịch sử.
Trong lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử nhân loại chỉ có những cuộc cách mạng
vô sản mới có thể đáp ứng đồng thời nhiều đòi hỏi của lịch sử mang tính thời đại.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã thực hiện đồng thời ba chức
năng lịch sử: giải phóng dân tộc; giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Trước hết, về giải phóng dân tộc, Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ sự thống trị
của thực dân Pháp kéo dài hơn 80 năm, và sự cai trị của phát-xít Nhật, giành lại
độc lập cho dân tộc.
Trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc nhân dân ta đã bao lần đứng lên lật đổ sự
thống trị của quân xâm lược nước ngoài, giành lại độc lập dân tộc. Đầu công
nguyên đó là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, tiếp đó là khởi nghĩa của Bà
Triệu, của Lý Bí (thế kỷ VI), của Khúc Thừa Dụ (thế kỷ thứ X), của Lê Lợi (thế
kỷ XV) Nếu như các cuộc khởi nghĩa trước đây, kẻ thù xâm lược - thống trị có
cùng một trình độ phát triển, cùng một hình thái kinh tế - xã hội với Việt Nam, thì
khi tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta, lực lượng
cách mạng phải đối diện với thực dân Pháp - là một trong số các quốc gia tư bản
chủ nghĩa phát triển bậc nhất vào thế kỷ XIX, XX. Hơn thế, trong cuộc cách mạng
này, dân tộc ta lại phải đương đầu với chủ nghĩa phát-xít và lực lượng đồng minh,
mà thực chất là liên minh giữa các cường quốc đang chi phối đời sống chính trị
quốc tế lúc đó.
Ở vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng ta đứng trước ba
kịch bản lịch sử: Một là, thực dân Pháp tập hợp lực lượng và sẽ đưa thêm quân
viễn chinh vào cướp lại nước ta một lần nữa, trên danh nghĩa là lực lượng đồng
minh thắng trận. Hai là, theo sự điều phối của phe Đồng minh, quân Tưởng sẽ kéo
vào cát cứ ở miền Bắc, quân Anh sẽ kéo vào cát cứ ở miền Nam. Lúc đó không
loại trừ Việt Nam sẽ bị chia cắt lâu dài, trở thành thuộc địa của một trong các quốc
gia thuộc phe Đồng minh, thành “quốc gia ủy trị” của Liên hợp quốc! Và ba là,
chớp thời cơ, đứng lên khởi nghĩa, giành độc lập dân tộc. Đảng ta do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đứng đầu đã sáng suốt lựa chọn phương án ba - khởi nghĩa giành chính
quyền từ tay phát-xít Nhật, đập tan âm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân
Pháp. Đồng thời đặt phe Đồng minh trước một sự thật đã rồi “Nước Việt Nam độc
lập đã ra đời”.
Như vậy là nền độc lập của dân tộc Việt Nam không phải là “chiến lợi phẩm” của
quân Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát-xít. Đó cũng không phải là
“tặng phẩm” hào phóng của các cường quốc chiến thắng trao lại cho chúng ta, mà
là thành quả đấu tranh anh hùng của một dân tộc đã ý thức được quyền dân tộc tự
quyết, được xem là quyền tự nhiên của mình, đồng thời nắm trong tay chính nghĩa
của cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát-xít, bảo vệ phẩm giá con người. Trong
Tuyên ngôn độc lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945, sau khi trân trọng trích lại Tuyên
ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp
năm 1789, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”(1).
ớc ta những giá trị cao nhất với chế độ dân chủ, nh
à nước pháp quyền do nhân dân làm chủ.
Để khẳng định cơ sở pháp lý và chính nghĩa cuộc đấu tranh của dân tộc ta, Người
nhấn mạnh: “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không
phải từ tay Pháp
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã
gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải
được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(2). Ở vào thời điểm trước khi Liên
hợp quốc ra đời, Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam về khách quan đã góp
phần quan trọng vào nguyên tắc “bình đẳng, tôn trọng chủ quyền của tất cả các
nước thành viên” của Hiến chương Liên hợp quốc, đồng thời trở thành nền tảng
của công pháp quốc tế đương đại.
Thứ hai, về giải phóng xã hội, Cách mạng Tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thực dân
- phong kiến, khai sinh chế độ xã hội mới - Chế độ dân chủ cộng hòa - Chế độ xã
hội do nhân dân làm chủ. Khác với các cuộc cách mạng, khởi nghĩa trong lịch sử
dân tộc cũng như các cuộc cách mạng dân chủ tư sản chỉ làm thay đổi các vương
triều hoặc thay đổi giai cấp thống trị này bằng giai cấp thống trị khác, còn người
dân rút cuộc vẫn chỉ là những người bị áp bức, bóc lột, Cách mạng Tháng Tám đã
thay đổi số phận của cả dân tộc.
