Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Skkn một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động trong tiết ngữ văn tại trường thpt nhằm tạo hứng thú và phát triển các năng lực cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 27 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG II

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ HÌNH THỨC TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG TRONG TIẾT NGỮ VĂN
TẠI TRƯỜNG THPT NHẰM TẠO HỨNG THÚ
VÀ PHÁT TRIỂN CÁC NĂNG LỰC CHO HỌC SINH

Người thực hiện:
Chức vụ:
SKKN thuộc môn:

Đỗ Thị Ba
Giáo viên
Ngữ văn

THANH HÓA, NĂM 2022

skkn


MỤC LỤC
STT
Nội dung
Trang
1 1. Mở đầu
1


1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
3
nghiệm
2.2.1. Thực trạng chung
3
2.2.2. Khảo sát thực trạng tại đơn vị
4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
5
2.3.1. Tổng quan về hoạt động khởi động
5
2.3.2. Một số giải pháp cụ thể - Một số cách thức khởi
7
động hiệu quả trong môn Ngữ văn
2.3.2.1. Khởi động bằng kỹ thuật bắt cặp
7
2.3.2.2. Khởi động bằng một video, clip hình ảnh và kỹ
8

thuật free writing
2.3.2.3. Khởi động bằng xem tranh minh họa
9
2.3.2.4. Khởi động bằng hình thức nối cột trên cột ngữ liệu
10
có sẵn
2.3.2.5. Khởi động bằng các hình thức trị chơi
12
2.3.2.6. Giới thiệu thêm một số hình thức khởi động khác
16
GV có thể sử dụng trong giảng dạy Ngữ văn
2.3.3. Những lưu ý để hoạt động khởi động có hiệu quả
17
2.3.4. Những bí kíp để việc thiết kế hoạt động khởi động
17
trở nên dễ dàng hơn
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
18
3 3. Kết luận và kiến nghị
19
3.1. Kết luận
19
3.2. Kiến nghị
20

skkn


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
THCS:

THPT:
SKKN:
GV:
HS:
SGK:
ĐA:
NXB:
BCHTW:
PPDH:

Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Sáng kiến kinh nghiệm
Giáo viên
Học sinh
Sách giáo khoa
Đáp án
Nhà xuất bản
Ban chấp hành trung ương
Phương pháp dạy học

skkn


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục đang đổi mới một cách toàn diện, đặc biệt là trong một thập niên
trở lại đây, việc thay SGK (đã áp dụng SGK mới ở lớp 1, lớp 2 cấp tiểu học và
lớp 6 THCS, tiến tới trong năm học 2022-2023, sẽ thực hiện SGK mới ở chương
trình lớp 10 THPT), và đổi mới phương pháp dạy học, vai trò và mối quan hệ

giữa người dạy với người học đã khác trước. Sự chủ động tích cực của HS đã
được đề cao, các phương tiện dạy học cũng phong phú hơn, đội ngũ thầy cô giáo
đứng lớp được bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, cộng với đổi mới kiểm
tra đánh giá…cho ta quyền hi vọng vào một nền giáo dục mới tân tiến, theo kịp
thế giới. Sản phẩm của giáo dục sẽ là những con người với năng lực, phẩm chất
đủ đáp ứng tiêu chuẩn của một cơng dân tồn cầu, trong thế giới phẳng đang
phát triển như vũ bão. Sự đổi mới của giáo dục đang được thể hiện rõ ở mục
tiêu, phương pháp, kỹ thuật dạy học. Với mục tiêu thay vì chú trọng đầu vào thì
nay chú trọng đầu ra. Thay vì chú trọng truyền thụ kiến thức đơn thuần thì nay
là dạy cách làm, kỹ năng, hình thành năng lực (các năng lực chung và năng lực
đặc thù bộ môn). Trung tâm của việc dạy học chuyển từ người thầy sang người
trò. HS được hoạt động và rèn luyện nhiều hơn. Phương pháp dạy học theo đó
mà thay đổi căn bản.
Theo chỉ đạo, hướng dẫn của ngành, trong công văn 5555 năm 2014 của
Bộ Giáo dục, trong mục 3 của phần II, về phần thiết kế tiến trình dạy học, có lưu
ý: “tiến trình dạy học phải được tổ chức thành các hoạt động học của học sinh”
[1]. Đến năm 2017, trong công văn 4612 của Bộ Giáo dục, ở mục a phần 2 “Đổi
mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học” có nhấn mạnh một lần nữa: “Xây
dựng kế hoạch bài học theo hướng tăng cường, phát huy tính chủ động, tích cực,
tự học của học sinh thơng qua việc thiết kế tiến trình dạy học thành các hoạt
động học được thực hiện cả ở trên lớp và ngồi lớp học” [2]. Các cơng văn,
hướng dẫn lưu ý đến việc thiết kế kế hoạch dạy học của GV, phải xây dựng
thành các hoạt động học theo trình tự 5 bước: khởi động, hình thành kiến thức,
luyện tập, vận dụng, tìm tịi sáng tạo. Các hoạt động tạo nên hệ thống bài dạy
logic, phát triển dần năng lực tiếp nhận của HS theo thang tư duy Bloom. Như
vậy, GV cần coi trọng tất cả các q trình. Tuy nhiên, có một hoạt động dĩ nhiễn
phải làm nhưng lâu nay, tâm lí thầy cơ vẫn coi nhẹ, bỏ qua, đó là hoạt động khởi
động đầu tiết dạy.
Hoạt động khởi động, trong tiếng Anh là Warm up (làm nóng), là hoạt
động GV dùng để xây dựng khơng khí đầu tiết dạy, khơi dậy tính tị mị, sự

hứng thú, thu hút sự tập trung của HS. Vì thế, người học sẽ khơng cịn cảm giác
mệt mỏi, nhàm chán, nặng nề, lo lắng như khi GV kiểm tra bài cũ. Hành động
khởi động thường được tổ chức thông qua các hoạt động cá nhân hoặc hoạt động
nhóm, giúp HS hình thành các năng lực như: năng lực tư duy, năng lực giải
quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng công nghệ
thông tin, năng lực hợp tác, tinh thần tự học, giúp đỡ nhau khi thực hiện nhiệm
vụ… Nếu GV làm bước này thật tốt, thì bước hình thành kiến thức mới sẽ thuận
lợi hơn, và hiệu quả học tập vì thế sẽ được nâng lên. Khởi động, thực chất không
phải là hoạt động mới. Trong dạy học truyền thống, hoạt động này thường được
1

skkn


thể hiện trong giáo án của GV dưới dạng: Lời vào bài; lời dẫn dắt vào bài mới.
GV không mất nhiều thời gian chuẩn bị và hầu như chỉ làm việc “một chiều”.
Vậy nên, sự tương tác giữa thầy và trị ở hoạt động này thường khơng có hoặc
rất ít. Dạy học phát huy tính tích cực chủ động của HS hiện nay đòi hỏi HS cũng
phải được tham gia khám phá bài học ngay từ những giây phút đầu tiên. Do đó,
GV cần xây dựng giáo án kĩ càng để thu hút, tạo hấp dẫn cho người học ngay từ
hoạt động khởi động.
Xuất phát từ tâm huyết và niềm trăn trở với nghề, tôi đã nghiên cứu và vận dụng
thử nghiệm một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động trong giờ dạy môn Ngữ
văn, cụ thể tôi thực hiện đề tài: “Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động
trong tiết Ngữ văn tại trường THPT nhằm tạo hứng thú và phát triển các năng lực
cho học sinh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với bản thân tơi khi thực hiện nghiên cứu đề tài “Một số hình thức tổ
chức hoạt động khởi động trong tiết Ngữ văn tại trường THPT nhằm tạo
hứng thú và phát triển các năng lực cho học sinh” tôi đã xác định mục tiêu cụ

thể là giúp HS đến gần hơn với tác phẩm nói riêng và bộ mơn Ngữ văn nói
chung; từ đó các em có ý thức tự giác, hứng thú, say mê học tập, cũng như hình
thành và phát triển được một số năng lực. Sáng kiến này cũng không nằm ngồi
mục đích góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dạy học môn Ngữ
văn trong nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trong SKKN này, tôi tập trung nghiên cứu một số hình thức tổ chức hoạt
động khởi động trong tiết học Ngữ văn nhằm tạo hứng thú, hình thành và phát
triển một số năng lực cho HS, và cũng là một trong những biện pháp để nâng
cao hiệu quả giờ dạy. Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của
SKKN chỉ gói gọn đối tượng HS ở một số lớp tại trường THPT Quảng Xương II
- Quảng Xương - Thanh Hóa, trong năm học 2021-2022.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lí thuyết: phương pháp này tơi
nghiên cứu hệ thống lí thuyết làm cơ sở lí luận cho đề tài.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: với phương pháp này, tôi lấy
được nguồn thông tin chính xác, qua đó nắm bắt được thực trạng của vấn đề.
+ Các phương pháp thực nghiệm dạy học Ngữ văn như: đàm thoại, phát
vấn, nhận xét, đánh giá… được sử dụng nhuần nhuyễn để đem lại hiệu quả cho
các giờ dạy, phục vụ cho việc đánh giá thành công của đề tài.
+ Cuối cùng là tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm cho cả quá trình.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Nghị quyết 29 của BCH TW Đảng lần thứ 8 (khóa XI) đã nêu yêu cầu:
“Đổi mới căn bản, tồn diện nền giáo dục Việt Nam. Trong đó đổi mới giáo dục
phổ thông được xem là khâu đột phá. Nội dung trọng tâm của việc đổi mới căn
bản toàn diện giáo dục phổ thông là sự phát triển năng lực người học, từ đó
2


