Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Ôn thi môn Ngữ văn 12: Phân tích Tiếng hát con tàu CLV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.82 KB, 11 trang )

TIẾNG HÁT CON TÀU
Chế Lan Viên
Không mấy ai không biết rằng ngay từ những năm mười bảy tuổi, nhà thơ Chế
Lan Viên đã đột ngột xuất hiện trong phong trào Thơ mới “như một niềm kinh dị” (
Hoài Thanh). Để rồi trong một thời gian dài sau đó, khoảng thời gian chạy suốt những
năm kháng chiến chống Pháp và những năm đầu tiên sau hoà bình lập lại, hồn thơ ấy
đột ngột lặng tiếng hơn. Thế nhưng đến năm 1960, Chế Lan Viên bỗng nhiên bừng
sáng trở lại và một lần nữa lại lay động đàn thơ với một tập thơ mà những năm tháng
ấy đã trở thành hiện tượng - tập “Ánh sáng và phù sa". Lần này, Chế Lan Viên đã gây
ngạc nhiên cho mọi người bằng những vần thơ dĩ nhiên là không còn kinh dị. Những
vần thơ giờ đây không chỉ gắn bó chặt chẽ hơn với máu thịt của cuộc đời, cũng không
chỉ làm rung động tình cảm của người đọc mà còn lay thức trí tuệ của người đọc thơ
bằng những vần thơ sâu sắc và mới mẻ. “Tiếng hát con tàu" là một trong số những bài
tiêu biểu nhất cho hồn thơ mới của tác giả “Ánh sáng và phù sa”.
“Tiếng hát con tàu" được viết trong bối cảnh của phong trào vận động đi khai
hoang và phát triển vùng kinh tế mới ở miền núi, một phong trào diễn ra rất sôi nổi và
náo nức ở nước ta vào cuối thập kỉ 50 của thế kỉ XX. Và đây cũng là lúc mà nhiều nhà
văn, nhà thơ đã đi thực tế ở những miền đất khác nhau của Tổ Quốc. Tuy nhiên,
không nên vì thế mà vội lầm tưởng “Tiếng hát con tàu” được viết ra chỉ để minh hoạ
cho một chủ trương hay hưởng ứng một phong trào quần chúng. Ngược lại, thực tế mà
chúng ta vừa nói chỉ là một dịp, một cơ hội để nhà thơ có thể nung nấu suy nghĩ về
một đường lối thi ca, một hồn thơ mới mẻ. Và tuyên ngôn về một hồn thơ mới ấy của
Chế Lan Viên đã được nhà thơ diễn tả thật cô đúc và thật trí tuệ trong bốn dòng thơ
mang ý nghĩa của một đề từ, giống như một chiếc chìa khoá giúp ta mở cánh cửa thơ,
để có thể nghe được “Tiếng hát con tàu":
Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khổ đề từ bắt đầu là một lời hỏi, hay đúng hơn là một lời hỏi lại :"Tây Bắc ư”.
Nhà thơ dường như đã lường trước rằng có nhiều người sẽ hiểu “Tiếng hát con tàu”
như và chỉ như một bài thơ viết về Tây Bắc. Và khi đưa ra lời đáp “có riêng gì Tây
Bắc”, Chế Lan Viên như muốn nói với mọi người rằng đừng nên hiểu ý nghĩa của bài


thơ chỉ được giới hạn trong phạm vi, khuôn khổ của đề tài một miền đất. Vì thế, chữ
“Tây Bắc” đã được dùng với nghĩa thật, ý nghĩa về một miền đất, một thi đề. Thế
nhưng, điều nói trên chỉ đúng với điều kiện tấm lòng nhà thơ đã phải hoà nhập vào
hình ảnh của những con tàu, chuyển hoá thành những con tàu. Dĩ nhiên, chữ “con tàu”
không được dùng với nghĩa đen, bởi vào lúc ấy và ngay cả bây giờ cũng không có một
con tàu nào lên Tây Bắc. Khi tấm lòng nhà thơ có thể hoá thành “con tàu” thì đó phải
là con tàu thơ, còn tàu của cảm xúc thơ. Mặt khác, khi những tấm lòng thơ có thể hoá
những con tàu thì nghĩa là những nguồn thi cảm phải được tìm không ở trong nhà thơ
mà ở bên ngoài họ, ở cuộc đời, ở nhân dân, Tổ Quốc.Chế Lan Viên đã nói đến một
hồn thơ đang khát khao đến với hiện thực sống động, đến với những miền đất của Tổ
Quốc. Khi ấy và chỉ khi ấy thì Tây Bắc mới là nơi mà thơ tìm đến. Nhưng cũng không
phải là địa chỉ duy nhất của hồn thơ. Với hai câu thơ trên, Chế Lan Viên đã muốn phát
biểu một quan niệm thơ đối lập với nhiều quan niệm thi ca của những thời kì trước.