Đúng như V.I. Lê-nin đã chỉ ra, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, sự áp bức giai
cấp đồng thời trở thành áp bức dân tộc. ở các nước thuộc địa, tất cả mọi người, bất
kể ai, thuộc giai tầng nào đều có chung một số phận: nô lệ. Bởi vậy, có thể nói,
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã xóa bỏ ách nô lệ, trả lại tự do, quyền bình
đẳng, phẩm giá cơ bản cho tất cả mọi người Việt Nam.
Không phải ngẫu nhiên cuộc Cách mạng Tháng Tám của dân tộc ta đã trở thành
một dấu ấn mang tính thời đại. Cuộc cách mạng này đã được Nguyễn Ái Quốc
(tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) chuẩn bị về lý luận từ trước. Người đã nghiên cứu các
cuộc cách mạng điển hình trên thế giới - đó là cách mạng giành độc lập của Mỹ,
cách mạng dân chủ tư sản Pháp và cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga.
Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Nguyễn ái Quốc đã chỉ ra rằng, cách mạng
Mỹ, cách mạng Pháp là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, “tiếng là cộng
hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa”(3). Với Người, một cuộc cách mạng thành công, cách mạng “đến nơi”, nghĩa
là: “cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một
bọn ít người”(4) và dân chúng phải “được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng
thật ”(5).
Chính vì vậy, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương - không duy trì lâu dài Chính phủ
cách mạng lâm thời, nhanh chóng xây dựng nhà nước pháp quyền, tiến hành tổng
tuyển cử tự do trong cả nước, xây dựng và ban bố hiến pháp Hiếm có một cuộc
cách mạng nào, một đảng chính trị nào lại có đủ niềm tin, ý thức tôn trọng ý chí và
nguyện vọng của nhân dân như Đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ trong vòng một
năm, Đảng và Chính phủ ta đã thiết lập chế độ chính trị, nhà nước và chính quyền
nhân dân trong cả nước. Sở dĩ có được niềm tin đó là vì Đảng Cộng sản Việt Nam
là hiện thân lợi ích của cả dân tộc. Đối với Đảng ta, lợi ích của giai cấp luôn luôn
thống nhất với lợi ích của dân tộc. Như vậy là chế độ dân chủ, nhà nước pháp
quyền của nhân dân ta ra đời trong Cách mạng Tháng Tám không phải là “thành
tích” “khai hóa” của “mẫu quốc”, cũng không phải là thứ hàng ngoại nhập của các
nhà dân chủ đương thời đem lại, mà là kết quả của cuộc đấu tranh với không biết
bao nhiêu hy sinh, mất mát của đồng bào, cán bộ, đảng viên của Đảng. Kết quả đó
là sự sáng tạo của cuộc cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
Thứ ba, về giải phóng con người, Cách mạng Tháng Tám, lần đầu tiên trong lịch
sử dân tộc đã đem lại quyền công dân và quyền con người cho nhân dân ta, và
ngay lập tức thực hiện các nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với
tất cả mọi thành viên của xã hội. Đây là sự khác biệt với các cuộc cách mạng dân
chủ tư sản.
Quyền con người là thành quả phát triển của nền văn minh nhân loại, là giá trị
chung của các dân tộc. Về bản chất, nhân quyền mang tính toàn cầu, song trong
chủ nghĩa tư bản nói chung, chủ nghĩa đế quốc nói riêng, quyền con người vẫn chỉ
là những quyền hạn hẹp. Sau Tuyên ngôn độc lập năm 1776 - trong đó ghi nhận
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng ” nhưng chế độ nô lệ vẫn tồn
tại ở nước Mỹ. Sau Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 ở Pháp không
chỉ chế độ nô lệ vẫn tồn tại, mà quyền bình đẳng trong bầu cử, ứng cử của người
Do Thái, của những người không có tài sản vẫn không được thừa nhận Trên
phạm vi thế giới, quyền con người vẫn chỉ thuộc về một số ít dân tộc được gọi là
“văn minh”, là “mẫu quốc” còn ở các thuộc địa, tất cả mọi người đều chỉ là
những nô lệ.