skkn


nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển đất nước”
[3].
Hay Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển từng khẳng định:
“Dạy học phát triển năng lực là đổi mới căn bản cốt lõi nhất của đổi mới giáo
dục hiện nay” [8]. Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Dung (Học viện quản lí giáo dục)
cũng cho rằng: “Đổi mới giáo dục là chúng ta không quá chú trọng vào mục tiêu
kiến thức, phải chú trọng mục tiêu hình thành năng lực cho người học” [8].
Điều này rất đúng trong dạy học môn Ngữ văn hiện nay nhất là Ngữ văn THPT.
Có thể nói, cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ
động, chống lại thói quen học tập thụ động. Hành trình chiếm lĩnh tri thức của
HS bao giờ cũng bắt đầu từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
Mặt khác, nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của người
thầy. Trong chương trình giáo dục phổ thông, Ngữ văn là một môn học có vị trí
quan trọng vì đây một mơn học vừa mang tính cơng cụ, vừa là một mơn học
mang tính nghệ thuật, lại mang tính nhân văn rất cao. Bởi vậy để HS học tốt
môn Ngữ văn, người GV phải chú trọng đến phương pháp dạy học, phải tìm tịi,
sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức dạy học
mới, hiện đại, sinh động, đưa HS đến với môn học này một cách tự giác, bằng
niềm say mê thực sự. Có vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày một cao của chất
lượng giáo dục và đặc thù của môn học.
Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực nghĩa là thông qua
bộ mơn, HS có khả năng kết hợp một cách linh hoạt, có tổ chức kiến thức, kĩ
năng với thái độ tình cảm, động cơ cá nhân nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu
cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định. Đây được xem là
cơ sở pháp lí để thực hiện đổi mới trong giáo dục nói chung và việc đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn nói riêng.
Trong lí thuyết đổi mới phương pháp dạy học, phải chú trọng vào việc lấy

hoạt động tự học của HS làm trung tâm. Một trong những hoạt động mở đầu có ý
nghĩa quan trọng là hoạt động khởi động. Để có được một hoạt động khởi động
tiết học hiệu quả, đặc biệt với mơn Ngữ văn địi hỏi người GV cần biết đa dạng
hóa các hình thức tổ chức và tạo sự hứng thú ngay từ những phút học đầu tiên.
Nghiên cứu đề tài này, tôi đã tham khảo kĩ các loại tài liệu có liên quan
đến vấn đề: sách báo, tạp chí, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả …
Thực hiện SKKN này tôi dựa trên cơ sở nắm vững các yêu cầu của việc dạy
học Ngữ văn trong nhà trường THPT; các mục tiêu cần đạt của tác phẩm Văn
học trong chương trình SGK hiện hành.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng chung:
Hoạt động khởi động bài học thường chỉ chiếm một vài phút đầu giờ nhưng
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kích hoạt sự tích cực của người học. Một
tiết học Ngữ văn sẽ tạo được sự yêu thích với HS nếu ngay từ những giây phút
đầu tiên GV biết khơi gợi ở các em hứng thú đối với bài học và hơn thế nữa còn
khơi dậy niềm đam mê, gây dựng, bồi đắp tình u lâu bền đối với mơn học.
Tuy nhiên, thực tế dạy học hiện nay đang có những thực trạng sau:
3

skkn


- GV thực hiện khởi động nhưng không đúng bản chất của một hoạt động
học. Đây là thực trạng phổ biến nhất: GV tiến hành đơn giản chỉ là bước mở bài
một tiết dạy, chỉ có GV làm việc, khơng tạo hoạt động học cho HS, hoặc chỉ một
ít HS tham gia. GV không thiết kế được hoạt động học cho tất cả HS đều được
làm việc. Khởi động như vậy vẫn chỉ là một động tác vào bài chứ thực chất chưa
phải là một hoạt động học.
- GV không thực hiện hoạt động khởi động theo yêu cầu đổi mới. Các thầy
cơ vẫn dùng hình thức hỏi bài cũ truyền thống rồi dẫn vào bài học. Làm như vậy

không những khơng thể làm nóng, tạo khơng khí háo hức vào tiết học, mà nó
cịn làm tăng thêm cảm giác căng thẳng, nặng nề cho HS. Cuối cùng, sẽ phản tác
dụng khi bắt đầu một tiết học mới.
- GV có thực hiện hoạt động khởi động nhưng không thường xuyên, chủ
yếu chỉ đầu tư khi có tiết thao giảng, khi có bài dạy mình thích. Như vậy, GV
khơng tạo được nền tảng kĩ năng cho HS, khơng tạo được thói quen học tập
khoa học như mục tiêu đề ra.
Vì sao lại xảy ra những thực trạng như trên? Người viết nhận thấy có ba
nguyên nhân cơ bản sau:
- GV chưa thực sự thấy tầm quan trọng của hoạt động khởi động, nghĩ đó là
hoạt động phụ, khơng ảnh hưởng nội dung bài học.
- GV ngại thay đổi, bởi mỗi hoạt động học là phải đầu tư, mất nhiều thời
gian.
- GV chưa thực sự tiếp cận một cách đúng đắn các cách thức để khởi động
đúng và hiệu quả, vẫn còn lúng túng, khó khăn trong việc lên ý tưởng, thiết kế
hoạt động học trong phần khởi động vì sự ràng buộc về thời gian, và tính chất
gợi mở nội dung của hoạt động.
Như vậy, vấn đề đặt ra là GV có biết nêu vấn đề, có biết đặt HS vào các
tình huống cụ thể, yêu cầu các em phải tự giải quyết và liên kết với nhau để giải
quyết nhiệm vụ hay khơng, từ đó có thể phát hiện những ưu điểm của HS ngay
từ hoạt động khởi động mở đầu cho một tiết học môn Ngữ văn.
2.2.2. Khảo sát thực trạng tại đơn vị:
Từ thực trạng trên, đầu năm học 2021 – 2022, tôi đã tiến hành điều tra cơ
bản chất lượng môn Ngữ văn ở 1 số lớp:
Lớp

Điểm 9- 10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5

số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
10A7 42
5
11.9
26
61.9
11
26.2
0
0
11C8 42
4
9.5
28
66.7
10
23.8
0
0
12B3 40
6
15

17
42.5
17
42.5
0
0
Tổng 124
15
12.1
71
57.3
38
30.6
0
0
Tôi cũng tiến hành khảo sát hứng thú của học sinh với môn học, đặc biệt
với các tiết học văn bản; và thu được kết quả như sau:
Lớp
Sĩ số
Hứng thú
Bình thường
Khơng hứng
thú
SL
%
SL
%
SL
%
10A7

42
12
28.6
17
40.5
13
31.0
4

skkn


11C8
42
8
19
19
45.2
15
35.7
12B3
40
10
25
20
50
10
25
Tổng
124

30
24.2
56
45.2
38
30.6
Sau khi điều tra cơ bản tôi thấy mặc dù là HS THPT nhưng cịn nhiều HS
khơng u thích, thậm chí thờ ơ với mơn học. Từ những thực trạng và lí do nêu
trên, tơi mạnh dạn viết SKKN này. Đây là những hình thức tơi đã áp dụng và thu
được hiệu quả thực sự. SKKN của tôi hướng đến thay đổi phần nào quan điểm
của GV về hoạt động khởi động, xem trọng hơn hoạt động này. Giúp GV nắm
được môt số cách thức thiết kế hoạt động khởi động để GV cảm thấy dễ dàng
hơn trong thiết kế và tìm được cảm hứng sáng tạo cho phần khởi động, góp phần
làm phong phú thêm nguồn tài liệu dạy học. Từ đó, khắc phục được phần nào
những thực trạng nêu trên, hướng đến những giờ dạy học hiệu quả, phát triển
được năng lực người học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Tổng quan về hoạt động khởi động
* Khái niệm:
- Theo Từ điển Tiếng Việt, “Khởi động” có nghĩa là “Thực hiện các động
tác nhẹ trước khi bắt đầu”, bắt đầu ở đây là bắt đầu một hoạt động, cơng việc
chính thức cụ thể nào đó. Nó có nghĩa là mở đầu, khơi gợi. Trong tiếng Anh,
thuật ngữ “Khởi động” được gọi là “Warm up”, tức là làm nóng lên bầu khơng
khí. Như vậy, “Khởi động” trong giờ học được hiểu là một hoạt động khởi động
nhẹ nhàng nhằm để thiết lập bầu không khí và gợi dẫn HS vào nội dung bài học.
Ngữ văn là môn học đặc thù nên “trạng thái thể chất, tinh thần cá nhân như tình
trạng sức khỏe, tâm - sinh lí… đều có ảnh hưởng nhất định đến tâm thế của HS”
[4; tr 170]. Mỗi giờ học luôn đòi hỏi tâm thế sẵn sàng ở cả người dạy và người
học mới mong đem lại kết quả tốt. Cho nên, khi giao nhiệm vụ phối hợp thực
hiện hoạt động, GV cần chú trọng quan điểm chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào

