Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.42 MB, 41 trang )






Tài liệu


Một số vấn đề
về nhà nước pháp quyền
Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1. Khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp
quyền
Cantơ và các nhà tư tưởng tiến bộ thế kỷ XVIII-XIX đã đưa ra quan niệm Nhà
nước pháp quyền nhằm chống lại Nhà nước chuyên chế, cực quyền phong kiến,
chống lại sự độc đoán, lạm quyền và nằm trong trào lưu chung của hệ tư tưởng
giải phóng.Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải thay đổi hệ thống
chính trị, mở rộng dân chủ dựa trên nguyên tắc tôn trọng tính tối cao của pháp luật
và pháp chế.Với tính cách là một hình thức chính trị pháp lý hợp lý, Nhà nước
pháp quyền là một trong những giá trị quý báu chung của toàn nhân loại, được xếp
ngang với những giá trị khác như nhân quyền, dân chủ và chế độ lập hiến.
Vấn đề Nhà nước pháp quyền được đề cập nhiều trong các tác phẩm kinh điển
về Nhà nước và pháp luật.
Từ thời cổ đại, người ta đã bắt đầu tìm kiếm nguyên tắc, hình thức và cơ cấu để
thiết lập quan hệ qua lại, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa pháp luật và
quyền lực.
Trào lưu của quan niệm ngày càng sâu sắc, sớm hình thành tư tưởng về sự hợp
lý và công bằng của việc tổ chức một hình thức chính trị của đời sống xã hội,
trong đó nhờ vào sự thừa nhận và ủng hộ của quyền lực, pháp luật trở thành sức
mạnh của quyền lực, còn sức mạnh của quyền lực được tổ chức có trật tự, thừa


nhận pháp luật và bị hạn chế, ràng buộc bởi pháp luật, trở thành quyền lực Nhà
nước công bằng (tức phù hợp với pháp luật) . Sự nhận thức như vậy về Nhà nước
như một tổ chức pháp lý của sức mạnh quyền lực công khai là tư tưởng cơ bản về
Nhà nước pháp quyền. Học thuyết về Nhà nước pháp quyền thực tế được xây
dựng muộn hơn trong cuộc đấu tranh chống lại sự lộng quyền, độc đoán của giai
cấp phong kiến. Tuy vậy, ý tưởng về Nhà nước pháp quyền có cội nguồn xa xưa
trong lịch sử nhân loại.
Có người cho rằng cội nguồn của Nhà nước pháp quyền chính là biểu tượng cổ
xưa về quan tòa - nữ thần bịt mắt bằng băng vải đen, một tay cầm kiếm, một tay
cầm cán cân công lý, thể hiện sự kết hợp giữa sức mạnh và quyền lực pháp luật có
ý nghĩa sâu sắc: Trật tự pháp luật mà nữ thần bảo vệ là bắt buộc, bình đẳng đối với
tất cả mọi người. Biểu tượng nữ thần nói trên, theo quan niệm của người cổ đại,
không chỉ là biểu tượng về toà án công bằng mà còn là chế độ Nhà nước công
bằng nói chung (tổ chức quyền lực công bằng). Tư pháp được coi là sự phán xét
dựa trên cơ sở pháp luật.
Thế kỷ thứ VI Tr. CN, Sô-Lông - nhà thông thái Hy Lạp - đã áp dụng tư tưởng
kết hợp sức mạnh với quyền lực trong việc tổ chức Nhà nước Ai Cập trên những
nguyên tắc dân chủ. Ông diễn đạt tư tưởng của mình rằng, phải giải phóng tất cả
mọi người bằng quyền lực pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật.
Theo Aristôt, ở vương quốc Ai Cập cổ đại, nền dân chủ được hình thành từ
thời đại Sô-Lông. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của người cổ đại nhằm
chống lại quan niệm ấu trĩ, ngụy biện cho rằng sức mạnh đẻ ra pháp luật (tức lẽ
phải thuộc về kẻ mạnh ….)
Heraclit nói câu bất hủ: "Nhân dân phải đấu tranh bảo vệ Luật như bảo vệ chốn
nương thân của mình".
Còn Plato thì cho rằng, "chúng ta thừa nhận rằng những nơi mà luật được định
ra vì lợi ích của một số người thì ở đó không có chế độ Nhà nước. Chỉ có thể gọi
là Nhà nước nếu ở đó có sự công bằng".
Aristôt - cha đẻ của khoa học chính trị cổ đại - cho rằng nơi nào không có sức
mạnh của Luật thì nơi đó không có hình thức chế độ Nhà nước. Aristôt hiểu luật là

luật pháp quyền (bất cứ đạo luật nào cũng bao hàm trong mình pháp luật, nói về
tính tối cao của luật trong một Nhà nước được tổ chức theo đúng nghĩa của nó).
Theo ông, khái niệm công bằng gắn liền với quan niệm về Nhà nước, bởi vì pháp
luật là tiêu chuẩn của sự công bằng, là quy phạm điều chỉnh mọi giao tiếp chính
trị.
Các nhà tư tưởng cổ đại không chỉ chú trọng tới tính tối cao của luật, của pháp
luật mà còn chú trọng tới sự tổ chức hợp lý của hệ thống quản lý Nhà nước. Cả hai
khía cạnh đều có ý nghĩa quan trọng, liên hệ mật thiết với nhau. Nếu không có tổ
chức quy củ của Nhà nước, không có sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn; Không quy định trật tự trong mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan Nhà nước
thì không thể có tính tối cao của pháp luật. Mặt khác, bản thân tổ chức hệ thống
quyền lực của Nhà nước pháp quyền không thể tồn tại nếu không phù hợp với
pháp luật, nếu luật không được tuân thủ.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp
luật với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị.
Đó là hai yếu tố không thể thiếu và không thể tách rời của Nhà nước pháp quyền.
Bước phát triển đáng kể trong lý luận về Nhà nước pháp quyền được thể hiện
trong các học thuyết chính trị - pháp lý của các nhà tư tưởng La mã cổ đại, đặt biệt
của Xixêrông. Theo ông, Nhà nước là sự nghiệp và tài sản của nhân dân.
Xixêrông quan niệm rằng nhân dân không phải là sự tập hợp bất kỳ nào của
nhiều người, tập trung lại với nhau theo kiểu nào đó mà là sự tập hợp của nhiều
người gắn bó với nhau bằng sự thống nhất với nhau về pháp luật và lợi ích chung .
Như vậy, pháp luật là cội nguồn đẻ ra chế độ, tổ chức Nhà nước. Pháp luật ở
đây được hiểu là pháp luật tự nhiên, pháp luật xuất phát từ bản chất lý trí của con
người và của thế giới xung quanh con người như sự sáng tạo của lý trí thần thánh.
Pháp luật tự nhiên có trước Nhà nước và luật thành văn. Vì con người là sản phẩm
của tạo hóa, sản phẩm có lý trí nên pháp luật và sự công bằng là thuộc tính vốn có
của con người. Theo ông, một Nhà nước là Nhà nước pháp quyền không phải do
Nhà nước đó tuân thủ luật của mình mà là vì xét về cội nguồn và về bản chất, Nhà
nước chính là pháp luật, pháp luật tự nhiên của nhân dân. Pháp luật của Nhà nước