“Tiếng hát con tàu” sẽ là tiếng hát của một tâm hồn đã biết rằng không thể tìm thơ
bằng cách giam mình trong “tháp ngà nghệ thuật”, biết rằng thơ không ở bên trong
những cánh cửa lòng. Bởi vậy, ở bên dưới nhà thơ cũng viết :
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép.
Nhà thơ muốn từ bỏ những quan niệm thơ đã từng được phát biểu trong những
câu nói rất nổi tiếng của Anđephret- đơ- Muýt-xê : "Hãy đập vào trái tim anh, thiên tài
là ở đó”.
Và bởi thế, nửa sau của khúc đề từ cũng được bắt đầu bằng một chữ “khi”
Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát.
Đó là một cách nói đề Chế Lan Viên có thể diễn tả xúc cảm về một Tổ Quốc đã
trở thành nguồn cảm hứng, nguồn thơ say đắm. Tổ Quốc đã hát lên, Tổ Quốc đã thúc
giục, mời gọi, đợi chờ. Bởi tiếng hát là âm thanh của chất thơ, của vẻ đẹp và trong
điều kiện ấy, trong tình hình như thế, nhà thơ thấy tâm hồn mình , tức là thơ của mình
không thể ở đâu khác ngoài Tây Bắc :
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.
Đặt trong mối quan hệ với câu thơ thứ ba thì “Tây Bắc” trong câu thơ này đã
không thuần tuý chỉ còn là một địa danh. Tây Bắc đã được dùng như một hoán dụ để

thay cho, đại diện cho chính Tổ Quốc đang cất lên tiếng hát ở khắp bốn bề kia. Và như
thế phải hiểu rằng “tâm hồn ta là Tây Bắc” là cách mà nhà thơ mượn để muốn nói một
điều : thơ của ta phải là và chỉ có thể là chính đời sống, chính đất nước. Nó hoàn toàn
nằm ở bên trong cái Tôi khép kín của nhà thơ. Vì vậy, lời đề từ chính là lời tuyên
ngôn của một hồn thơ mới mẻ trong không chịu giới hạn trong chân trời của một
người mà vươn tới chân trời xa rộng của đất nước, của tất cả mọi người mà theo cách
nói của Paul Eluya mà các văn sĩ thời đó rất thích, thì Tây Bắc sẽ đại diện cho chân
trời xa xôi. Và đến với Tây Bắc tức là bước ra khỏi cái bóng của mình để trở thành
một nguồn thơ rộng rãi hơn. Đó là điều mà Chế Lan Viên còn nói đến một lần nữa
trong bài thơ “Chim lượn trăm vòng”:
Tâm hồn tôi khi Tổ Quốc soi vào
Thấy ngàn núi trăm sông rớm lệ.
Và ngay trong “Tiếng hát con tàu”, quan niệm “tâm hồn ta là Tây Bắc” cũng
được nhắc đến trong câu thơ dưới
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Trên Tây Bắc!
Và như vậy, khổ thơ đề từ nói riêng và “Tiếng hát con tàu” nói chung đã đem
đến cho ta một hình dung về một Chế Lan Viên hoàn toàn khác so với Chế Lan Viên
của “Điêu tàn”- người thi sĩ trước đó đã từ chối cuộc đời, người đã coi tất cả chỉ là “vô
nghĩa”, người không muốn thừa nhận mùa xuân, cuộc đời và chỉ muốn đắm chìm vào
thế giới bên trong của mình với những “bóng ma Hời sờ soạng” trong thế giới tâm
linh. Con người ấy giờ đây đã hồ hởi rũ bỏ tất cả những cái cũ trong mình để trở thành
một ngọn nguồn thơ khác, quê hương thi ca khác không thể gì khác hơn là Tây Bắc, là
cuộc đời.