tạo “hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được hứng thú
nhận thức của HS” [1]. Làm sao tạo ra được tình huống có vấn đề để vừa giúp
HS kích hoạt lại vốn kiến thức sẵn có, hình thành và phát triển các loại năng lực,
vừa dẫn dắt họ vào phần hình thành kiến thức mới, như ý kiến của tác giả Phạm
Thị Thu Hương và cộng sự: “một khởi động bài học hiệu quả nên tạo ra cơ hội
để HS tự làm sống lại các kiến thức nền họ đã có cần thiết cho hoạt động học
tập bài mới” [4; tr 171].
* Vai trị:
Đã đến lúc người GV phải nhìn nhận lại tầm quan trọng của hoạt động khởi
động. Dù nó chỉ là hoạt động kéo dài trong những phút đầu tiên của giờ dạy và
về nội dung, nó khơng ảnh hưởng nhiều đến kiến thức mới của tiết học; tuy
nhiên nó là hoạt động không thể thiếu, không thể xem nhẹ và không thể hời hợt.
Cần thấy rằng, hoạt động khởi động cũng quan trọng như bất cứ hoạt động nào
trong chuỗi hoạt động học của HS. Chỉ khi nhìn nhận rõ điều đó, chúng ta mới
mong thay đổi được thái độ làm việc của chính mình đối với hoạt động này. Vậy
hoạt động khởi động có những vai trị gì? [6].
Khởi động để tạo sự hứng thú cho HS, giúp HS có tâm thế, tinh thần đón
nhận bài học. GV chủ động thay đổi khơng khí, xây dựng mơi trường tiết học
5

skkn


tích cực là điều cần thiết. Nó giúp xua tan áp lực, chán nản và kéo HS vào bài
học của mình một cách chủ động, tự nguyện và chờ đợi.
Khởi động để tăng sự kết nối: kết nối giữa GV và HS, kết nối HS với mảng
kiến thức mà tiết học sẽ hướng đến, kết nối giữa HS với nhau. Cái cuối cùng GV
đạt đến được khơng phải là mình đã vận dụng phương pháp nào, kỹ thuật gì, mà
cơ bản nhất vẫn là giải quyết được sự kết nối của mình, của bài học với HS. Sự
kết nối đem lại sự tự nhiên, hài hịa. Chỉ khi có được sự kết nối, tức là các mối

quan hệ được liên kết với nhau thì tiết học mới trở nên nhịp nhàng, nhuần
nhuyễn và sâu sắc.
Khởi động cũng là để giúp HS hình thành, phát triển và củng cố các loại
năng lực: năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng
lực giao tiếp, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, năng lực hợp tác, tinh thần
tự học, giúp đỡ nhau khi thực hiện nhiệm vụ…
Khởi động như một cách chuẩn bị kĩ năng, kiến thức nền cho HS trước bài
học: Mỗi bài học cần phải có sự chuẩn bị, bởi một đơn vị kiến thức mới không
bao giờ tồn tại độc lập xa rời, nó ln ln là sự kế thừa có hệ thống. Hoạt động
khởi động chính là cách mà GV giúp HS huy động vốn kiến thức, kỹ năng nền
tảng để phục vụ cho việc tiếp thu những kiến thức mới một cách nhẹ nhàng hơn.
Điều này lại càng đúng với cách xây dựng cấu trúc chương trình đồng tâm của
SGK hiện hành.
Hoạt động khởi động là cơ hội để GV khích lệ HS niềm khát khao khám
phá tri thức, yêu thích môn học. Khởi động thành công là khơi gợi được sự tị
mị, nhu cầu được tìm hiểu nhiều hơn nữa, triệt để hơn nữa những vấn đề còn bỏ
ngỏ, còn băn khoăn trong những hoạt động tiếp theo của bài học.
* Những nguyên tắc thiết kế hoạt động khởi động [6].
Để có thể phát huy hết tất cả những vai trò như trên của hoạt động khởi
động, GV cần hiểu bản chất của hoạt động khởi động để từ đó có định hướng
thiết kế hoạt động khởi động trong kế hoạch bài dạy của mình. GV cần xác định
rõ:
Thứ nhất, họạt động khởi động là một hoạt động học. Theo các văn bản
hướng dẫn của ngành trong việc đổi mới thì rõ ràng, Khởi động có tư cách là
một hoạt động học đầu tiết dạy, có vai trị quan trọng như các hoạt động sau đó.
Vậy thì GV cần thiết kế nó là một hoạt động học.
- Cần xác định rõ mục tiêu của mỗi khởi động để gợi dẫn vào mảng kiến
thức nào, tổ chức hoạt động cho HS ra sao.
- Phải qua các bước của một hoạt động học: có giao nhiệm vụ (phát câu
lệnh ngắn gọn), HS thực hiện nhiệm vụ (hoạt động học, phải chắc chắn tất cả HS

đều được GV kéo vào, nhập cuộc), báo cáo kết quả, và đánh giá nhận xét. Vì sao
phải như vậy? Một là, đảm bảo tính bài bản và khoa học. Hai là, chính những
hoạt động bài bản như vậy mới tạo được hứng thú cho HS, HS được có cơ hội,
có quyền trải nghiệm, được đánh giá nhận xét. Nếu GV chỉ dẫn vào bài, dù rất
hay nhưng HS chỉ ngồi nghe thì vẫn khơng thể “làm nóng”, HS vẫn khơng thực
sự được trải nghiệm. Và khi đó, nó vẫn chỉ là bước mở bài chứ khơng thể xem là
một hoạt động học. HS cần được làm việc, tư duy, khơi gợi cảm xúc thực sự.
GV cần đánh giá kết thúc q trình đó, có thể là điểm thưởng, điểm miệng, hoặc
6

skkn


nếu khơng vẫn phải là một câu nói khen ngợi bài tốt và nhắc nhở bài chưa tốt.
Như thế, mới tạo động lực học tập cho HS, tránh cảm giác hụt hẫng đầu voi đuôi
chuột và gây chán nản vào những lần khởi động sau.
Thứ hai, GV cần đa dạng hóa các hình thức, kỹ thuật khởi động mang đặc
thù bộ môn Ngữ văn, tăng hứng thú cho HS để từ đó nâng cao hiệu quả tiết dạy.
2.3.2. Một số giải pháp cụ thể - một số cách thức khởi động hiệu quả trong
mơn Ngữ văn
Có rất nhiều biện pháp có thể sử dụng để thiết kế hoạt động khởi động.
Người viết xin báo cáo những biện pháp dễ sử dụng nhất, có thể áp dụng ở nhiều
cơ sở trường học với đối tượng HS khác nhau. Dựa vào trình tự các bước tiến
hành, GV có thể điều chỉnh số lượng câu hỏi, yêu cầu phù hợp với mức độ nhận
thức của HS.
2.3.2.1. Khởi động bằng kỹ thuật bắt cặp: think - write - pair - share (nghĩ viết - bắt cặp - chia sẻ) với cấu trúc câu: ba điều em… (cải biên của kỹ thuật 3
lần 3) [7]. Đây là hình thức khởi động lý thú, và có thể sử dụng trong rất nhiều
bài học khác nhau.
Cách tiến hành:
Bước 1: GV phát hiệu lệnh: hoạt động khởi động bằng “bắt cặp – chia sẻ”. HS

nghe hiệu lệnh và lấy giấy note. GV tạo tâm thế cho HS: mở đoạn nhạc (có thể
yêu cầu HS nhắm mắt lại trong vòng 1 phút). Và trong trạng thái tinh thần tĩnh
lặng đó, GV yêu cầu HS nghĩ về ba điều em … (em nghĩ, hay muốn nói, chờ
đợi… tùy thuộc vào ý đồ khởi động của GV phù hợp kết nối với kiến thức mới).
Bước 2: Trong tiếng nhạc đó (mở nhạc nhỏ, êm dịu), HS viết về ba điều mà GV
u cầu trong vịng 2 phút. Sau đó, chia sẻ điều vừa viết với bạn bên cạnh mình.
Bước 3: GV thu lại toàn bộ phiếu chia sẻ. Gọi hai, ba HS sẵn sàng trình bày. Từ
câu trả lời của HS, GV gợi ra vấn đề, kết nối với hoạt động hình thành kiến thức
mới.
Ví dụ minh họa: hoạt động khởi động cho văn bản “Rừng xà nu”, Ngữ văn 12,
tập 2 [5].
Bước 1: GV phát hiệu lệnh: chuẩn bị hoạt động “bắt cặp – chia sẻ”. GV mở
bản nhạc cổ điển không lời. Đề nghị HS nhắm mắt yên lặng tuyệt đối, khoảng 1
phút sau, GV yêu cầu: “hãy nghĩ về cuộc sống hịa bình hiện tại mà em đang
có, bên cạnh bạn bè, người thân, quê hương và những niềm vui riêng… Hãy
nghĩ về ba điều tuyệt vời nhất mà cuộc sống hịa bình mang lại cho em” và
u cầu HS ghi ra giấy note.
Bước 2: Trong âm thanh bản nhạc đó, HS ghi ra ba điều tuyệt vời nhất của cuộc
sống hịa bình. Và sau đó, chia sẻ điều vừa viết với bạn bên cạnh. Trao đổi trong
yên tĩnh. Việc trao đổi khơng giới hạn, có thể nhiều hơn một bạn.
Bước 3: GV thu lại các phiếu chia sẻ. Mời vài HS sẵn sàng chia sẻ và trình bày
cả lý do vì sao lựa chọn 3 điều ấy.
Bước 4: Từ các chia sẻ của HS, GV gợi dẫn vào bài, kết nối bài học.
Một vài ví dụ khác về cách khởi động này:
- Văn bản “Thương vợ” hoặc “Chiếc thuyền ngồi xa”: viết ba điều em muốn
nói với bố mẹ mình nhất?
7