phải đáp ứng những đòi hỏi của pháp luật tự nhiên. Các đạo luật đó đóng vai trò
quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ chính trị - quyền lực. Xixêrông đưa
ra nguyên tắc: Luật tác động tới tất cả mọi người, kể cả người nắm quyền lực Nhà
nước. Sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật của Nhà nước xuất phát
ngay từ chỗ bản thân Nhà nước là pháp luật chung của mọi công dân. Do vậy,
công dân là một trong những chủ thể bình đẳng của pháp luật, của các mối quan hệ
pháp lý và của trật tự pháp luật chung. Tính hiện thực và hiệu lực thực tế của Nhà
nước với tính cách là trật tự pháp luật chung, theo Xixêrông phụ thuộc vào tính
tích cực chính trị, pháp lý của nhân dân. Do vậy, bảo vệ tự do cho công dân không
phải việc của riêng ai mà là tất cả mọi người, vì tự do của công dân là quyền công
dân, là bộ phận cấu thành của trật tự pháp luật chung, của toàn bộ tổ chức Nhà
nước .
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng cổ đại ảnh hưởng
đến sự hình thành và phát triển các học thuyết về phân quyền, Nhà nước pháp
quyền của các nhà tư tưởng thời kỳ trung đại và cận đại. Các học thuyết này đã
đóng vai trò to lớn trong việc phê phán sự bất bình đẳng của chế độ phong kiến, sự
lạm quyền của quan lại phong kiến, khắc phục các quan điểm thần học về Nhà
nước và pháp luật, khẳng định tư tưởng bình đẳng và tự do của mọi người trong
đời sống xã hội, trong tổ chức pháp luật - Nhà nước của các quan hệ chính trị.
Ý nghĩa quyết định của sự phát triển về lịch sử và lý luận của những quan
niệm mới về Nhà nước pháp quyền vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên
chủ nghĩa tư bản, là những vấn đề quyền lực chính trị dưới hình thức phân quyền
phù hợp với tương quan mới của các lực lượng chính trị, xã hội - giai cấp, đồng
thời loại trừ khả năng độc quyền hoá quyền lực trong tay một người hay một cơ
quan. Thế giới quan pháp lý của giai cấp tư sản đang lên đòi hỏi những quan niệm
mới về tự do của con người thông qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật
trong mọi việc công, tư.
Lốccơ (nhà triết học pháp quyền người Anh thế kỷ XVII) lý giải về việc phải
thực hiện phân quyền dựa trên sự ngự trị của pháp luật thể hiện dưới hình thức
Nhà nước, trong đó Luật có tính tối cao - Luật phù hợp với pháp luật tự nhiên,

công nhận tự do và các quyền tự nhiên của cá nhân. Nhà nước (có luật ngự trị) đối
lập với chuyên quyền, pháp chế đối lập với phi pháp của người nắm quyền. Theo
ông, nguyên tắc “cho phép làm tất cả những gì mà luật không cấm” chỉ đúng khi
áp dụng đối với công dân còn đối với người nắm quyền lực phải áp dụng nguyên
tắc ngược lại: "Cấm không được làm những gì mà luật không cho phép".
Quan niệm mới về phân quyền thể hiện đầy đủ trong các công trình của
Môngtexkiơ (Pháp) vào thế kỷ thứ XVIII. Theo ông, ở mỗi Nhà nước có ba loại
quyền :
- Quyền lập pháp;
- Quyền hành pháp;
- Quyền tư pháp.
Để tránh lạm quyền, ba quyền đó phải nằm trong tay ba cơ quan khác nhau,
chế ước lẫn nhau. Đó là điều kiện chủ yếu để đảm bảo tự do chính trị trong Nhà
nước. Tự do không phải làm những gì mà mình muốn và cũng không có nghĩa là
bị buộc làm những gì mà mình không muốn. Tự do có nghĩa là được làm tất cả
những gì mà luật cho phép.
Sau này, Mác cũng thể hiện quan điểm tương tự như vậy: Sự tự do được thừa
nhận về mặt pháp lý chỉ tồn tại trong Nhà nước dưới hình thức luật. Luật được
hiểu là luật pháp theo đúng nghĩa của nó chứ không phải sự làm luật tùy tiện.
Học thuyết của Lôccơ và Môngtexkiơ về phân quyền, về bảo đảm quyền tự do
của công dân ảnh hưởng rõ nét đến quan niệm lý luận về Nhà nước pháp quyền,
pháp luật nói chung và hiến pháp nói riêng của các Nhà nước tư sản sau này.
Chẳng hạn, Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân của Pháp 1789:
"Luật chỉ có thể cấm những hành vi có hại đối với xã hội. Tất cả những gì mà luật
không cấm, đều cho phép làm và không ai có thể bị buộc phải làm điều gì mà luật
không quy định”.
Canter (1724-1804) là người lập luận trên phương diện triết học về Nhà nước
pháp quyền như sau: Nhà nước là tập hợp nhiều người cùng phục tùng đạo luật
pháp quyền. “Hoạt động sao cho sự biểu thị tự do theo ý mình phù hợp với tự do
của người khác, phù hợp với luật chung”. Ông cũng là một trong những người tán