Nhưng Chế Lan Viên không muốn nói đến “Tiếng hát con tàu” như một cái gì
đã hoàn thành mà phải đang vận động, phát triển. Và vì thế, nhà thơ đã kết cấu bài thơ
như là những chặng đường nối tiếp nhau trong một quá trình tâm lý. Ở hai khổ đầu
tiên của bài thơ, việc đến hoặc không đến Tây Bắc, bước lên hay không bước lên con
tàu, dám hay còn chưa dám từ bỏ một thế giới thơ quen thuộc, được nói đến như còn
đang diễn ra trong một sự do dự, phân vân. Bởi vậy, phần chính của bài thơ đã bắt đầu

bằng một câu hỏi :
Con tàu lên Tây Bắc anh đi chăng ?
Câu thơ mở ra hai khả năng dường như còn để ngỏ. Và sau đó, chúng ta gặp
một loạt những câu thơ luôn chia làm hai nửa trái ngược nhau : một nửa là “bạn bè đi
xa”, còn nửa kia là “anh giữ trời Hà Nội”. Và những câu thơ diễn tả một sự đối lập,
phân tranh như thế cứ nối tiếp nhau trong khổ thơ :
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi ?
Ở đầu này là “tàu gọi anh đi”, còn đầu kia lại là “sao chửa ra đi”. Cái mới đã
đến nhưng cái cũ dường như còn chưa mất hẳn. Tuy nhiên, hai khổ thơ cũng cho thấy
sự chưa dứt khoát ở đây chỉ là trong hành động, bởi nhà thơ rõ ràng đã nói đến một sự
chuyển biến cũng đã nôn nao lắm rồi trong nhận thức. Phải thế, thi nhân mới có thể
cảm nhận tiếng gọi giục giã của con tàu, nghe thấy được tiếng gió rừng, âm thanh của
cuộc đời đã gần sát, như đập vào thế giới riêng. Từ đó có thể thấy con tàu kia một khi
còn chưa chuyển bánh thì cũng đang đói khát chất thơ và vẻ đẹp, được nhà thơ tìm
thấy trong biểu trưng của “vành trăng”. Và cảm giác ấy sẽ trở nên mạnh hơn, dứt
khoát hơn trong hai câu thơ cuối đoạn, khi nhà thơ đã hiểu rất rõ rằng thơ sẽ chẳng có
đâu trong thế giới mà mình đang sống và còn chưa rời bỏ. Những vành trăng thơ
không thể tồn tại bên trong một cánh cửa lòng đóng khép trước cuộc đời và tâm hồn
đích thực của nhà thơ không ở trong mình mà đang ở một nơi xa lắm ngoài cuộc đời.
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia
Trên Tây Bắc !
và sự chuyển biến của một hồn thơ bắt đầu từ trong nhận thức, từ trong tình
cảm.
Đoạn thơ thứ hai của “Tiếng hát con tàu” được bắt đầu bằng ba chữ của khổ thơ trên
còn vắt xuống : “Trên Tây Bắc !”. Nhưng ba chữ ấy khi đã hạ xuống thì bài thơ lại mở
ra một hướng thơ mới mẻ. Giờ đây ấn tượng, kỉ niệm Tây Bắc sẽ ào ạt tràn về trong kí
ức, trong tưởng tượng và trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình. Tuy nhiên, với Chế Lan
Viên , Tây Bắc hiện về trước hết không phải trong cảm hứng về một miền đất, về
phong cảnh thiên nhiên mà nhà thơ sẽ nói đến Tây Bắc đầu tiên trong nguồn cảm

hứng lịch sử. Tây Bắc sẽ được nói đến như là nơi còn in dấu tích của mười năm kháng
chiến “Ôi mười năm Tây Bắc”. Câu thơ hiện lên hình ảnh về một Tây Bắc đau đớn,
anh hùng, một Tây Bắc mà những giọt máu của quá khứ đã đổ ra để làm nên mùa
xuân cho hiện tại. Nhà thơ nói đến sự chuyển hoá của quá khứ sang hiện tại, giữa
“máu” và “trái chín đầu xuân”. Và vì thế, Tây Bắc sẽ hiện lên trong cảm hứng về một
ngọn lửa thiêng. Một ngọn lửa vĩnh cửu của chiến tranh, thắp lên từ cuộc chiến đấu
mười năm nhưng rồi sẽ cháy mãi tới muôn đời :
Ơi kháng chiến ! Mười năm qua như ngọn lửa
Đó là ngọn lửa của chiến tranh, của truyền thống sẽ không bao giờ tắt. Và
chẳng phải ngẫu nhiên mà nỗi xúc động vì ngọn lửa đến với nhà thơ khi ông đang
nghĩ về Tây Bắc. Bởi Tây Bắc chính là nơi diễn ra chiến thắng vĩ đại nhất trong cuộc
trường kì kháng chiến. Đó cũng chính là lý do khiến nhà thơ tha thiết muốn trở lại
miền đất ấy, gặp lại quá khứ ấy như gặp lại chính nguồn thơ của mình, chính tâm hồn
mà mình đã để lại trên miền Tây Bắc xa xăm.