skkn



- Cho tất cả các tiết trả bài kiểm tra: ba điều em thấy được nhất ở bài của
mình? Ba điều em dở nhất trong bài của mình? Ba điều em mong đợi nhất
trong tiết trả bài hôm nay? (kỹ thuật viết 3 lần 3)
* Lưu ý: chỉ nên mở nhạc khơng lời, nhạc sẽ làm dịu khơng khí lớp học, kéo sự
tập trung của HS. Không nên mở nhạc có lời, sẽ gây mất tập trung cho HS vì HS
sẽ chú tâm vào lời bài hát.
2.3.2.2. Khởi động bằng một video, clip hình ảnh và kỹ thuật free writing [7]:
một video, clip ngắn kết hợp với một bài hát, một bản nhạc (nếu khơng có video
sẵn thì GV có thể làm các sản phẩm clip bằng hình ảnh theo ý đồ). Đây là một
trong những hình thức khởi động hiệu quả và có thể áp dụng trong nhiều bài học
văn bản có nội dung sâu sắc, thơng điệp nhân văn. Khi khởi động tiết dạy bằng
một video, clip hình ảnh trên máy chiếu hoặc tivi là một loại dạy học trực quan
sinh động, sẽ tiết kiệm thời gian, sức lực, nhanh gọn hơn so với dạy học truyền
thống. Cách thức tiến hành:
Bước 1: GV nêu yêu cầu: Mời cả lớp xem video sau đây một cách chăm chú, tập
trung. Sau đó, trong vịng 2 phút, ghi lại những cảm nhận của mình sau khi xem
clip đó (những cảm xúc, những điều em ấn tượng, những bài học em rút ra,
thơng điệp của clip. Để việc xem video, clip có hiệu quả, có thể đặt những câu
hỏi tìm thơng tin trong video, clip trước khi cho HS xem). Viết tự do, khơng gị
ép vào khn khổ nào.
Bước 2: Sau khi hết thời gian, các HS bắt cặp với các bạn bên cạnh mình, chia
sẻ cho nhau những gì mình vừa viết.
Bước 3: GV gọi vài HS đã sẵn sàng chia sẻ với GV và cả lớp (GV không ép
buộc với HS nào khơng sẵn sàng để nói).
Bước 4: GV cũng chia sẻ với cả lớp suy nghĩ, cảm xúc của chính mình. Thể hiện
sự đồng điệu, đồng cảm của mình với những chia sẻ của HS. Từ đó, GV gợi dẫn
vào chủ đề, thông điệp của bài học hôm nay.
* Lưu ý:
- Vì nó là hoạt động chia sẻ - viết tự do nên GV không được áp đặt và khơng có

nhận xét đúng – sai, chỉ có sự lắng nghe và tôn trọng cảm xúc cá nhân mỗi
người.
- Để có những suy nghĩ cảm xúc đồng điệu, thấu hiểu, GV cần thật thận trọng
chọn nguồn dữ liệu clip, video. Những clip, video phải có thơng điệp liên quan
chặt chẽ đến bài học và thơng điệp đó thật rõ ràng, dễ nhận ra, dựa trên những
nền nhạc giàu ý nghĩa.
- Trước những chia sẻ đi quá xa bài học, GV tránh những hành động cười đùa,
hay mắng mỏ HS mà kiên nhẫn cùng HS chờ đợi câu trả lời vào sau tiết học.
Lúc đó GV có thể hỏi lại suy nghĩ của HS đó sau khi học.
Ví dụ minh họa 1: Để dạy văn bản “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân, Ngữ văn
11, tập 1 [5], có thể cho HS xem clip chương trình “Mỗi ngày một cuốn sách”
giới thiệu về tập “Vang bóng một thời” [9].
Ví dụ minh họa 2: Video bài hát “Đất nước”, thơ của tác giả Tạ Hữu Yên,
nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn phổ nhạc, được ca sĩ Trọng Tấn thể hiện; khởi động
cho văn bản “Đất Nước” (Nguyễn Khoa Điềm), Ngữ văn 12, tập 1 [5].
8

skkn


Ví dụ minh họa 3: Để dạy văn bản “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tơ Hồi,
Ngữ văn 12, tập 2 [5], có thể cho HS xem video bài hát “Để Mị nói cho mà
nghe” của ca sĩ Hồng Thùy Linh (2019).

Ví dụ minh họa 4: Video bài hát “Bống bống bang bang”, Sáng tác Only CNguyễn Ngọc Thiện, Nhóm 365 Daband trình bày, khởi động cho văn bản
Truyện cổ tích “Tấm Cám”, Ngữ văn 10, tập 1 [5].

Bước 1: GV phát hiệu lênh: chúng ta sẽ khởi động bài học bằng kỹ thuật free
writing – hoạt động cá nhân 4 phút. HS nghe hiệu lệnh, chuẩn bị giấy note.
GV yêu cầu HS: Xem clip, nghe bài hát thật kỹ càng và viết vào giấy những

điều em cảm nhận được, những hình ảnh em ấn tượng và thơng điệp của clip,
của bài hát.
Bước 2: GV chiếu video, clip. HS xem. Sau khi xem xong, GV cho HS viết
trong vòng 2 phút. Sau khi viết xong, HS trao giấy note với bạn mình để chia sẻ
Bước 3: GV thu lại toàn bộ giấy note, mời vài HS chia sẻ.
Bước 4: Bản thân GV chia sẻ cảm xúc của mình. GV có thể dẫn lại những chia
sẻ của HS mà mình đồng tình, tâm đắc để khích lệ HS. Và từ hoạt động đó, GV
dẫn vào bài.
2.3.2.3. Khởi động bằng xem tranh minh họa
Sử dụng tranh minh họa là phương pháp khá phổ biến trong giảng dạy các
môn khoa học tự nhiên và các mơn Địa lí, Sinh học, Lịch sử…Cịn dạy học Ngữ
văn dựa vào văn bản là chủ yếu, ít khi sử dụng tranh ảnh. Vì thế, khi dùng tranh
9

skkn


minh họa, HS sẽ có được những cảm nhận mới mẻ đối với việc tiếp cận văn bản.
Đây là một biện pháp hỗ trợ dạy học không thể thiếu trong giảng dạy nói chung.
Biện pháp này có thể khởi động để tạo cảm giác chân thực, tăng thêm tính rõ
ràng, tính sinh động khi thuyết giảng.
Ví dụ minh họa 1: Khi dạy văn bản “Số phận con người”, Ngữ văn 12, tập 2
[5]. GV đưa ra 1 số hình ảnh về người cha, về đứa con. Hình ảnh thứ 1: Hình
ảnh về 1 em bé rách rưới, lang thang, xin ăn… Hình ảnh thứ 2: Hình ảnh 2 cha
con ơm nhau, người cha chăm sóc, trị chuyện, … với con.

Hình ảnh thứ 1
Hình ảnh thứ 2
Khi HS xem tranh minh họa và cảm nhận về nội dung của bức tranh. GV có thể
hỏi: Theo các em, hình ảnh thứ 1, thể hiện tình cảnh gì của em bé. Đến hình ảnh

thứ 2, em thấy đó là tình cảm giữa ai với ai? Em hãy chia sẻ một vài kỉ niệm,
tình cảm và ấn tượng sâu sắc của em về cha mình hoặc những người mà em coi
như cha (Mỗi HS tự kể, GV có thể gọi đại diện một vài HS chia sẻ những kỉ
niệm sâu sắc của các em). Sau đó GV có thể phát phiếu học tập hoặc HS lấy
giấy note, GV yêu cầu mỗi HS hãy viết một lời nhắn nhủ chân thành và thầm
kín gửi tới cha hoặc những người được các em coi như cha. GV thu phiếu học
tập hoặc giấy note, đọc một vài lời nhắn gửi của HS có kèm theo những lời khen
ngợi. Từ đó, GV dẫn dắt vào bài học mới “Số phận con người” của nhà văn
Nga Sơ-lơ-khốp.
Ví dụ minh họa 2: khi dạy văn bản “Vợ nhặt”, Ngữ văn 12, tập 2 [5], GV có
thể trình chiếu một số hình ảnh nạn đói năm 1945 và từ đó dẫn dắt HS rằng có
những năm tháng dân tộc đã phải trải qua cái đói, cái nghèo 1 cách bi thảm như
vậy, nhưng vượt lên tất cả, con người vẫn sống với nhau bằng tình u thương
vơ bờ bến. Đó là thông điệp mà nhà văn Kim Lân gửi vào tác phẩm “Vợ Nhặt”.
Sau đó, GV đi vào việc hình thành kiến thức mới của bài này.
2.3.2.4. Khởi động bằng hình thức nối cột trên cột ngữ liệu có sẵn. [7] Kiểu
hoạt động này, GV tự tạo ra các cột kiến thức tương ứng được sắp xếp bất kỳ và
yêu cầu HS phải nối lại một cách hợp lý giữa hai dãy cột đó.
- Với các bài tiếng Việt: khởi động cho các bài học về từ vựng, về câu, biện
pháp tu từ, với cột thứ nhất là tên gọi của từ, kiểu câu, tên biện pháp tu từ; Cột
thứ hai tương ứng là ngữ liệu thuộc các từ, câu, biện pháp đó. GV cần tăng độ
khó bằng việc tăng số lượng ngữ liệu sai lệch ở cột thứ hai để HS cần phải loại
trừ.
10