thành nguyên tắc phân quyền. Theo ông, ở đâu áp dụng nguyên tắc phân quyền thì
ở đó có Nhà nước pháp quyền; Còn nếu không thì là chuyên quyền. Nhà nước
pháp quyền không phải là hiện thực kinh nghiệm mà là mô hình lý luận, lý tưởng
cần được tuân thủ như sự đòi hỏi của lý trí và mục đích của nỗ lực của con người
trong tổ chức thực tế đời sống pháp luật - Nhà nước. Nguyên tắc pháp luật chính là
kết luận có sự phân tích rút ra từ khái niệm tự do. Tự do đòi hỏi con người phải
công nhận tự do của người khác không phụ thuộc vào việc họ sử dụng tự do nhằm
mục đích gì. Trong Nhà nước pháp quyền, cần phân biệt pháp luật với đạo đức,
nghĩa vụ pháp lý với trách nhiệm của người hảo tâm, Nhà nước với tính cách là
cộng đồng pháp luật với nhà thờ như một cộng đồng đạo đức: Nhà thờ quy định
trách nhiệm về đạo đức, Nhà nước quy định trách nhiệm pháp lý. Nhà nước pháp
quyền là Nhà nước cộng hòa thuần tuý, nơi ngự trị pháp luật, không phụ thuộc bất
cứ cá nhân nào. Hoạt động của Nhà nước hầu như thực chất là lập pháp, mục đích
của quyền lập pháp là sự tự do, còn quyền hành pháp không có mục đích pháp lý
chung (quản lý chỉ có thể tác động đến phúc lợi của công dân) và do vậy những
biện pháp nhằm đạt tới những mục đích không phải pháp lý không thể là các biện
pháp cưỡng chế. Về triết học pháp quyền của Canter, K. Mác viết: “ Ở Canter,
nước cộng hòa với tính cách là hình thức Nhà nước duy nhất hợp lý, trở thành định
đề của lý trí thực tế không bao giờ thực hiện được, nhưng việc thực hiện định đề
đó luôn luôn là mục đích của chúng ta và là đối tượng tư duy của chúng ta”.
Theo Hêghen, Nhà nước pháp quyền là thực tiễn của lý trí trong những hình
thức nhất định của sự tồn tại thường ngày của con người. Con người là tự do vì nó
là thực thể tinh thần. Con người tự do và các hình thức tự do chỉ hình thành trong
quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trong quá trình đó con người tự tạo ra
mình với tính cách là một thực thể tự do, tạo ra thế giới tự do của mình, tạo ra Nhà
nước, pháp luật. Hêghen coi lịch sử thế giới là một quá trình nhận thức về tự do,
quá trình con người nhận thức ngày càng sâu sắc về chân lý khách quan, kể cả việc
nhận thức về mình như một thực thể tinh thần, tự do và quá trình thực hiện khác
nhau về tự do dưới hình thức Nhà nước - pháp luật. Theo Hêghen, pháp luật là tư
tưởng tự do, Nhà nước cũng chính là pháp luật, pháp luật cụ thể, có nội dung

phong phú và là toàn bộ hệ thống pháp luật, một hệ thống bao hàm việc thừa nhận
mọi quyền khác, quyền của cá nhân, gia đình và xã hội. Hêghen đặt Nhà nước lên
cao nhất, trên cá nhân, trên cả xã hội. Nhà nước là thứ pháp luật cụ thể ở vị trí đỉnh
chóp của hình nón pháp luật. Ông thần thánh hóa Nhà nước pháp quyền, coi các
quyền cá nhân và xã hội phụ thuộc, phục tùng Nhà nước không phải với tính cách
là bộ máy bạo lực mà là một thứ pháp luật cao hơn.
Là nhà tư tưởng đầu thế kỷ thứ XIX, Hêghen cho rằng tư tưởng về tự do tồn tại
dưới hình thức quân chủ lập hiến dựa trên cơ sở của nguyên tắc phân quyền. Sự
phân quyền trong Nhà nước là sự bảo đảm cho tự do công cộng. Toàn bộ cấu trúc
về Nhà nước pháp quyền của Hêghen trực tiếp chống lại sự lạm quyền, chuyên
chế, chống lại mọi nguy cơ dùng vũ lực, bạo lực phi pháp. Về thực chất, Hêghen
dùng chủ nghĩa Nhà nước pháp quyền chống lại chủ nghĩa cực quyền .
Nói về lịch sử tư tưởng Nhà nước pháp quyền không thể không nhắc đến các
quan niệm pháp luật thực chứng phát triển vào thế kỷ XIX và thế kỷ XX. Đó là
quan niệm của Herber, Daisi, Ellinec, Laband …
Bản chất của các quan niệm này thể hiện ở chỗ phải tạo ra cấu trúc Nhà nước
bị kiềm chế, ràng buộc bởi pháp luật do chính Nhà nước tạo ra. Những người theo
thuyết này phủ định sự phân biệt luật với pháp luật và coi pháp luật là những quy
phạm (các quy phạm luật, dưới luật, luật tục, án lệ…) do Nhà nước đặt ra và bảo
vệ. Theo quan niệm pháp luật thực chứng, Nhà nước là cội nguồn sản sinh ra pháp
luật. Lệnh của vua là pháp luật, không có sự phân biệt giữa pháp luật với sự tùy
tiện, tự do và bạo lực. Sự tùy tiện, bạo lực khi được người nắm quyền bảo đảm sẽ
mặc nhiên trở thành pháp luật. Quyền và tự do cá nhân là lộc do chính quyền ban
phát, cho nên có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào. Do vậy, các quan niệm pháp luật
thực chứng phủ định Nhà nước pháp quyền. Nói đúng hơn, đó là quan niệm Nhà
nước phi pháp chế, trong đó Nhà nước không bị ràng buộc bởi luật, không có tiêu
chuẩn khách quan để xác định tính hợp pháp, tính chất pháp lý của các Nhà nước
đó, không phân biệt đâu là pháp luật, đâu là sự tuỳ tiện.
Lý luận kinh điển về Nhà nước pháp quyền phát triểm mạnh ở nước Đức vào
nửa đầu thế kỷ XIX. Robert Fon Mohn, Karl Teodor Valker là những người đầu