Chế Lan Viên nhớ đến quá khứ không phải để hoài cổ. Quá khứ đã được nói
đến từ tầm nhìn của một con người luôn luôn gắn bó khăng khít với hiện tại và tương
lai. Nhà thơ nói về điều ấy như một phép biện chứng, bởi sau mỗi câu nói về cuộc
kháng chiến, nhà thơ lại hạ ngay một hoặc nhiều câu nói về cuộc sống đang hiện ra
trước mắt: hạt máu thấm xuống nhưng để làm nên những quả ngọt của mùa xuân, ánh
lửa ấy là của cuộc chiến tranh sẽ soi chiếu mãi đến ngàn năm. Trong suy tư và xúc
cảm của nhà thơ, đấy sẽ là một ngọn lửa vĩnh cửu. Nhà thơ đã lấy tứ thơ ấy từ ngọn
lửa vĩnh cửu được hiểu theo nghĩa đen mà người ta thường vẫn thắp trên những đài
vinh quang. Nhưng khi đưa vào “Tiếng hát con tàu”, ánh lửa ấy được hiểu theo một ý
nghĩa tượng trưng. Và chẳng phải ngẫu nhiên khi Chế Lan Viên cảm nhận về Tây Bắc
qua hình ảnh về ngọn lửa thiêng như thế, vì Tây Bắc hơn bất cứ miền nào khác là nơi
diễn ra những tháng ngày gian lao, dữ dội nhưng cũng vẻ vang nhất của một cuộc
chiến tranh.Và chính xúc cảm về một Tây Bắc như thế đã thôi thúc nhân vật trữ tình
phải nhanh chóng tìm đến một ngày gặp lại :
Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.
Cảm giác gặp lại cho thấy nhà thơ sẽ nói đến trong khổ thơ dưới đó với một

chút thay đổi, bởi đến đây, Tây Bắc được hiện ra trong hình ảnh của những người dân.
Gặp lại Tây Bắc trước hết và chủ yếu là gặp lại nhân dân. Và khổ thơ bắt đầu như thế :
“con gặp lại nhân dân ” Nhưng đến đây Chế Lan Viên theo một kĩ thuật thơ rất
thường thấy ở ông, đã làm cho ý niệm đột nhiên bừng nở ra trên một loạt những so
sánh :
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa.
Ý niệm đã hoá thân thành hình ảnh, được làm đẹp lên nhờ hình ảnh. Những
hình ảnh cứ xâu thành chuỗi, thành chùm biến ảo làm lòng người ngây ngất. Nhưng
những hình ảnh liên tiếp xuất hiện ấy không làm cho người đọc thơ lạc lõng, bởi Chế
Lan Viên vẫn giữ vững được sự thống nhất trong đa dạng. Tất cả những so sánh
dường như đều nhuộm một vẻ đẹp riêng của núi rừng với nai, suối, với chim chóc, cỏ
cây. Và còn hơn thế nữa, tất cả những vẻ đẹp ấy đều thấm đầy những tình xuân, sắc
xuân để nói về một vạn vật đã sống lên cùng mùa xuân. “Cỏ” nhưng là cỏ của “giêng
hai”- mùa tươi đẹp nhất trong năm. “Chim én” nhưng phải là chim én gặp đúng “mùa”
của nó, mùa xuân. Và như thế tác giả đã cho chúng ta hiểu : về với nhân dân là về với
nguồn sống, nguồn nuôi dưỡng. Nhân dân trong hình dung của nhà thơ sẽ là “suối”
của nai, là “tháng giêng hai” của cỏ, sẽ là “mùa xuân” của loài chim én.