skkn


- Với bài tập Làm văn: có thể sử dụng trong các bài về phương thức, thao tác:
cột thứ nhất là tên phương thức, thao tác; cột thứ hai là biểu hiện cụ thể. Để

nhấn mạnh phương thức, thao tác trong bài học hơm đó, thì tăng số lượng ngữ
liệu của phương thức, thao tác ấy lên và GV có thể dùng giới thiệu bài học.
- Ôn tập văn bản: nối cột tên tác giả, tác phẩm là đơn giản nhất. Tăng độ khó
bằng các cột nối tương ứng giữa cột tên tác phẩm và giá trị của các tác phẩm
tương ứng, như một cách ôn tập văn bản.
Cách tiến hành:
Bước 1: GV phát hiệu lệnh: HS hoạt động cá nhân - hãy thực hiện phép nối
giữa các cột sau sao cho phù hợp (nếu cần, trong lần khởi động đầu tiên, GV
làm mẫu nối một cột). Trong vòng 2 phút.
Bước 2: HS xem màn hình chiếu và thực hiện yêu cầu. Sau 2 phút, HS trao
phiếu cho nhau.
Bước 3: GV công bố kết quả. HS chấm điểm của bạn trong vòng 30 giây.
Bước 4: GV thu lại phiếu, giới thiệu vào bài.
Ví dụ minh họa 1: Khởi động bài “Ôn tập văn học Dân gian”, Ngữ văn 10, tập
1 [5], GV có thể cho HS nối cột sau:
Tên tác phẩm
Tên thể loại
1 Chiến thắng Mtao Mxây
a
Truyện cổ tích
Truyện An Dương Vương
Ca dao
2
b
và Mị Châu- Trọng Thủy
3 Tấm Cám
c
Sử thi
Nhưng nó phải bằng hai
Truyện Cười

4
d
mày
5 Thân em….
e
Truyền thuyết
ĐA: 1-c, 2-e, 3-a, 4-d, 5-b.
Ví dụ minh họa 2: Khởi động cho bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”
(tiếp theo), Ngữ văn 10, tập 1 [5], GV có thể cho HS nối cột sau:
Tên các nhân tố giao tiếp
Đặc điểm của các nhân tố giao tiếp
Nhân vật giao tiếp
Chủ đích mà các hành vi giao tiếp
hướng
1
a
tới (nói, viết để làm gì, nhằm mục
đích gì)
Hồn cảnh giao tiếp
Nói viết như thế nào, bằng phương
2
b
tiện gì
Nội dung giao tiếp
Người nói, người nghe (ai nói, ai
3
c
viết, nói với ai, viết cho ai).
Mục đích giao tiếp
Thơng tin, thơng điệp…trong văn

4
d bản nói, viết (nói, viết cái gì, về cái
gì).
Phương tiện và cách thức
Thời gian, khơng gian, địa điểm …
5 giao tiếp
e (nói, viết trong hồn cảnh nào, ở
đâu, khi nào).
ĐA: 1-c, 2-e, 3-d, 4-a, 5-b.
11

skkn


2.3.2.5. Khởi động bằng các hình thức trị chơi: [7] có rất nhiều trị chơi có thể
sử dụng trong dạy học Ngữ văn, vừa có hiệu quả kết nối kiến thức bài học, vừa
tạo hứng thú, giúp HS rèn luyện năng lực tư duy, sự sáng tạo, tinh thần đoàn kết,
sự tương tác…, người viết xin trình bày 3 trị chơi dễ áp dụng trong phần khởi
động:
* Trò chơi “key words” – tìm từ chìa khóa: đây là trị chơi dễ sử dụng nhất, và
có thể dùng trong bất cứ bài dạy văn bản nào (nếu bạn đang bí ý tưởng khác)
Cách thực hiện:
Bước 1: GV phát hiệu lệnh “Bắt đầu trị chơi tìm từ chìa khóa theo nhóm
bàn”. GV hãy lọc ra một hệ thống từ chìa khóa (những từ chứa đựng nội dung
văn bản) và ẩn nó vào một bảng chữ cái. GV chiếu bảng đó lên và yêu cầu HS
tìm. Để cuộc tìm kiếm thêm phần thú vị, GV hãy gây nhiễu bằng cách cho thêm
các từ không liên quan khác.
Bước 2: Thực hiện yêu cầu của GV trong vịng 1 phút. Nhóm chiến thắng là
nhóm tìm được hết từ chìa khóa mà khơng lẫn các từ khác và nhanh nhất. GV
tặng điểm thưởng cho các nhóm.

Bước 3: Sau khi tìm xong, GV hỏi HS vì sao em (nhóm) chọn những từ ngữ này
(HS phải đọc văn bản, soạn văn bản rồi mới trả lời được). GV đánh giá, nhận xét
cá nhân/ nhóm. sau đó GV kết nối với trọng tâm kiến thức bài học, giới thiệu
hoạt động hình thành kiến thức.
Ví dụ minh họa: khởi động cho bài “Đây thôn Vĩ Dạ”, Ngữ văn 11, tập 2 [5].
Bước 1: GV phát hiệu lệnh: “Hoạt động nhóm bàn- Tham gia trị chơi tìm từ
chìa khóa cho bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. GV đưa vào trong bảng chữ cái
những từ chìa khóa liên quan đến bài thơ “Đây thơn Vĩ Dạ”- đó là những từ:
Thơn Vĩ, hàng cau, xanh như ngọc, mặt chữ điền, sông trăng, sương khói, đơn
phương, Huế…cùng với những từ khơng liên quan khác.
T H Ô N V I
T C D Z U L A Z T U H
M X Y G
K Q W M

P
Ă

A
T

L
C

O
H

S
Ư


J
Đ

Ư
I

C
Ê

I
N

S
H

S
Ô

A
B

I
C

Ô M J H
V I K D
X A N H

R
A

N

S
Đ
H

Q
Đ
Ư

T
Ơ
N

Ơ
N
G

B
P
O

A
H
C

N
Ư
A


V
Ơ
K

A
N
G

N
G
T

I
Ê
T

O
C
H

G I O N M U H O K N M O H C R T Ơ
T H E O T Ê F D H Ă Ơ E Ô A Ă I
V
D O N G N Ư Ơ C O N I
M N U N N Ê
V I D A Â N H K I G L X G M G H Y
Bước 2: GV giao nhiệm vụ cho HS trong vịng 1 phút, tìm hết các từ chìa khóa
cho bài học “Đây thơn Vĩ Dạ” theo nhóm 8 HS (2 bàn).
Bước 3: GV thu nhanh kết quả của HS và đọc kết quả của 3 nhóm nhanh nhất.
Bước 4: GV cơng bố đáp án và cho điểm miệng những nhóm có đáp án đúng

trong ba nhóm nhanh nhất đó. GV sẽ hỏi 1 HS trả lời đúng vì sao em lựa chọn
12

skkn


những từ ngữ ấy (HS phải đọc văn bản rồi, soạn bài rồi mới trả lời được). Từ
câu trả lời của HS, GV kết nối với hoạt động hình thành kiến thức, tìm hiểu về
văn bản “Đây thơn Vĩ Dạ”.
* Trò chơi mở tranh: Đây cũng là một trò chơi khá thú vị ứng dụng soạn giáo
án trên Powerpoint. Và có thể áp dụng trong nhiều văn bản khác nhau.
Cách tiến hành:
Bước 1: GV chọn một bức ảnh mang thông điệp, hoặc có nội dung liên quan đến
bài học.
Bước 2: GV soạn bộ hệ thống câu hỏi (khoảng 4 – 6 câu là vừa cho khởi động).
Mỗi mảnh ghép tương ứng với một câu hỏi. HS chọn mảnh ghép bất kỳ. Trả lời
đúng, mảnh ghép sẽ mở ra một phần của bức tranh.
- Trong q trình mở câu hỏi đốn tranh, nếu HS nào đốn được tranh (hoặc từ
chìa khóa liên quan đến bức tranh) trước thì trị chơi dừng lại. GV đánh giá, cho
điểm các bạn tham gia chơi.
- Bức tranh là một lời gợi ý để từ đó GV gợi dẫn vào bài, kết nối với hoạt động
hình thành kiến thức bài học.
Ví dụ minh họa: khởi động văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh
Châu, Ngữ văn 12, tập 2 [5].
Bước 1: GV chọn bức tranh mang tinh thần của văn bản “Chiếc thuyền ngoài
xa”, cho HS hoạt động cá nhân.