tiên dùng thuật ngữ Nhà nước pháp quyền đã được lập luận trong triết hoc của
Canter, Hegen. Mohn và Valker đề ra nguyên tắc về tính tối cao của luật như là
tiêu chuẩn quan trọng nhất của Nhà nước pháp quyền. Tính tối cao của luật, sự
ngự trị của pháp luật thể hiện qua quyền lực nhân dân dưới thình thức chủ quyền
của nghị viện. Mohn không cho rằng luật có chức năng tích cực như là công cụ tự
quản của xã hội mà thuần tuý có chức năng tiêu cực, phản diện (công cụ bảo vệ
khỏi sự can thiệp chuyên quyền vào lĩnh vực tự do được bảo vệ bởi trật tự pháp
luật).
Theo Mohn, trong ba loại quyền trong Nhà nước pháp quyền thì quyền lập
pháp có vị trí cao nhất, không thể không có sự kiểm tra của các cơ quan tư pháp
lớn hơn sự hoạt động lập pháp mà chỉ lớn hơn các cơ quan hành pháp mà thôi.
Theo Mohn và Valker, trong những tiêu chuẩn của Nhà nước pháp quyền đó là sự
bình đẳng của mọi người trước pháp luật, thừa nhận mục đích sống còn của tất cả
mọi người không phụ thuộc vào địa vị xã hội của họ, việc áp dụng các quy phạm
chung một cách khách quan không phụ thuộc vào dịa vị xã hội của cá nhân. Nhà
nước pháp quyền không thể có mục tiêu nào khác ngoài việc làm thế nào tổ chức
được đời sống của nhân dân sao cho mỗi thành viên trong đó nhận được sự giúp
đỡ và khuyến khích sự phát triển tự do tối đa và toàn diện năng lực tổng hợp của
mình.
Stal (1802-1861) là nhà tư tưởng theo trường phái bảo thủ về Nhà nước pháp
quyền có quan điểm gần giống Mohn nhưng lại bác bỏ mọi hình thức phân quyền,
khẳng định Nhà nước chỉ phải bị ràng buộc bởi luật.
Ông định nghĩa Nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước cần phải trở thành
Nhà nước pháp quyền. Đó là phương châm của thời đại. Nhà nước phải xác định
phương hướng và giới hạn hoạt động của mình cũng như phạm vi tự do của công
dân thông qua pháp luật như sự bảo đảm bất khả xâm phạm. Nhà nước cần thực
hiện những tư tưởng trong giới hạn của lĩnh vực pháp luật, trong bất cứ trường hợp
nào cũng không được vượt qua giới hạn đó.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền là không phải xác định mục tiêu và nội
dung của trật tự pháp luật Nhà nước mà chỉ xác định phương thức thực hiện mục

tiêu và nội dung đó.
Theo Stal, Nhà nước pháp quyền vừa là vật chất, vừa là hình thức. Với tính
cách là Nhà nước pháp quyền vật chất, nó thực hiện những tiêu chuẩn, nội dung
của sự ngự trị của đạo đức. Là Nhà nước pháp quyền hình thức, nó ngăn ngừa việc
dùng bạo lực để thực hiện những tiêu chuẩn đó.
Stal phủ định sự phân định rạch ròi giữa Nhà nước và xã hội, phủ định khả
năng kiểm tra của pháp luật tự nhiên lớn hơn pháp luật thực định nhằm bênh vực
chính sách can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực công cộng. Điều đó thể hiện và
phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản.
Theo Stal, các quan hệ xã hội hiện có với tính cách là các quan hệ pháp lý khởi
điểm được phản ảnh một cách đơn giản trong các văn bản pháp luật và hiệu lực
pháp lý của luật chỉ xuất phát từ đặc điểm và truyền thống. Ông không giải quyết
mâu thuẫn giữa pháp luật với tính cách là sự phản ảnh của bản chất sự việc mà với
pháp luật với tính cách là yếu tố sáng tạo, quy định tương lai của xã hội. Sự mâu
thuẫn tồn tại vì ông đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản trong sự can thiệp có
hiệu quả của Nhà nước đồng thời cũng biểu hiện lợi ích của tầng lớp quý tộc trong
việc bảo vệ các hình thức sở hữu tư bản chủ nghĩa, tránh sự can thiệp của Nhà
nước.
Lịch sử học thuyết về Nhà nước pháp quyền là kho tàng phong phú với
những mặt mạnh, mặt yếu cần được tiếp tục nghiên cứu để đưa ra giải pháp thực tế
đúng đắn trong những điều kiện hiện nay.
2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi cấp thiết ở
nước ta hiện nay.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta hiện nay với đường lối phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước giữ vai trò hết
sức quan trọng trong điều tiết vĩ mô. Vì vậy việc xây dựng và củng cố Nhà nước
pháp quyền - Nhà nước của dân, do dân và vì dân như Hiến pháp 1992 đã quy
định là một trong những nhiệm vụ bức xúc, vô cùng quan trọng.
Nhà nước ta ra đời từ Cách mạng tháng 8/1945 được rèn luyện và trưởng thành

qua hai cuộc cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ
nghĩa; Được thử thách qua hai cuộc kháng chiến và xây dựng trong hòa bình. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, Nhà nước đã có những đóng góp to lớn trong quá
trình cách mạng, là công cụ đắc lực của nhân dân trong đấu tranh cách mạng và
xây dựng xã hội mới.
Đảng ta, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, trung thành với học thuyết Mác-
Lênin về Nhà nước và pháp luật đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở nước
ta phù hợp với truyền thống lịch sử và bản sắc dân tộc Việt Nam. Những giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật được khẳng định và kiểm nghiệm
qua lịch sử lâu dài với những thành tựu to lớn của Nhà nước ta.
Quá trình đổi mới kinh tế - xã hội đang diễn ra sôi động. Nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, ngày càng thiết lập và củng cố
quan hệ đa phương, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, nhu cầu dân chủ hóa mọi
mặt đời sống xã hội ngày càng cao đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền, đổi mới từ cơ chế, pháp luật, chính sách đến mô hình tổ chức,
phương thức hoạt động cho phù hợp và thúc đẩy trở lại quá trình phát triển kinh
tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là khâu trọng yếu trong đổi mới hệ thống
chính trị, quan hệ mật thiết và tác động qua lại với chỉnh đốn Đảng, nâng cao chất
lượng lãnh đạo của Đảng. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
tạo điều kiện phát huy vai trò của Nhà nước pháp quyền. Ngược lại, xây dựng Nhà
nước pháp quyền, phát huy hiệu lực quản lý Nhà nước là nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng, làm cho đường lối của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, xác định quan điểm cơ bản, phương
hướng, chủ trương của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, khắc phục nhận
thức mơ hồ, quan điểm lệch lạc là yêu cầu cấp thiết để thống nhất tư tưởng, định
hướng đúng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong công cuộc đổi mới.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền không có nghĩa là quay lưng lại với quá khứ,
xây dựng lại từ đầu một Nhà nước theo hướng khác mà là xây dựng và từng bước