Nhưng chưa hết, đến hai câu thơ sau, sự so sánh vẫn tiếp tục nhưng lại chuyển
sang một phương chiều khác.
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa,
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Ý tưởng nhân dân là nguồn sống, là hồn thơ chỉ có thể sinh ra từ người mẹ
nhân dân vĩ đại vẫn tiếp diễn, nhưng sự so sánh giờ đây lại được gợi ra từ hình ảnh
trung tâm là một đứa trẻ thơ. Và những người dân Tây Bắc nói riêng, nhân dân nói
chung sẽ mang thêm vẻ đẹp, vẻ đẹp về nguồn sữa của những đứa trẻ “đói lòng”, vẻ
đẹp của cánh tay đang đưa đẩy chiếc nôi đang ngừng lại. Những dòng thơ đầy chất trí
tuệ, thứ trí tuệ đã mượn hình ảnh để làm xao động lòng người. Đó là một cách viết
mang rất nhiều đặc trưng của Chế Lan Viên bởi cách sử dụng những hình ảnh một
cách hệ thống, thường xuyên là đạt nhiều hiệu quả.

Đến ba khổ thơ tiếp theo, hình ảnh nhân dân đã hiện lên cụ thể.
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn ! Chưa mất một phong thư.
Con nhớ mế ! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Con người Tây Bắc giờ đây là người anh xung kích, đứa em liên lạc, là người
mẹ tóc bạc “thức suốt một mùa dài” bên ánh lửa hồng. Phép so sánh trong khổ thơ
trước đó giờ được nhường cho việc miêu tả chi tiết. Nhà thơ cố gắng làm cho nó chân
thực, cụ thể và sống động. Tuy nhiên, cái hay của những khổ thơ ấy hình như không
được làm nên thật nhiều bởi vốn sống của nhà thơ. Những câu thơ xúc động lòng
người trước hết bởi tình cảm của một nhà thơ tha thiết muốn được gắn bó với những
người dân, muốn được làm điều mà
Tố Hữu đã từng tâm nguyện :
Tôi đã là con của vạn nhà.
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ.
Những chữ “con” trở đi trở lại: “con nhớ anh con”, “con nhớ em con”, “con
nhớ mế”. Dường như người con ấy muốn coi nhân dân như ruột rà, máu mủ và điều ấy
lại càng đáng cảm động hơn nếu chúng ta nhớ rằng đây là những dòng thơ của một
nhà thơ đã có lúc muốn coi “tất cả là vô nghĩa”. Con người ấy giờ muốn đến với nhân
dân, giản dị, chân thành, không kiêu sa hay khinh bạc, thật như một sự lột xác. Kẻ có
lúc lạc đường ấy đã quay về đúng với con đường của mình. Chế Lan Viên cũng muốn

được quí mến những người dân bình thường, giản dị, thậm chí vô danh, những con
người cực khổ. Anh du kích với một chiếc áo nâu vá rách, đứa trẻ liên lạc bình
thường, những người mế nghèo cực. Nhưng nhà thơ vẫn thấy họ thật đáng quí trọng ở
sự hi sinh, đóng góp, hiến dâng cuộc đời mình cho kháng chiến. Người anh ấy, người
em ấy, người mẹ ấy đã hy sinh tuyệt đối cả mạng sống, sự an toàn của mình, những
điều quí giá nhất của một đời người để góp phần làm nên chiến thắng. Nhưng cái mà
Chế Lan Viên nâng niu hơn cả là những con người ấy trở thành hiện thân của nhân ái
và tình thương. Bởi thế, những người du kích không chỉ vĩ đại trong chiến đấu mà còn
lớn hơn nhiều trong hành động gửi chiếc áo lại cho người còn sống trước lúc mất đi.
Người mế ấy cũng lớn lao trong sự chăm sóc, chăm lo những người chiến sĩ trong suốt
“một mùa dài”. Và tình cảm như đã thấm thía vào hồn thơ tác giả đến mức sẽ hiện lên
thành giọng điệu, một giọng thơ lúc thì rưng rưng cảm động, khi nhảy nhót theo bước
chân chú bé giao liên, để rồi tha thiết thành kính vút lên trong những lời thơ về người
mẹ
- “Con nhớ mế !”