Bước 2: GV soạn bộ câu hỏi cho 5 mảnh ghép che kín bức tranh.
Câu hỏi ô số 1: Tác phẩm “Vợ Nhặt” với hình ảnh bà cụ Tứ gợi nhắc cho em về
điều gì? (Tình yêu thương, sự vị tha và lòng nhân ái)

Câu hỏi ô số 2: Phẩm chất tốt đẹp hàng đầu thường được ca ngợi ở người phụ
nữ Việt Nam là gì? (Đức hi sinh vì chồng, vì con)
Câu hỏi ơ số 3: Hiện nay trên các phương tiện truyền thơng có nói tới 1 số
trường hợp như vụ 1 bé gái 8 tuổi bị gì ghẻ đáng đập đến chết hay người yêu của
mẹ đóng đinh vào đầu em bé 3 tuổi khiến em rơi vào hôn mê, hoặc rất nhiều
những người phụ nữ bị chồng chửi bới, đánh, bỏ mặc khơng quan tâm…Những
hình ảnh đó là biểu hiện cho vấn đề gì trong cuộc sống? (Nạn bạo hành gia
đình).
Câu hỏi ô số 4: Khi định làm một việc tốt, việc có ích… mà em lại làm sai, làm
hỏng thì em thường cảm thấy như thế nào? (Băn khoăn, trăn trở, day dứt).
Câu hỏi ơ trung tâm: Em có thể kết nối các cánh cửa để gọi tên bức tranh này
không?
13

skkn


Bước 3: HS trả lời câu hỏi theo sự lựa chọn bất kỳ của mình. Mỗi câu trả lời
đúng, mảnh ghép sẽ mở ra một phần của bức tranh. Và khi đến mảnh ghép cuối
cùng, với câu hỏi: kết nối những điều trong các cánh cửa để gọi tên bức tranh thì
có thể HS khơng thể trả lời được hết (đây chính là ý đồ của GV). Với khởi động
như vậy, khi học hết văn bản, HS sẽ tự có câu trả lời, lúc này, HS sẽ kết nối
được: “Chiếc thuyền ngồi xa” cùng chính là biểu tượng của tình yêu thương,
sự vị tha, lòng nhân ái, và đức hi sinh vì chồng vì con của người đàn bà hàng
chài đồng thời cũng thể hiện sự thông cảm, băn khoăn, trăn trở, day dứt của
tác giả Nguyễn Minh Châu trong việc phát hiện đời sống và con người ở bình
diện đạo đức thế sự, khi phải chứng kiến những góc khuất của cuộc sống như
nạn bạo hành gia đình.
Bước 4: Qua hoạt động của HS, GV dẫn vào bài, kết nối với hoạt động hình
thành kiến thức: đọc hiểu văn bản “Chiếc thuyền ngồi xa”.

* Trị chơi điền khuyết: bay các tầng chữ [8]. Mỗi câu hỏi tương ứng với bay
một tầng chữ, trả lời câu hỏi dưới dạng điền khuyết. Trị chơi này có thể áp dụng
trong các trường hợp sau:
- Tiết văn bản: GV kết hợp phần khởi động và một phần giới thiệu về tác giả. Là
một dạng trả lời câu hỏi (phạm vi câu hỏi có thể mở rộng kiến thức liên môn,
thực tiễn, miễn sao thú vị và HS có thể trả lời) nhưng khi tập hợp lại các câu trả
lời, nó đem lại ngạc nhiên thú vị cho HS vì đó chính là thơng tin tiểu sử cần nhớ
của tác giả.
- Tiết tiếng Việt, tập Làm văn: các tầng chữ tương ứng với số câu hỏi bài cũ mà
GV muốn kiểm tra HS, tất cả các HS đều trả lời nhanh. GV vừa sẽ đánh giá
được việc học bài cũ, vừa ôn tập lại kiến thức cho HS.
- Tiết ôn tập tập Làm văn hay văn bản: trị chơi này là thích hợp nhất, có thể
dành hẳn 10 phút khởi động để hệ thống kiến thức qua trị chơi ln.
Cách tiến hành:
Bước 1: GV soạn các câu hỏi điền khuyết. Số lượng câu hỏi tương ứng với bay
bao nhiêu tầng chữ (5 hoặc 7 tầng chữ, hay 10 tầng chữ). Đưa ra tiêu chí đánh
giá cụ thể, hướng dẫn số điểm tương ứng với số lượng câu trả lời đúng.
Bước 2: GV trình chiếu câu hỏi điền khuyết (điền vào chỗ trống, GV có thể gợi
ý mỗi từ bằng ký hiệu mỗi gạch cho HS dễ đoán), mỗi câu hỏi trả lời trong 20
giây. HS ghi câu trả lời nhanh vào giấy note. Sau khi tất cả các câu hỏi đã được
trình chiếu, lập tức các bạn trong bàn trao phiếu cho nhau.
Bước 3: GV chiếu slide cuối cùng, công bố đáp án. Giáo viên cho HS 1 phút để
chấm điểm cho phiếu bài. Và hỏi một HS bất kỳ về ý đồ của các câu hỏi dựa vào
kết quả cuối cùng thể hiện trên đáp án. Từ đó, GV kết nối hoạt động khởi động
với bài học.
Ví dụ minh họa: Trị chơi bay các tầng chữ cho hoạt động khởi động bài
“Luyện tập vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị
luận”, Ngữ văn 12, tập 1 [5].
Bước 1: GV phát hiệu lệnh khởi động: “Trò chơi bay 7 tầng chữ”. Mỗi tầng
chữ trả lời trong vòng 20 giây. GV hướng dẫn cụ thể trên slide


14

skkn


Bước 2: HS sau khi đã sẵn sàng giấy nhớ, bút trong tay, chú ý lên màn hình, trả
lời câu hỏi, khi slide câu cuối kết thúc, các HS lập tức đổi phiếu bài học cho
nhau.
Hệ thống câu hỏi bay bảy tầng chữ:
Hệ thống câu hỏi bay bảy tầng chữ:
Tầng 1: Trong văn nghị luận, phương thức biểu đạt… luôn giữ vai trò chủ đạo?
Tầng 2: Nếu chỉ sử dụng 1 phương thức biểu đạt là nghị luận thì văn bản hay…?
Tầng 3: Người làm văn có thể vận dụng thêm các phương thức biểu đạt như…
vào bài văn nghị luận?
Tầng 4: Các phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, chỉ là
những yếu tố…, những yếu tố này không làm mờ đi đi đặc trưng của văn bản
nghị luận?
Tầng 5: Việc vận dụng các phương thức biểu đạt thật sự có tác dụng nâng cao
hiệu quả khi nó xuất phát từ… nghị luận?
Tầng 6: Cần vận dụng… các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị luận?
Tầng 7: Một bài văn nghị luận nếu được sử dụng các phương thức biểu đạt có
thể làm cho bài văn nghị luận trở nên…?
Bước 3: GV công bố đáp án ở slide cuối. Trong vòng 1 phút, dựa vào đáp án,
HS đánh dấu câu trả lời đúng cho phiếu bài của bạn vừa trao đổi và đếm số câu
trả lời đúng: Slide đáp án như sau:

Bước 4: GV cơng bố tiêu chí điểm và dựa vào số câu đúng HS vừa tính ở mỗi
phiếu bài, HS sẽ chấm điểm cụ thể cho bạn mình. GV thu lại tồn bộ phiếu
chấm, và tuyên bố trước lớp là lấy điểm kiểm tra bài cũ cho cả lớp (GV sẽ kiểm

tra lại một lần các phiếu chấm).
Slide tiêu chí chấm như sau:

15

skkn


Bước 5: GV kết nối vào hoạt động “Luyện tập vận dụng kết hợp các phương
thức biểu đạt trong bài văn nghị luận”.
* GV có thể khởi động bằng 1 số trò chơi nữa, bên cạnh 3 trò chơi trên, ví dụ:
đốn ý đồng đội, chiếc nón kì diệu, ơ số bí ẩn, đuổi hình bắt tác phẩm, nhanh
như chớp, đuổi chữ, chiếc hộp may mắn, … Nên có phần thưởng nho nhỏ để
trò chơi thêm hứng thú. GV cần lưu ý: Việc tổ chức trò chơi phải gắn liền với
việc chốt kiến thức để dẫn vào bài, nếu không thì sẽ khơng đạt hiệu quả.
2.3.2.6. Giới thiệu thêm một số hình thức khởi động khác GV có thể sử dụng
trong giảng dạy Ngữ văn.
- Sử dụng thơ, ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đối…
Đó là những lời hay ý đẹp có tính chất ngợi ca, lời răn dạy, và những câu triết lí
hàm nghĩa sâu sắc, được con người sử dụng hàng ngày trong cuộc sống. Trích
dẫn các câu trên để vận dụng vào hoạt động khởi động có thể thu hút sự chú ý
của HS, phát triển năng lực …Với hình thức khởi động này, GV có thể yêu cầu
HS tìm các câu thơ, ca dao, thành ngữ, tục ngữ… có chủ đề liên quan đến bài
học, sau đó GV dẫn dắt vấn đề để đi vào bài học.
Ví dụ minh họa: Khi dạy văn bản “Truyện kiều”- đoạn trích “Trao duyên”, tác
giả Nguyễn Du, Ngữ văn 10, tập 2 [5], Hoặc khi dạy văn bản “Tự tình II”, tác
giả Hồ Xuân Hương, Ngữ văn 11, tập 1[5], GV yêu cầu HS đọc những câu thơ,
ca dao về thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa (như Thân em… hay các
câu thơ trong bài Bánh trơi nước…). Có thể cho HS nhận xét về thân phận của
người phụ nữ trong các câu thơ, ca dao đó…, GV chốt lại vấn đề dẫn vào bài