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, phát huy thành tựụ và ưu điểm của Nhà nước
trong hơn nửa thế kỷ qua, triệt để khắc phục khuyết điểm - đây là sự kế thừa, vận
dụng, phát huy học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật trong điều kiện mới của quốc gia, thời đại, phục vụ công cuộc đổi mới.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay phải xuất phát từ các căn
cứ cơ bản sau đây:
Một là, nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh cũng như cương lĩnh của Đảng về Nhà nước và pháp luật;
Hai là, phát huy truyền thống và kinh nghiệm quản lý của Nhà nước, "xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam với đặc điểm, truyền thống, tính cách và bản sắc dân
tộc Việt Nam, đồng thời tham khảo, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế
giới, song quyết không được rập khuân sao chép trong bất luận trường hơp nào,
giáo điều, rập khuân, sao chép đều phương hại đến lợi ích của đất nước, của dân
tộc"(1).
Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn liền với đổi mới đồng bộ hệ
thống chính trị.
Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến sự ngự trị của pháp luật trong đời
sống xã hội và chính trị với tư cách là ý chí của nhân dân, có giá trị phổ biến. Có
thể hiểu Nhà nước pháp quyền theo hai khía cạnh:
Về hình thức pháp lý, Nhà nước pháp quyền đồng nghĩa với sự ngự trị của
pháp luật, sự ràng buộc bởi pháp luật đối với Nhà nước và tất cả các thành viên
của xã hội. Đây chính là yêu cầu pháp chế trong xây dựng pháp luật và áp dụng
pháp luật.
Về nội dung pháp lý, trong Nhà nước pháp quyền bản thân pháp luật bảo đảm
yêu cầu khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Để đảm bảo cả hai khía cạnh trên, phải có hình thức tổ chức thích hợp của
quản lý Nhà nước và những cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật một cách khoa
học và có hiệu quả, đòi hỏi phải có một hệ thống tài phán hoàn chỉnh.
Mỗi quan niệm đều có mặt mạnh, mặt yếu khác nhau ở mỗi thời kỳ. Nội dung
của từng quan niệm, quan điểm rất đa dạng nhưng hai yếu tố luôn xuyên suốt là:

Nhà nước có tính pháp lý và pháp luật có tính pháp lý, công bằng.
Ở Việt Nam trước năm 1945 dưới chế độ phong kiến, thuộc địa, không có Nhà
nước pháp quyền. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được Hồ Chí Minh
đưa ra năm 1919. Cách mạng thành công cùng với việc thiết lập chế độ cộng hòa
dân chủ, Người đã vận dụng tư tưởng này vào Hiến pháp 1946. Song công cuộc
kháng chiến cứu nước, chiến tranh kéo dài và nhiều lý do khách quan khác chưa
cho phép chúng ta thực hiện một cách triệt để tư tưởng này.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay đòi hỏi chúng ta phải cải cách
hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt chú trọng cải cách bộ máy Nhà nước. Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ: “Tiếp tục cải cách bộ máy Nhà
nước theo phương hướng: Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng
phân công, phân cấp rành mạch”.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là khâu trọng yếu trong đổi mới hệ thống
chính trị, quan hệ khăng khít, đan xen và qua lại với đổi mới, xây dựng và chỉnh
đốn Đảng. Nâng cao năng lực và chất lượng lãnh đạo của Đảng, đổi mới nội dung
và phương thức lãnh đạo của đảng tạo điều kiện xây dựng và phát huy vai trò của
Nhà nước pháp quyền. Ngược lại, xây dựng Nhà nước pháp quyền phát huy hiệu
lực quản lý của Nhà nước là nâng cao năng lực tổ chức của Đảng, làm cho chủ
trương, chính sách, cương lĩnh lãnh đạo của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiển xác định rõ quan điểm cơ bản, phương
hướng, chủ trương của Đảng về Nhà nước pháp quyền, khắc phục nhận thức mơ
hồ, quan điểm lệch lạc là đòi hỏi cấp thiết để thống nhất tư tưởng, định hướng
đúng đắn cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trong sự nghiệp đổi mới.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền không phải là quay lưng lại với quá khứ vẻ
vang, không phải là xây dựng lại từ đầu một Nhà nước theo một hướng khác.Vấn
đề là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, phát huy
thành tựu và ưu điểm vốn có của Nhà nước ta, khắc phục triệt để khuyết điểm, sai
lầm đã mắc. Quá trình này là sự kế thừa, vận dụng, phát huy học thuyết Mác-

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật trong những điều kiện
mới của đất nước, của thời đại, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa
đất nước.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
hiện nay phải dựa trên những căn cứ cơ bản sau đây:
Một là, phải nắm vững nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và cương lĩnh của Đảng về Nhà nước và pháp luật;
Hai là, phát huy truyền thống và kinh nghiệm quản lý đất nước của Nhà
nước ta, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng tiến bộ và kinh nghiệm
quản lý hiện đại của các nước trong khu vực và trên thế giới;
Ba là, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, với những đặc điểm, tình hình
và yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, gắn liền với đổi mới đồng bộ hệ thống
chính trị.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
không chỉ là một nguyện vọng, không còn đơn thuần là một chủ trương, một quyết
sách. Hiến pháp năm 1992 có ý nghĩa như một điều kiện tiên quyết để xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam phải thật sự chú trọng vai trò và
chức năng mới của Nhà nước. Trong quá trình đó, phải coi trọng tất cả các đặc
trưng của cả phạm vi kinh tế lẫn phạm vi xã hội khi nói về vai trò và chức năng
Nhà nước.
Vì vậy, Đảng đề ra nhiệm vụ xây dựng từng bước một Nhà nước pháp quyền
như là con đường cơ bản để khẳng định thiên chức Nhà nước của dân, như Tổng
bí thư Đỗ Mười từng nhấn mạnh: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
Như đã phân tích, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền có nội dung cơ bản là
phản ánh mối quan hệ giữa quyền lực và pháp luật. Nhưng chỉ có quan niệm về
quyền lực và mối quan hệ của nó với pháp luật, tuy là hạt nhân của học thuyết về
Nhà nước pháp quyền vẫn chưa đủ trở thành học thuyết hoàn chỉnh về Nhà nước