Chữ “nhớ” thiết tha vẫn được Chế Lan Viên nhắc lại trong khổ thơ thứ chín và
ở đây nó được xuất hiện đến hai lần với hai chữ “nhớ” đứng đầu hai khổ thơ. Tuy
nhiên với khổ thơ này tình cảm ấy không còn hướng vào những đối tượng cụ thể mà
bao trùm lên toàn bộ miền đất, vùng quê. Thay cho “anh con, em con, mế” là hình ảnh
của “bản”, của “đèo”, một hình ảnh dẫu sao vẫn gợi nhớ đến vùng Tây Bắc. Nhưng
chẳng phải tình cờ mà Chế Lan Viên đã muốn bản ấy phải là “bản sương giăng” và
đèo ấy phải là “đèo mây phủ”. Sương giăng và mây phủ không chỉ gợi lên trong lòng
người đọc ấn tượng về một vùng cao mà những chữ ấy còn làm cho nỗi nhớ trở nên
mơ màng hơn, bâng khuâng hơn, có sức lan trải nhiều hơn trong thực tế:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Câu thơ đã chuẩn bị cho sự đột biến trong tình cảm mà nhà thơ sẽ nói đến trong
dòng thơ tiếp đó:
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương.
Và như thế, tình cảm riêng đột nhiên trở thành một tình cảm có ý nghĩa bao
trùm, khái quát. Mạch thơ đang chơi vơi trên núi rừng Tây Bắc bỗng nhiên mở rộng ra

đến một qui luật chung, không chỉ đúng với một nơi mà đúng với mọi nơi. Nhưng đó
là sự chuyển biến rất đặc trưng cho khuynh hướng thơ trí tuệ vốn ưa tìm đến qui luật
chung phổ biến. Những qui luật chung ấy không làm mất đi trong cảm nghĩ, trong
diễn đạt. Nhà thơ đã sử dụng một lối khẳng định dưới hình thức vừa phủ định vừa
nghi vấn. Nó làm cho sự khẳng định như chắc chắn hơn vì nó đã loại trừ khả năng
ngược lại, còn hình thức nghi vấn lại giúp nhà thơ chuyển sự suy nghĩ của một người
sang sự suy nghĩ của tất cả mọi người. Nhà thơ không chỉ muốn hỏi chúng ta mà còn
muốn chúng ta hãy tự hỏi mình. Nhưng tại sao con người lại yêu thương tất cả những
nơi nào mà mình đã đi qua ? Nhà thơ đã trả lời câu hỏi ấy trong hai câu thơ cuối.
Nhưng đó là sự trả lời đặc sắc, khiến cho hai câu thơ ấy sẽ lập tức găm ngay vào trí
nhớ của người đọc.Những câu thơ sẽ lập tức chinh phục sự ngưỡng mộ, khâm phục
đối với nhà thơ bởi một tầm sâu rộng mênh mang của trí tuệ và bởi một lối diễn đạt
thơ rất riêng đậm chất Chế Lan Viên. Câu thơ đầu tiên của hai câu thơ ấy chia thành
hai vế, vế nào cũng kết thúc bằng một chữ “ở”, trong vế thứ nhất là “ta ở”, trong vế
thứ hai là “đất ở”. Hai vế ấy được nhà thơ nối với nhau bằng hai chữ “chỉ là”. Nhưng
điều lạ lùng là những chữ “chỉ là” ấy không tạo ra một đẳng thức, một sự hoà đồng
như nó thường vẫn thế:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Câu thơ có hai chữ “chỉ là” ấy vẫn tạo ra một sự phân biệt về những điều nhà
thơ cho là không thể lẫn. “Ta ở” với “đất ở” được phân cách nhau bằng một dấu phẩy.
Và khoảng cách ấy, sự phân biệt ấy dường như đã tạo ra một “thế năng” , câu thơ có
sức căng, tạo ra một sự đợi chờ vì bất kì người đọc thơ nào cũng biết rằng sau đó thể
nào cũng có một sự biến đổi bất ngờ, mạnh mẽ. Và câu thơ thứ hai cũng bắt đầu bằng
một vế gần giống với vế thứ nhất của câu thơ trước đó. Nó cũng gồm ba chữ , và hai
chữ đầu tiên trong ba chữ ấy cũng là “khi ta”. Sự khác biết phải chờ đến chữ cuối
cùng mới hiện ra. Đến chữ cuối cùng chúng ta mới hiểu được rằng trạng thái “ở” đã
chuyển thành “đi”.