mới.
- Hình thức kể chuyện:
Câu chuyện có liên quan đến bài mới mà HS chuẩn bị học, những câu chuyện
phải ngắn gọn, súc tích, truyện kể phải có nguồn trích dẫn rõ ràng, nguồn thơng
tin chính thống, đảm bảo tính thẩm mỹ, ngơn ngữ chính xác, dễ hiểu… Các
truyện có thể là dân gian hay thực tế từ cuộc sống.
Ví dụ minh họa: Khởi động bài “Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”, Ngữ
văn 12, tập 1 [5], GV đọc câu chuyện (có thể chiếu câu chuyện lên tivi hoặc máy
chiếu) “Quyết định độc đáo” (Theo báo Công An nhân dân) và trả lời các câu
hỏi bằng hình thức thảo luận nhóm: Vì sao các cơng chức nước Anh bị phạt
tiền? Mỗi lần bị phạt bao nhiêu? Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Anh, ông
chủ tịch Hội đồng thành phố đã dùng biện pháp gì? Từ việc tìm hiểu câu chuyện
trên, GV giúp HS hiểu rằng ở đất nước nào cũng vậy, việc mắc lỗi về dùng từ,
16

skkn


sai chính tả, sẽ làm cho người đọc, người nghe khơng hiểu đúng những gì mình
nói, mình viết, thậm chí đem lại cho họ cảm giác khó chịu và xem thường. Từ
đó, dẫn vào nội dung bài học “Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”.
- Hình thức khởi động bằng các bài tập hay câu hỏi tình huống:
Câu hỏi trong phần khởi động có thể chỉ là 1 tình huống để cho HS phát hiện
hay tự huy động vốn kiến thức, hiểu biết của mình để giải quyết tình huống ấy.
Các câu hỏi trong tình huống đưa ra sẽ giúp HS phát triển tư duy, xâu chuỗi vấn
đề một cách mạch lạc đồng thời tạo hứng thú cho HS vào tiết học mới để khám
phá vấn đề còn đang bỏ ngỏ.
Ví dụ minh họa: Khi dạy tiết 2 của “Hồn Trương Ba, Da hàng thịt”, Ngữ văn
12, tập 2 [5], GV có thể đưa ra tình huống cho HS thảo luận: “Hãy tưởng tượng
mình là hồn Trương Ba, phải sống trong thân xác hàng thịt, hồn Trương Ba có

suy nghĩ gì”? Từ đó, HS nêu những ý tưởng và suy nghĩ của bản thân, GV sẽ
dựa vào đó dẫn dắt vào nội dung của bài học.
2.3.3. Những lưu ý để hoạt động khởi động có hiệu quả:
Cần khởi động ở tất cả các bài học: thông thường GV chỉ khởi động ở
những bài học mà mình có thể nghĩ được ý tưởng khởi động; cịn khi khơng có ý
tưởng khởi động, GV bỏ qua luôn bước này. Hoặc chúng ta chỉ khởi động phần
học văn bản, còn tiếng Việt và tập Làm văn thì khơng. Hoặc khi thao giảng, có
thăm lớp dự giờ mới khởi động. Nếu việc khởi động khơng được thực hiện đều
đặn thì việc khởi động sẽ không đạt được hiệu quả, do không bắt nhịp được với
HS, HS rốt cuộc không hiểu được dụng ý của hoạt động đó là gì.
Cần ln ln chú ý tiêu chí của khởi động: ngắn gọn, cơ đọng nhưng
khơng được sơ sài.
GV cần chú ý trong khâu chọn ngữ liệu, hình ảnh, clip. Ngữ liệu phải trong
sáng, gợi những cảm xúc lành mạnh, tích cực, trong trẻo đối với HS. Tránh
những hình ảnh, clip quá trần trụi, phản cảm.
Hoạt động khởi động vốn là “thực hiện các động tác nhẹ trước khi làm
việc” nên phần khởi động cần được thiết kế một cách nhẹ nhàng – lắng đọng.
Không nên thiết kế những câu hỏi khó quá, dễ gây tâm lý chán nản ngay từ đầu
cho HS. Và cần phải linh hoạt, thay đổi hệ thống câu hỏi phù hợp với mức độ
của từng đối tượng HS ở các lớp khác nhau. Ngồi ra, đơi khi GV có thể cài cắm
một hai câu hỏi có tính bàn luận, suy ngẫm để ngỏ, để sau khi học văn bản, HS
sẽ có thể tự trả lời.
Ln phải có đánh giá, chấm kết quả để hoàn thiện một hoạt động. Với
điều này, để tiết kiệm thời gian, GV có thể tổ chức chấm chéo, trắc nghiệm, bắt
cặp chia sẻ, gọi ngẫu nhiên…). Nhưng đánh giá hình thức nào, GV thơng báo
trước hình thức đó để HS được biết, thể hiện sự cơng bằng.
2.3.4. Những bí kíp để việc thiết kế hoạt động khởi động trở nên dễ dàng
hơn
Tập hợp càng nhiều tư liệu càng tốt (hình ảnh, clip, video, phim ngắn,
nhạc, bài viết, các sự kiện xã hội): trước những cái mới hay, hấp dẫn ln ln

nghĩ ngay đến việc tích lũy và ngay lập tức nghĩ đến việc có thể dùng nó vào
việc gì, khởi động bài học nào.
17

skkn


GV hãy luôn chia sẻ ý tưởng với đồng nghiệp mình: trí tuệ được sẻ chia là
trí tuệ được tăng lên không ngừng. Việc chia sẻ với đồng nghiệp sẽ làm cho
cơng việc của mình bớt áp lực, căng thẳng. Và khi chia sẻ, chúng ta sẽ được
nghe nhận xét, hỗ trợ từ đồng nghiệp, nhận ra những vấn đề khách quan mà bản
thân mình khơng thể nhìn nhận. Chúng ta có thể tạo ra cả một kho tư liệu phong
phú cho nhau từ sự chia sẻ.
Điều chỉnh lại sau khi dạy: mỗi thiết kế hoạt động luôn cần được kiểm
nghiệm và điều chỉnh. Dù ít dù nhiều, khi nhận thấy hoạt động được thực hiện
cịn có hạn chế này hoặc hạn chế kia thì chúng ta cần điều chỉnh ngay, kể cả khi
chưa có cơ hội để thực hiện lại. Điều chỉnh và tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm. Vừa
giúp đồng nghiệp, và vừa tích lũy kinh nghiệm cho chính mình.
Để hoạt động khởi động diễn ra mạch lạc, đúng kế hoạch và thời gian, GV
cần thiết lập quy trình lớp học chặt chẽ ngay từ đầu. Quy trình lớp học là những
nguyên tắc giao ước mà GV đề nghị HS thực hiện, chỉ khi lớp học hoạt động
một cách có quy củ thì các hoạt động học mới diễn ra một cách trôi chảy và đáp
ứng đúng thời gian.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Mức độ phù hợp với đối tượng học sinh: Những hoạt động GV yêu cầu
thực hiện, hầu hết các em đều đáp ứng được.
2.4.2. Mức độ phù hợp với thực tiễn nhà trường: Nhà trường có đầy đủ cơ sở
vật chất (ti vi thông minh), tạo điều kiện cho GV tổ chức các hoạt động học một
cách thuận lợi. Với những cơ sở giáo dục chưa được trang bị ti vi, máy chiếu thì
những hình thức khởi động này vẫn có thể thực hiện bằng bảng phụ, giấy A0, và

sự hỗ trợ của máy tính cá nhân của GV.
2.4.3. Mức độ đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học: Cái cơ bản
nhất của đổi mới PPDH, đó là GV thiết kế được những hoạt động học cho HS,
mà qua đó có thể hình thành, phát triển kỹ năng, tiếp nhận kiến thức và có được
năng lực làm việc. Bởi vậy, những hình thức khởi động như trên đã tạo ra được
các hình thức hoạt động phong phú, đa dạng cho HS. Chính nhờ những hoạt
động khởi động như thế này – dù nhỏ, cũng đã rèn luyện phần nào năng lực ứng
xử, giải quyết tình huống, kỹ năng hợp tác, sáng tạo và tư duy logic… ngồi ra,
HS cịn được rèn luyện kỹ năng nghe – nói, viết hiệu quả.
2.4.4. Mức độ đáp ứng yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá: Kiểm tra đánh giá
hiện nay không phải đánh giá kết quả, mà đánh giá quá trình người học, nhằm
mục đích thúc đẩy người học tiến bộ thay vì phê bình nhận xét đóng khung như
trước. Bởi vậy, sản phẩm dùng để đánh giá HS cũng khơng chỉ cịn là bài kiểm
tra như trước, nó có thể là các sản phẩm học tập phong phú khác nhau – kết quả
của các hoạt động học, GV đều có thể lấy để đánh giá: phiếu học tập, bài chuẩn
bị ở nhà… và một sản phẩm bất kỳ của hoạt động khởi động vẫn có thể làm sản
phẩm đánh giá: sản phẩm trò chơi, viết tự do. Bởi vậy, hoạt động khởi động
được thiết kế một cách bài bản, khoa học, thì đều có thể dùng làm kiểm tra đánh
giá, đáp ứng yêu cầu đổi mới.
2.4.5. Khả năng phát triển/mở rộng/vận dụng của biện pháp: Với đề tài này,
tơi hi vọng có thể khơi gợi cảm hứng sáng tạo của đồng nghiệp trong thiết kế
hoạt động khởi động để GV chúng ta có thêm những hình thức khởi động thú vị,
18

skkn


hấp dẫn với HS hơn. Và cũng với đề tài này, tôi sẽ tiếp tục sưu tầm, sáng tạo
nhiều cách thức khởi động hiệu quả hơn nữa, chuẩn bị cho chương trình phổ
thơng mới và chia sẻ cùng các đồng nghiệp, nhằm xây dựng thành kho tư liệu bổ