pháp quyền. Chỉ khi nào Nhà nước được quan niệm như một tổ chức pháp lý nhằm
thực hiện công quyền thì khi đó tư tưởng Nhà nước pháp quyền mới được coi là
học thuyết hoàn chỉnh.
Cần phải luôn chú trọng hai bộ phận chính của học thuyết về Nhà nước pháp
quyền cũng như mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại của chúng:
Một là, sự hiện diện của tổ chức công quyền và dựa trên nền tảng pháp luật để
duy trì công quyền, tức tính pháp lý trong tổ chức quyền lực Nhà nước. Nghĩa là,
Nhà nước cũng như các thiết chế của nó phải là những thiết chế được pháp luật
xác định, tránh tùy tiện và lạm quyền. Tính pháp lý của tổ chức Nhà nước là đặc
trưng và yêu cầu của các quan hệ tổ chức theo chiều ngang - dọc, trên - dưới.
Pháp luật đặt ra vấn đề kiểm tra việc tuân thủ thẩm quyền, về phân quyền
nhằm kiểm soát và hạn chế sự lạm quyền, về mối quan hệ giữa quyền lực ở trung
ương và sự tự quản ở địa phương, về mối quan hệ giữa quyền lực công khai (công
quyền) và cá nhân công dân .
Hai là, pháp luật được công quyền thừa nhận, được sử dụng như một phương
thức cai trị và quản lý có giá trị phổ biến chung và có hiệu lực bắt buộc. Đó là tính
phổ biến của hệ thống pháp luật. Để đạt được yêu cầu này, phải tạo ra cơ chế đảm
bảo tính khách quan của pháp luật. Tính chất khách quan và phổ biến của pháp
luật chỉ có thể có được khi các thiết chế quyền lực được tổ chức trên cơ sở pháp
luật.
Hai đặc trưng chủ yếu trên đây quyện lẫn vào nhau, bổ sung cho nhau, đan xen
nhau và đều nằm trong cơ cấu thống nhất của Nhà nước pháp quyền, được thể hiện
rõ trong Hiên pháp 1992. Bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước thực hiện
nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp luật. Các thiết chế của hệ thống chính trị đều
phải hoạt động trên cơ sở pháp luật.
Với tiền đề từ trong chế độ kinh tế và quan hệ sở hữu mới, Nhà nước pháp
quyền Việt Nam luôn tiến tới khuynh hướng bảo vệ con người, điều tiết kinh tế -
xã hội vì lợi ích con người, của cộng đồng, duy trì trật tự pháp luật vì lợi ích con
người .

Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế nói chung rất đa
dạng, đòi hỏi phải có sự bình đẳng và công bằng. Thị trường đòi hỏi cơ chế tự điều
chỉnh từ phía các công cụ chính trị để thích nghi với nó. Sự điều chỉnh từ phía Nhà
nước chỉ có thể là sự tự điều chỉnh của nó cho phù hợp với các lợi ích kinh tế và
xã hội của các thành viên xã hội. Những yếu tố này tạo nên sự thống nhất của thị
trường, làm phong phú giao lưu kinh tế quốc tế. Nhà nước thực hiện vai trò điều
chỉnh này thông qua công cụ pháp luật, chẳng hạn như Luật chống độc quyền,
pháp luật về sở hữu trí tuệ, bảo vệ người sản xuất, kinh doanh
Để đảm bảo công bằng, ngoài công cụ pháp luật, Nhà nước và các thiết chế
khác của hệ thống chính trị phải năng động và mềm dẻo, có khả năng tự điều
chỉnh cao. Do vậy, trong hệ thống chính trị, ngoài Nhà nước là thiết chế trung tâm,
vai trò các tổ chức quần chúng rất được đề cao và phát huy tác dụng.
Quan hệ xã hội ngày nay rất đa dạng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, như chính trị, kinh tế, dân tộc, tôn giáo và nhiều mối quan hệ khác. Các quan
hệ đó càng phức tạp bao nhiêu thì khả năng quan hệ qua lại càng lớn bấy nhiêu.
Do vậy, các thiết chế chính trị cần phải kịp thời điều chhỉnh để hoàn thành sứ
mạng của mình .
Pháp luật của nước ta hiện nay phải là đại lượng có khả năng điều chỉnh và
phải trật tự hóa các các quan hệ xã hội. Pháp luật luôn luôn gắn liền với Nhà nước,
không bao giờ có thể tách rời chính trị, nó luôn là công cụ của chính trị.
Như vậy, sự công bằng và dân chủ là nội dung cơ bản của pháp luật, trở thành
nền tảng của hoạt động Nhà nước, của hệ thống pháp luật.
Pháp luật phải phù hợp với truyền thống, văn hoá dân tộc. Đó là cơ sở cho việc
khẳng định khả năng xây dựng một Nhà nước pháp quyền, khả năng chấp nhận và
phổ biến những giá trị của pháp luật.
Trong điều kiện nhiều thành phần kinh tế và lợi ích kinh tế được dùng làm nền
tảng để xác định tính công bằng thì trước hết phải xác định cơ sở pháp luật làm
nền tảng cho một Nhà nước của nhân dân.
Trong thực tế, đối với nhóm lợi ích này, pháp luật được coi là công bằng còn
đối với nhóm lợi ích khác thì không được cho là vậy. Chính vì vậy, việc xác định

tính công bằng chỉ được thực hiện một cách tương đối. Suy cho cùng, tính công
bằng của pháp luật do thái độ của người dân quyết định. Nhưng thái độ đó lại do
các lợi ích xã hội và vị trí xã hội của con người quyết định, vì ý thức pháp luật là
sự phản ảnh toàn bộ cơ sở xã hội. Pháp luật phản ánh được lợi ích nhiều người thì
được nhiều người coi là công bằng, đúng đắn. Đây là nội dung hết sức quan trọng,
phải chú ý trong khi xây dựng pháp luật. Đó cũng chính là việc Nhà nước sử dụng
pháp luật để bảo vệ con người .
Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế, cơ cấu kinh tế đòi hỏi tính công bằng, bình đẳng
cao. Chỉ có Nhà nước pháp quyền mới có thể thỏa mãn yêu cầu đó.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là tạo ra quan hệ đúng đắn và ổn định cho
một cơ chế quyền lực, tạo ra một hệ thống chính trị năng động và có hiệu quả, loại
trừ nguyên nhân của chế độ tập trung, độc đoán của tệ quan liêu, loại trừ tham
nhũng … trong bộ máy Nhà nước.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là tạo ra quan hệ đúng đắn giữa tổ chức
quyền lực Nhà nước với công dân. Nhà nước pháp quyền tạo nên những “kênh”
pháp lý đúng đắn, công khai, dân chủ để nhân dân sử dụng quyền lực của mình, sử
dụng quyền và thực hiện các nghĩa vụ pháp lý. Nội dung cốt lõi của các “kênh” đó
là sự công bằng, bình đẳng, rõ ràng, ổn định - những giá trị pháp lý mà chỉ một hệ
thống pháp luật được xuất phát từ quyền lực nhân dân đích thực mới có thể đảm
bảo được.
3. Một số nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay:
Nghiên cứu lý luận về Nhà nước pháp quyền, quán triệt quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối, chiến lược, chính
sách của Đảng, có thể rút ra một số nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay như sau:
Một là, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng
quyền lực Nhà nước vừa trực tiếp vừa gián tiếp, thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với cơ quan Nhà nước trong việc sử dụng quyền lực mà nhân dân giao phó.
Quyền giám sát đó được đảm bảo bằng cơ chế và công cụ pháp lý hữu hiệu.