Ở Việt Nam, hơn 80 năm cai trị, thực dân Pháp vẫn duy trì chế độ phong kiến, xã
hội thần dân. Trong tác phẩm: “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn Ái Quốc
đã viết: thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn nào, kể cả những thủ đoạn bỉ ổi
nhất, và những tội ác dã man nhất đối với nhân dân ta. Dựa trên ý tưởng về nhân
quyền trong hiến pháp, pháp luật của Mỹ, của Pháp và tuyên bố của Tổng thống
Mỹ Uyn-xơn, sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, thay mặt những người
ở quan trọng cho việc phát triển đất n
ước, con người Việt Nam theo hướng dân chủ, văn minh, chủ động và
Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã ký tên và gửi Bản “yêu sách của nhân
dân Việt Nam” đến Hội nghị nguyên thủ các nước thắng trận ở Véc-xây (Pháp)
năm 1919. Nhưng Bản yêu sách kết cục đã không được chấp nhận. Nguyễn ái
Quốc đã rút ra kết luận: “Chủ nghĩa Uyn-xơn ( nội dung là Mỹ sẽ trao quyền dân
tộc tự quyết cho các dân tộc) chỉ là một trò bịp bợm lớn”(6).
Lịch sử đã chỉ ra rằng, không một quốc gia tư bản chủ nghĩa nào chấp nhận
chia sẻ giá trị nhân quyền cho các dân tộc thuộc địa. Quyền con người của
nhân dân ta không phải do lực lượng thống trị tôn trọng “ tính phổ quát”
hoặc “quyền tự nhiên”của con người mà có. Đối với các dân tộc thuộc địa, độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là tiền đề, điều kiện của quyền con người. Đây là
một vấn đề mới về lý luận và chính trị trong thời đại ngày nay. Muốn có độc lập
dân tộc, chế độ dân chủ, quyền công dân và quyền con người, các dân tộc bị
áp bức phải tự mình đứng lên làm cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Đây là một kết luận khoa học - chính trị, cũng có thể xem là một nguyên lý
mác-xít mới mà bản quyền hoàn toàn thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng về lý luận cũng như kỹ năng lập hiến, lập pháp, ngay
sau khi cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương xây dựng hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới với những
tư tưởng tiên tiến nhất mà các dân tộc đã đạt được. Hiến pháp năm 1946 đã trở
thành nền tảng chính trị - tư tưởng và pháp lý của các bản hiến pháp tiếp theo:
ả mang dấu ấn thời đại m
à cuộc Cách mạng Tháng Tám thu được vừa là nhiệm vụ sống còn, vừa là trách nhiệm của
ành cùng s
ự nghiệp đổi mới, hội nhập.
Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Khác với các văn kiện nhân quyền đầu tiên của
Hoa Kỳ, của Pháp, Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam mới ngay lập tức tuân
thủ triệt để nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với mọi thành viên
xã hội; không có bất cứ một sự hạn chế nào về đẳng cấp, về chủng tộc, về tài sản
hoặc về giới tính của công dân. Đây là một ưu việt của chế độ xã hội ta, một sự
thật không gì có thể bác bỏ được.
Ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám không chỉ ở chỗ nhân dân ta đã đánh
đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành lại độc lập dân tộc, mà còn mở ra
một thời đại mới, đưa dân tộc ta đến với các giá trị chính trị, xã hội cao nhất trong
nền văn minh nhân loại - đó là chế độ dân chủ, nhà nước pháp quyền do nhân dân
làm chủ, các quyền công dân và quyền con người được tôn trọng, rút ngắn con
đường tiến hóa của dân tộc ta hàng thế kỷ. Cách mạng Tháng Tám và các cuộc
kháng chiến chống xâm lược của dân tộc ta còn góp phần mở ra một quỹ đạo mới -
quỹ đạo xã hội chủ nghĩa cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
V.I. Lê-nin đã từng nói: cách tốt nhất để kỷ niệm một cuộc cách mạng là làm nốt
những nhiệm vụ mà cuộc cách mạng đó đã đặt ra. Với tinh thần đó, ngày nay
chúng ta cần thực hiện tốt chiến lược bảo vệ Tổ quốc, sự toàn vẹn lãnh thổ và các
lợi ích của dân tộc; xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chống quan liêu, tham nhũng; giữ
vững sự ổn định chính trị, xã hội, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn lợi dụng dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch hòng can thiệp vào
công việc nội bộ của ta
___________________________________
(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 4, tr 1, 3
(3), (4), (5) Hồ Chí Minh: Sđd, t 2, tr 274, 270, 280
(6) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1984, tr 33