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn.
Sự khác nhau ít ỏi vậy thôi nhưng đã quyết định tất cả. Bây giờ đất và người sẽ
không đứng riêng rẽ trong các vế khác nhau mà tồn tại trong một vế. Cái xa đã chuyển

thành gần, vật vô tri đã thành hữu cảm. Cách diễn tả của nhà thơ đã tạo ra cảm giác về
sự chuyển hoá biện chứng kì diệu vì sự vật đã chuyển sang trạng thái đối lập và kì
diệu vì dường như biến đổi tâm lí diễn ra ngược chiều với sự biến đổi của không gian.
Khi ta và đất gần nhau thì dường như vẫn còn sự tách biệt. Khi ta và đất xa nhau trong
không gian thì lại như hoà hợp với nhau, quyện lẫn cùng nhau. Và như thế một lần
nữa Chế Lan Viên lại đem đến cho chúng ta một điều dường như nghịch lý. Nhà thơ
muốn con người trí tuệ của mình đập vỡ vỏ nghịch lý để đi tìm đến hạt nhân chân lý.
Nhưng chính bằng cách ấy, Chế Lan Viên đã đến cho con người một niềm vui khi
nhận ra điều diệu kì trong cuộc sống. Nhà thơ cũng đã giúp chúng ta hiểu rằng điều
tưởng như phi lý ấy lại được sinh ra từ chân lý hiển nhiên mà sâu sắc. Hiện thực của ta
sẽ chứa đựng hình ảnh của ta, ta sẽ phải gửi vào đó rất nhiều ước vọng của ta. Khi ta ở
một khoảng cách quá gần, cái bóng của ta sẽ che hết tất cả. Chúng ta chỉ có thể thấy
cái bóng của mình khi chúng ta có đủ một khoảng cách không gian cần thiết để xa nó.
Chế Lan Viên đã giúp chúng ta hiểu được điều ấy và cảm nhận cuộc sống sâu sắc, lý
thú trong tình cảm. Và trí tuệ lớn lao kết đọng trong những câu thơ bé nhỏ mà chỉ
được làm nên bằng những vật liệu ngôn ngữ rất bình thường.
Đến khổ thơ thứ mười, mạch thơ bất ngờ vút lên để bay lượn trên đôi cánh của nhớ
thương, của tình yêu. Giọng thơ đang trầm ngâm đột nhiên chứa chan cảm xúc, trở
nên đầy chất men lãng mạn. Âm điệu của lời thơ tha thiết ở trên tầng âm vực cao, nhất
là ở những thanh sắc mà Chế Lan Viên đặt ở cuối câu.
Anh nhớ em như đông về nhớ rét
Những chữ “nhớ" đã trở lại nhưng lần này lại được đặt trong mối quan hệ so
sánh. Lòng mong nhớ người yêu được so với cái rét của mùa đông, bởi không có rét
thì chẳng thể nào có được mùa đông. Cách so sánh như thế làm ra hiểu rằng : thiếu
tình yêu, sự sống không thể là sự sống, cuộc đời không thể mang ý nghĩa chân chính
của cuộc đời.Và đến hai câu thơ tiếp theo thì cái được đem so sánh là bản thân tình
yêu. Chúng ta sẽ gặp lại một lần nữa cách sử dụng so sánh rất riêng của Chế Lan Viên,
cách nhà thơ làm cho hình ảnh, cảm xúc bừng nở, bất ngờ đầy màu sắc.
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Cả hai câu thơ đều kết thúc bằng những từ chỉ sắc màu – màu “vàng” và sắc
“biếc”. Dĩ nhiên Chế Lan Viên cũng không quên làm cho những so sánh khiến tình
yêu nhuộm thêm sắc thái của núi rừng : hình ảnh của “cánh kiến hoa vàng” với sự
thay đổi màu sắc của những cánh chim. Sự so sánh làm cho tình yêu qua cách thể hiện
của nhà thơ cứ óng ánh lên, ngời tươi lên vẻ đẹp tươi ngời của sự sống, của mùa xuân.