Hai là, các quan hệ cơ bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật, chứ không
phải chỉ bằng đạo lý. Pháp luật đóng vai trò là khuôn mẫu cho hành vi, là qui tắc
xử sự mang tính bắt buộc chung, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho xử sự của
từng cá nhân, tổ chức trong toàn xã hội. Ở nghĩa này, Nhà nước không “làm ra”
luật mà chỉ hình thức hoá các quy tắc, các mô hình phổ biến của các hành vi xã
hội. Các thiết chế của Nhà nước phải là công cụ đắc lực để thực thi pháp luật.
Ba là, pháp luật phải giữ vị trí chủ đạo trong toàn xã hội, trong mọi xử sự
của các chủ thể quan hệ xã hội. Mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức phải tuyệt đối
tuân thủ tính thống nhất của pháp luật, trong đó tính tối cao của hiến pháp và luật
phải được đặc biệt coi trọng; Các văn bản dưới luật phải phục tùng chúng, phải
bảo đảm tính hợp pháp, tính hợp hiến và tính pháp chế.
Bốn là, không một tổ chức, cá nhân nào được đặt mình đứng ngoài pháp
luật hoặc thậm chí đứng trên pháp luật; Đảm bảo nguyên tắc: Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật. Đồng thời với nguyên tắc này, Nhà nước tiến tới thực
hiện nguyên tắc: “Có thể làm tất cả những gì luật không cấm” đối với công dân, tất
nhiên phải trong khuôn khổ đạo đức xã hội, phải tôn trọng lợi ích của xã hội và
của người khác. Con người phải là mục tiêu cao nhất để pháp luật bảo vệ và có giá
trị cao nhất. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
Với những nguyên tắc trên, Nhà nước pháp quyền do đó phải là một Nhà nước
đích thực của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trong đó, tất cả quyền lực
phải thực sự thuộc về nhân dân.
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA
NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN VÀ VÌ NHÂN DÂN - YÊU CẦU CẤP THIẾT
CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
KHÁI NIỆM, LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ
TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Cantơ và các nhà tư tưởng tiến bộ thế kỷ XVIII-XIX đã đưa ra quan niệm
Nhà nước pháp quyền nhằm chống lại Nhà nước chuyên chế, cực quyền phong
kiến, chống lại sự độc đoán, lạm quyền và nằm trong trào lưu chung của hệ tư
tưởng giải phóng.Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải thay đổi hệ

thống chính trị, mở rộng dân chủ dựa trên nguyên tắc tôn trọng tính tối cao của
pháp luật và pháp chế.Với tính cách là một hình thức chính trị pháp lý hợp lý, Nhà
nước pháp quyền là một trong những giá trị quý báu chung của toàn nhân loại,
được xếp ngang với những giá trị khác như nhân quyền, dân chủ và chế độ lập
hiến.
Vấn đề Nhà nước pháp quyền được đề cập nhiều trong các tác phẩm kinh điển
về Nhà nước và pháp luật.
Từ thời cổ đại, người ta đã bắt đầu tìm kiếm nguyên tắc, hình thức và cơ cấu để
thiết lập quan hệ qua lại, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa pháp luật và
quyền lực.
Trào lưu của quan niệm ngày càng sâu sắc, sớm hình thành tư tưởng về sự hợp
lý và công bằng của việc tổ chức một hình thức chính trị của đời sống xã hội,
trong đó nhờ vào sự thừa nhận và ủng hộ của quyền lực, pháp luật trở thành sức
mạnh của quyền lực, còn sức mạnh của quyền lực được tổ chức có trật tự, thừa
nhận pháp luật và bị hạn chế, ràng buộc bởi pháp luật, trở thành quyền lực Nhà
nước công bằng (tức phù hợp với pháp luật) . Sự nhận thức như vậy về Nhà nước
như một tổ chức pháp lý của sức mạnh quyền lực công khai là tư tưởng cơ bản về
Nhà nước pháp quyền. Học thuyết về Nhà nước pháp quyền thực tế được xây
dựng muộn hơn trong cuộc đấu tranh chống lại sự lộng quyền, độc đoán của giai
cấp phong kiến. Tuy vậy, ý tưởng về Nhà nước pháp quyền có cội nguồn xa xưa
trong lịch sử nhân loại.
Có người cho rằng cội nguồn của Nhà nước pháp quyền chính là biểu
tượng cổ xưa về quan tòa - nữ thần bịt mắt bằng băng vải đen, một tay cầm kiếm,
một tay cầm cán cân công lý, thể hiện sự kết hợp giữa sức mạnh và quyền lực
pháp luật có ý nghĩa sâu sắc: Trật tự pháp luật mà nữ thần bảo vệ là bắt buộc, bình
đẳng đối với tất cả mọi người. Biểu tượng nữ thần nói trên, theo quan niệm của
người cổ đại, không chỉ là biểu tượng về toà án công bằng mà còn là chế độ Nhà
nước công bằng nói chung (tổ chức quyền lực công bằng). Tư pháp được coi là sự
phán xét dựa trên cơ sở pháp luật.
Thế kỷ thứ VI Tr. CN, Sô-Lông - nhà thông thái Hy Lạp - đã áp dụng tư