ích cho bộ môn Ngữ văn.
- Khả năng vận dụng: như đã trình bày ở trên, những cách thức này có khả năng
vận dụng ở nhiều đối tượng HS, nhiều cơ sở giáo dục. Và cũng với hình thức
này, có thể vận dụng vào nhiều đơn vị bài học khác nhau.
2.4.6. Kết quả cụ thể:
+ Đối với học sinh: Khi áp dụng những phương pháp, kỹ thuật khởi động
này. Người viết nhận thấy, HS háo hức chờ đợi tiết học, hăng hái sẵn sàng hợp
tác cùng với GV. Giờ học trở nên nhẹ nhàng, thú vị hơn, sự tiếp nhận kiến thức,
kỹ năng của HS đạt kết quả cao hơn.
+ Đối với giáo viên: sau một quá trình thiết kế các hoạt động học cho HS,
người viết đã thu được nhiều điều có ích cho bản thân: trình độ soạn giáo án
điện tử tốt hơn, có thể tự thiết kế, tạo trị chơi, bảng biểu, ơ chữ theo ý đồ riêng
của mình…
Qua quá trình áp dụng thử nghiệm sử dụng một số hình thức khởi động cho giờ
dạy và sự nỗ lực trong suốt quá trình giảng dạy, kết quả chất lượng môn Ngữ văn
cuối năm học 2021– 2022 như sau:
Lớp

Điểm 9- 10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL

%
10A7 42
16
38.1
23
54.8
3
7.1
0
11C8 42
14
33.3
25
59.5
3
7.1
0
12B3 40
13
32.5
22
55
5
12.5
0
Tổng 124
43
34.7
70
56.5

11
8.9
0
Tôi cũng tiến hành khảo sát hứng thú của học sinh với môn học, đặc biệt
với các tiết học văn bản; và thu được kết quả như sau:
Lớp
Sĩ số
Hứng thú
Bình thường
Khơng hứng thú
SL
%
SL
%
SL
%
10A7
42
29
69.0
12
28.6
1
2.4
11C8
42
26
61.9
16
38.1

0
0
12B3
40
31
77.5
9
22.5
0
0
Tổng
124
86
69.3
37
29.8
1
0.8
Như vậy, với kết quả chất lượng môn Ngữ văn cuối năm học 2021 –
2022 so với đầu năm có nâng lên rõ rệt; số lượng HS u thích mơn học đã
tăng cao. Hầu hết các em đều rất hào hứng tham gia và đã được lôi cuốn vào
giờ học, hình thành và phát triển được 1 số năng lực.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Với khả năng sáng tạo khơng ngừng trong q trình tư duy, tìm tịi học hỏi
của GV, chắc chắn, sẽ còn nhiều kỹ thuật khởi động hiệu quả nữa ra đời, với
mục đích làm cho những giờ dạy Ngữ văn trở nên đẹp đẽ và thú vị hơn, có hiệu
quả hơn trong việc hình thành, phát triển kỹ năng, năng lực cho người học. Điều
cốt yếu cuối cùng thiết nghĩ không phải là phương pháp, kĩ thuật điêu luyện đến
19


skkn


bậc nào, mà là mối quan hệ gắn kết giữa người GV và HS tạo nên một môi
trường học tập tốt đẹp ra sao. Hoạt động dạy học trở thành một hoạt động thú vị
của quá trình khám phá, chiếm lĩnh tri thức. Để có được điều đó, người GV phải
nỗ lực khơng ngừng, với nhiệt huyết, tình u khơng bao giờ phai nhạt đối với
sự nghiệp dạy học.
Môn Ngữ văn là một mơn học mang tính đặc thù, nếu trong một giờ văn
mà các em không hào hứng, tâm hồn các em khơng xao động, tình cảm của các
em khơng một lần thổn thức… thì giờ văn đó chưa thể coi là thành công. Tôi
thiết nghĩ, kết quả của đề tài này rất khó cụ thể được bằng những con số nhưng
người trực tiếp đứng lớp và kiểm nghiệm thì nhận thấy rất rõ. Đó là sự hứng thú
học tập của HS, là những giờ văn vừa sôi nổi vừa sâu sắc lắng đọng.
- Về phía học sinh: Đa số các em ngoan, biết vâng lời, ý thức học tập tốt. Khi các em
được tham gia tích cực vào hoạt động khởi động, các em có tâm thế tốt hơn, hào hứng
đón nhận giờ học một cách tích cực, chủ động.
- Về phía giáo viên: Có được kết quả như trên, bản thân tôi thật sự tâm huyết
với nghề, ln trăn trở, tìm tịi, đọc các tài liệu có liên quan đến đổi mới phương
pháp trong dạy học Ngữ văn để tìm ra phương pháp dạy học thích hợp với từng
bài giảng. Đăc biệt, tơi đã kiên trì học hỏi, tìm hiểu thêm các cách thức tổ chức hoạt
động khởi động để nâng cao hiệu quả các tiết dạy của mình.
3.2. Kiến nghị
* Đối với Sở giáo dục: Trong các kỳ bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, rất mong
Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức các chuyên đề, cung cấp thêm tài liệu nghiên
cứu; khuyến khích, mở rộng việc bồi dưỡng các kĩ năng sư phạm liên quan đến
hoạt động khởi động dạy học song song với việc bồi dưỡng các kĩ năng và
phương pháp dạy học khác trong nhà trường.
* Đối với nhà trường và đồng nghiệp: Ban lãnh đạo nhà trường quan tâm giúp

đỡ, tạo điều kiện tốt hơn cho GV dạy Ngữ văn có thể ứng dụng thành cơng hoạt
động khởi động này nói riêng, các hoạt động đổi mới phương pháp dạy - học
khác nói chung để làm cho bức tranh Văn học trong nhà trường ngày càng có
thêm nhiều gam màu sáng.
Đề nghị nhà trường, tổ chuyên môn tạo điều kiện tổ chức các hoạt động
ngoại khóa nhiều hơn nữa để các em có một sân chơi văn học bổ ích.
Với những biện pháp trên, bước đầu tôi đã thu được kết quả khả quan. Song
do điều kiện nghiên cứu còn hạn hẹp, đề tài của tôi chắc chắn sẽ không tránh
khỏ hạn chế. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà chuyên môn
và các đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN
Quảng Xương, ngày 02 tháng 06 năm 2022
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết khơng coppy của
người khác
Người viết
Đỗ Thị Ba
20

skkn


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ GD-ĐT (2014). Công văn số 5555/BGDĐTGDTrH ngày 08/10/2014,
V/v hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm
tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chun mơn của trường trung
học/trung tâm giáo dục thường xuyên qua mạng.
[2] Bộ GD-ĐT (2017). Công văn số: 4612/BGDDT-GDTrH, Hà Nội ngày
03/10/2017, V/v hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện

hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học
2017- 2018.
[3] BCHTW, Số: 29-NQ/TW, Hà Nội, ngày 4/11/2013, Nghị Quyết “Về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa và hội
nhập quốc tế” đã được hội nghị Trung ương 8(khóa XI) thơng qua. Tạp chí Xây
dựng Đảng giới thiệu toàn văn Nghị quyết.
[4] Phạm Thị Thu Hương (chủ biên, 2017). Giáo trình thực hành dạy học Ngữ
văn ở trường phổ thông. NXB Đại học Sư phạm.
[5] Sách giáo khoa, Sách giáo viên Ngữ văn 10, 11, 12 - NXB Giáo dục Việt
Nam, năm 2020.
[6] Nguyễn Trọng Hoàn (2016). Hoạt động học tập môn Ngữ văn trong dạy học
định hướng năng lực. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh.
[7] Đặng Xuân Hải (2011). Kĩ thuật dạy học trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
NXB Bách khoa Hà Nội
[8] Internet
[9] Chương trình “Mỗi ngày một cuốn sách” cập nhật trên Báo điện tử Đài
truyền hình Việt Nam VTV.VN (Hay: chuyên mục “Mỗi ngày một cuốn sách” chương trình Chào buổi sáng- VTV1, Đài truyền hình Việt Nam).
[10] Lê Trí Viễn tồn tập, NXB Giáo dục, năm 2006.
[11] Luật giáo dục năm 2005.

skkn


DANH MỤC
Đề tài SKKN tác giả đã được Hội đồng cấp Sở GD & ĐT đánh giá đạt giải
Ngày cấp
Xếp
TT

Tên đề tài
Số QĐ
chứng chỉ
loại
1 Sử dụng phương pháp so sánh QĐ số:
05/11/2017
C
trong giảng dạy các tác phẩm văn 1112/QĐhọc
SGD&ĐT
2 Bồi đắp vẻ đẹp tâm hồn cho HS QĐ số:
17/12/2020
B
thông qua việc giảng dạy văn bản 2088/QĐVHDG trong chương trình Ngữ SGD&ĐT
văn lớp 10 THPT

skkn


×