Vì thế sắc của lông chim, nhà thơ muốn phải là sắc “biếc”. Biếc không chỉ là xanh mà
còn là lấp lánh, lung linh diệu kì. Cảm giác về sắc biếc lại được nhân lên bởi trước đó
còn có chữ “trở”, sắc biếc lung linh trong quá trình hình thành. Chữ “biếc” với thanh
sắc hoà hợp kì lạ với những thanh sắc ở đầu câu như muốn làm cho tình yêu đạt đến
sự đỉnh điểm của cảm xúc, của sự thiết tha. Ai đó có thể tưởng rằng với ba câu thơ
này, Chế Lan Viên đã bị lạc sang một hướng cảm xúc khác, dường như nhà thơ đã
không giữ được mạch thơ suy tưởng triết lí mà chúng ta bắt gặp ở trên. Nhưng sự thật
không phải là như thế bởi câu thơ thứ tư trong khổ lại bất ngờ để thơ hạ xuống, hạ
cánh xuống mặt bằng của suy tư, khái quát:
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
Và ta hiểu rằng những dòng thơ đắm đuối tình yêu và nỗi nhớ ở trên cũng là
một lối diễn đạt trữ tình mà nhà thơ dùng để như tiếp tục lí giải, khám phá những qui
luật chung nhất của cuộc đời. Chế Lan Viên với khổ thơ này muốn tiếp tục lý giải
nguyên nhân của sự chuyển đổi diệu kì mà nhà thơ đã phát hiện ra ở khổ thơ trên đó.
Khổ thơ thứ mười này cho chúng ta thấy cái làm cho đất hoá tâm hồn, cái làm nên
hiện tượng chuyển hoá kì diệu không chỉ là tình yêu đôi lứa mà là tình yêu nói chung
của con người. Nhà thơ có thể nói rằng tâm hồn của mình là ở chính trên Tây Bắc,
trên mảnh đất của Tổ Quốc. Và khi đã nhận ra điều đó rồi trong khổ thơ thứ ba, những
sự do dự, chần chừ mà chúng ta vẫn còn thấy thấp thoáng ở khổ thơ đầu đã lặn mất.
Nhà thơ đã thật sự hoá thành con tàu, bài thơ đã thật sự trở thành “Tiếng hát con tàu”,
con tàu thơ chạy băng băng giữa lòng Tổ Quốc. Và Tổ Quốc với Tây Bắc đã trở thành
“Mẹ của hồn thơ”, nuôi dưỡng cảm xúc thơ. Tâm hồn của thi nhân giờ đã mê man,
đắm mình trong những hình ảnh mới mẻ, tươi tắn đầy sức lực của một đất nước trong
quá trình xây dựng.
Thế nhưng một lần nữa Chế Lan Viên cũng đã lường trước, dự kiến ra những gì

người đọc thơ còn băn khoăn, chưa thoả đáng. Chế Lan Viên có vẻ như đã dự đoán
được rằng nhiều người sẽ lo lắng: việc đi vào hiện thực sẽ làm mất đi của thơ những
nét đẹp vĩnh hằng được làm nên bởi chất men lãng mạn hay bằng cảm xúc lứa đôi.
Nhà thơ đã muốn giải đáp nhưng lo lắng, băn khoăn trong những câu thơ cuối bài:
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.
Lấy cả những ước mơ ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng ?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như con tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
Chế Lan Viên như muốn để cho người đọc thơ yên tâm khi biến lòng mình
thành những con tàu, nhà thơ không chỉ tìm lại cho thơ chất “vàng mười” của sự thật,
của cuộc đời, chất vàng quí giá được tôi luyện trong lửa của chiến tranh, của lao động
nhọc nhằn, của những linh hồn đã hi sinh. Nhưng điều ấy không có nghĩa là thơ mất đi
“vành trăng” lãng mạn, mất đi sự mơ mộng vốn đặc trưng của thơ. Chế Lan Viên đã
bảo vệ quyết liệt cho quyền của thơ được lãng mạn, mơ mộng bằng giọng điệu mang
âm sắc tranh luận :
Ai bảo con tàu không mộng tưởng ?
“Tiếng hát con tàu” được khép lại bằng những dòng thơ nói rằng thơ ca mới
vẫn được nuôi dưỡng bằng tình yêu, bằng vẻ đẹp của “mặt hồng” người thiếu nữ trong
“suối lớn mùa xuân” của cuộc đời. Thơ ca mới vẫn cần những bản tình ca. Khổ thơ
cuối cùng là không thể thiếu ấy để cho quan niệm thi ca trở nên cân đối, hoàn chỉnh.
Tài liệu sưu tầm

×