tưởng kết hợp sức mạnh với quyền lực trong việc tổ chức Nhà nước Ai Cập trên
những nguyên tắc dân chủ. Ông diễn đạt tư tưởng của mình rằng, phải giải phóng
tất cả mọi người bằng quyền lực pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp
luật.
Theo Aristôt, ở vương quốc Ai Cập cổ đại, nền dân chủ được hình thành
từ thời đại Sô-Lông. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của người cổ đại nhằm
chống lại quan niệm ấu trĩ, ngụy biện cho rằng sức mạnh đẻ ra pháp luật (tức lẽ
phải thuộc về kẻ mạnh ….)
Heraclit nói câu bất hủ: "Nhân dân phải đấu tranh bảo vệ Luật như bảo vệ
chốn nương thân của mình".
Còn Platon thì cho rằng, "chúng ta thừa nhận rằng những nơi mà luật được
định ra vì lợi ích của một số người thì ở đó không có chế độ Nhà nước. Chỉ có thể
gọi là Nhà nước nếu ở đó có sự công bằng".
Aristôt - cha đẻ của khoa học chính trị cổ đại - cho rằng nơi nào không có
sức mạnh của Luật thì nơi đó không có hình thức chế độ Nhà nước. Aristôt hiểu
luật là luật pháp quyền (bất cứ đạo luật nào cũng bao hàm trong mình pháp luật,
nói về tính tối cao của luật trong một Nhà nước được tổ chức theo đúng nghĩa của
nó). Theo ông, khái niệm công bằng gắn liền với quan niệm về Nhà nước, bởi vì
pháp luật là tiêu chuẩn của sự công bằng, là quy phạm điều chỉnh mọi giao tiếp
chính trị.
Các nhà tư tưởng cổ đại không chỉ chú trọng tới tính tối cao của luật, của
pháp luật mà còn chú trọng tới sự tổ chức hợp lý của hệ thống quản lý Nhà nước.
Cả hai khía cạnh đều có ý nghĩa quan trọng, liên hệ mật thiết với nhau. Nếu không
có tổ chức quy củ của Nhà nước, không có sự phân định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn; Không quy định trật tự trong mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan
Nhà nước thì không thể có tính tối cao của pháp luật. Mặt khác, bản thân tổ chức
hệ thống quyền lực của Nhà nước pháp quyền không thể tồn tại nếu không phù
hợp với pháp luật, nếu luật không được tuân thủ.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của
pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị.

Đó là hai yếu tố không thể thiếu và không thể tách rời của Nhà nước pháp quyền.
Bước phát triển đáng kể trong lý luận về Nhà nước pháp quyền được thể
hiện trong các học thuyết chính trị - pháp lý của các nhà tư tưởng La mã cổ đại,
đặc biệt của Xixêrông. Theo ông, Nhà nước là sự nghiệp và tài sản của nhân dân.
Xixêrông quan niệm rằng nhân dân không phải là sự tập hợp bất kỳ nào của
nhiều người, tập trung lại với nhau theo kiểu nào đó mà là sự tập hợp của nhiều
người gắn bó với nhau bằng sự thống nhất với nhau về pháp luật và lợi ích chung .
Như vậy, pháp luật là cội nguồn đẻ ra chế độ, tổ chức Nhà nước. Pháp luật ở
đây được hiểu là pháp luật tự nhiên, pháp luật xuất phát từ bản chất lý trí của con
người và của thế giới xung quanh con người như sự sáng tạo của lý trí thần thánh.
Pháp luật tự nhiên có trước Nhà nước và luật thành văn. Vì con người là sản phẩm
của tạo hóa, sản phẩm có lý trí nên pháp luật và sự công bằng là thuộc tính vốn có
của con người. Theo ông, một Nhà nước là Nhà nước pháp quyền không phải do
Nhà nước đó tuân thủ luật của mình mà là vì xét về cội nguồn và về bản chất, Nhà
nước chính là pháp luật, pháp luật tự nhiên của nhân dân. Pháp luật của Nhà nước
phải đáp ứng những đòi hỏi của pháp luật tự nhiên. Các đạo luật đó đóng vai trò
quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ chính trị - quyền lực. Xixêrông đưa
ra nguyên tắc: Luật tác động tới tất cả mọi người, kể cả người nắm quyền lực Nhà
nước. Sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật của Nhà nước xuất phát
ngay từ chỗ bản thân Nhà nước là pháp luật chung của mọi công dân. Do vậy,
công dân là một trong những chủ thể bình đẳng của pháp luật, của các mối quan hệ
pháp lý và của trật tự pháp luật chung.Tính hiện thực và hiệu lực thực tế của Nhà
nước với tính cách là trật tự pháp luật chung, theo Xixêrông phụ thuộc vào tính
tích cực chính trị, pháp lý của nhân dân. Do vậy, bảo vệ tự do cho công dân không
phải việc của riêng ai mà là tất cả mọi người, vì tự do của công dân là quyền công
dân, là bộ phận cấu thành của trật tự pháp luật chung, của toàn bộ tổ chức Nhà
nước .
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng cổ đại ảnh hưởng
đến sự hình thành và phát triển các học thuyết về phân quyền, Nhà nước pháp
quyền của các nhà tư tưởng thời kỳ trung đại và cận đại. Các học thuyết này đã

đóng vai trò to lớn trong việc phê phán sự bất bình đẳng của chế độ phong kiến, sự
lạm quyền của quan lại phong kiến, khắc phục các quan điểm thần học về Nhà
nước và pháp luật, khẳng định tư tưởng bình đẳng và tự do của mọi người trong
đời sống xã hội, trong tổ chức Pháp luật - Nhà nước của các quan hệ chính trị.
Ý nghĩa quyết định của sự phát triển về lịch sử và lý luận của những quan
niệm mới về Nhà nước pháp quyền vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên
chủ nghĩa tư bản, là những vấn đề quyền lực chính trị dưới hình thức phân quyền
phù hợp với tương quan mới của các lực lượng chính trị, xã hội - giai cấp, đồng
thời loại trừ khả năng độc quyền hoá quyền lực trong tay một người hay một cơ
quan. Thế giới quan pháp lý của giai cấp tư sản đang lên đòi hỏi những quan niệm
mới về tự do của con người thông qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật
trong mọi việc công, tư.
Lốccơ (nhà triết học pháp quyền người Anh thế kỷ XVII) lý giải về việc
phải thực hiện phân quyền dựa trên sự ngự trị của pháp luật thể hiện dưới hình
thức Nhà nước, trong đó Luật có tính tối cao - Luật phù hợp với pháp luật tự
nhiên, công nhận tự do và các quyền tự nhiên của cá nhân. Nhà nước (có luật ngự
trị) đối lập với chuyên quyền, pháp chế đối lập với phi pháp của người nắm quyền.
Theo ông, nguyên tắc “cho phép làm tất cả những gì mà luật không cấm” chỉ đúng
khi áp dụng đối với công dân còn đối với người nắm quyền lực phải áp dụng
nguyên tắc ngược lại: "Cấm không được làm những gì mà luật không cho phép".
Quan niệm mới về phân quyền thể hiện đầy đủ trong các công trình của
Môngtexkiơ (Pháp) vào thế kỷ thứ XVIII. Theo ông, ở mỗi Nhà nước có 3 loại
quyền :

×