Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Bối cảnh ra đời đường lối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.84 KB, 7 trang )

1. Bối cảnh ra đời đường lối
 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
- Ngày 1-9-1939, phát-xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới
thứ hai bùng nổ. Lợi dụng tình hình chiến tranh, Chính phủ Pháp thi hành
hàng loạt các biện pháp thẳng tay đàn áp các lực lượng dân chủ trong nước
và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp bị tan vỡ,
ĐCS Pháp bị đặt ra ngồi vịng pháp luật.
- Ở Việt Nam, bộ máy đàn áp được tăng cường. Chúng thủ tiêu những
gì mà nhân dân ta giành được trong thời gian trước.
- Pháp tiến hành cải tổ bộ máy cai trị, tăng cường lực lượng cảnh sát,
mật thám, phát-xít hoá bộ máy cai trị, đàn áp phong trào cách mạng.
- Lợi dụng sự thất thủ và đầu hàng của các đế quốc có thuộc địa ở
châu Á, phát-xít Nhật nhanh chóng cướp lấy thuộc địa. Ngày 22-9-1940,
Nhật Bản cho quân vượt biên giới Việt-Trung đánh vào Lạng Sơn chính
thức xâm lược Đơng Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng
Đơng Dương cho Nhật. Từ đó, nhân dân Việt Nam sống rên xiết dưới ách áp
bức Nhật-Pháp.
 Chính sách cai trị thời chiến của Nhật – Pháp ở Đông Dương


- Sau khi chiếm Đông Dương, quân phiệt Nhật không lật đổ bộ máy
thực dân Pháp, mà sử dụng nó như một công cụ thực hiện ý đồ của chúng,
dựng nên Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
- Qn Nhật cướp ruộng đất của nông dân, nhổ lúa để trồng đay và
thầu dầu phục vụ nhu cầu chiến tranh.
- Phát-xít Nhật và thực dân Pháp thực thi ở Đông Dương một nền kinh
tế độc quyền phục vụ chiến tranh.
- Trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng: Pháp thực hiện nhiều biện pháp
tuyên truyền lừa bịp, phản động, một mặt, chống lại ảnh hưởng của Nhật,
mặt khác, ngăn chặn phong trào u nước của nhân dân ta. Cịn phát xít
Nhật ra sức tuyên truyền cho thuyết “Đại Đông Á”, mở trường dạy tiếng


Nhật, lập viện văn hoá, đặt các cơ quan thơng tin, du lịch, tổ chức trao đổi
các đồn văn hóa, giáo dục, y tế, tơn giáo giữa Nhật và Việt Nam, nắm một
số tờ báo tay sai, làm cơng cụ tun truyền, đề cao chúng.
2. Xác định, hồn thiện đường lối
Đường lối CMGPDT được đưa ra tại Hội nghị Trung ương 6 (111939), Hội nghị Trung ương 7 (11-1940) tiếp tục bổ sung đường lối, Hội
nghị Trung ương 8 (5-1941) hoàn thiện đường lối:
- Hội nghị Trung ương 6: Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông
Dương khơng cịn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế
quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để
giành lấy giải phóng độc lập, ''phải thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của
cách mệnh là đánh đổ đế quốc'' và công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc
lên.
- Hội nghị Trung ương 7: Cách mạng phản đế - CMGPDT cao hơn hết
và một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh
lấy sứ mệnh thiêng liêng, lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương
võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập. Trong lúc này kẻ thù chính


của nhân dân Đông Dương là đế quốc chủ nghĩa Pháp, Nhật. Kẻ thù phụ là
phong kiến bản xứ.
- Hội nghị Trung ương 8 phân tích, đánh giá phong trào cách mạng đã
và đang diễn ra sôi nổi trên cả nước, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa trong
hai năm 1940-1941, nhận định: Mặc dù sự đàn áp của giặc Pháp rất dữ dội
mà dân ta vẫn không lùi. Những cuộc khởi nghĩa lại gây một ảnh hưởng
rộng lớn toàn quốc. Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa
toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước
Đơng Dương.
Tóm lại, các Hội nghị Trung ương 6, 7, 8 đã đưa ra một hệ thống các
quan điểm, chủ trương của Đảng trên những vấn đề chủ yếu sau đây:
(1)- Nêu cao nhiệm vụ GPDT, đặt nhiệm vụ GPDT lên hàng đầu:

Chống đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu vì đế quốc Pháp, Nhật là kẻ thù
chủ yếu. Nhiệm vụ chống phong kiến đặt ra thực hiện từng bước và phải đặt
dưới nhiệm vụ GPDT. Điều đó là đúng đắn, phù hợp với diễn biến chung
của tình thế, phù hợp với nguyện vọng chung của toàn thể dân tộc. Lúc này,
tạm thời chưa giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, song nông dân vẫn
không giảm bớt sự hăng hái tranh đấu mà vẫn nỗ lực tranh đấu mạnh hơn vì
trong cuộc tranh đấu GPDT họ cũng được hưởng nhiều quyền lợi to tát.
(2)- Về vấn đề lực lượng:
+ Để đoàn kết và huy động được sức mạnh của toàn dân thực hiện
mục tiêu GPDT, Hội nghị Trung ương 6 chủ trương xây dựng Mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi và vững chắc. Đó là Mặt trận thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương (11- 1939) thay cho Mặt trận dân chủ trước đó. Hội
nghị Trung ương 7 thành lập Mặt trận dân tộc chống phát – xít; tháng 51941, Hội nghị Trung ương quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng
minh (Việt Minh).
(3)- Về phương pháp cách mạng:


+ Từ kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa, của hoạt động của Cứu
quốc quân, của đội du kích ở Bắc Sơn - Vũ Nhai, các Hội nghị đã khẳng
định vấn đề khởi nghĩa vũ trang: Cuộc cách mạng Đông Dương phải tiến
hành bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang. Các Hội nghị cũng chỉ ra những
điều kiện khách quan, chủ quan để khởi nghĩa bằng vũ trang và dự liệu
những bước đi để thúc đẩy những điều kiện đó phát triển chín muồi; đồng
thời khẳng định: Ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong
từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc
tổng khởi nghĩa.
(4)- Phân tích tình thế cách mạng, chủ động chuẩn bị về mọi mặt thúc
đẩy thời cơ cách mạng:
+ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 và tháng 11- 1940 đã đề cập tới
tình thế và thời cơ để cách mạng tiến lên giành thắng lợi.

+ Đặc biệt Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 đã dự báo Liên Xô
thắng trận, quân Trung Quốc phản công, quân Nhật đang mắc sự phản công
của Anh - Mỹ và đặt ra yêu cầu cần thiết và cấp bách cho sự chuẩn bị điều
kiện chuyển biến cuộc cách mạng phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Tình hình
thế giới sẽ biến chuyển ghê gớm làm cho tình hình Đơng Dương thay đổi có
lợi cho cách mạng. Ta phải ln ln chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng,
nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù.
+ Sau Hội nghị Trung ương 8, Đảng và Hồ Chí Minh tiếp tục theo sát
sự phát triển của tình hình thế giới và trong nước để dự liệu thời cơ cách
mạng.
(5)- Vấn đề chính quyền và hình thức tổ chức nhà nước
+ Khi xác định cuộc cách mạng là CMGPDT nghĩa là phải giành lấy
độc lập, tự do cho dân tộc thì một vấn đề rất cơ bản và chủ yếu đặt ra là vấn
đề hình thức tổ chức nhà nước phải xây dựng khi giành được độc lập.
+ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 chủ trương chưa đưa khẩu hiệu
lập “Chính phủ Xơ- viết cơng nơng binh'' là hình thức chính phủ riêng của


dân chúng lao động, mà lựa chọn hình thức “Chính phủ cộng hồ dân chủ”,
là hình thức chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng trong xứ và
trong phong trào GPDT. Đó là sự lựa chọn đúng đắn phù hợp với điều kiện
cụ thể của xã hội Việt Nam. Chương trình Việt Minh tiếp tục xác định rõ hơn
về hình thức nhà nước. Đó là Nhà nước “cộng hoà dân chủ” - Nhà nước
cách mạng của dân, do dân, vì dân và do ĐCS lãnh đạo.
• Như vậy, bước vào cao trào GPDT những năm 1939 - 1945, Đảng và
Hồ Chí Minh xác định cách mạng nước ta chưa phải là cách mạng tư sản
dân quyền với nhiệm vụ giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày,
cũng chưa phải là cách mạng XHCN mà là cách mạng giải phóng dân tộc
giành cho được độc lập hoàn toàn, rồi từng bước thực hiện mục tiêu ruộng
đất, mở đường tiến dần lên CNXH. Đó là quy luật vận động, phát triển của

cách mạng nước ta và khẳng định sự đúng đắn, tính triệt để của CMGPDT
do ĐCS lãnh đạo.
- Những nội dung đường lối CMGPDT mà các Hội nghị Trung ương
6, 7, 8 xác định là một hệ thống toàn diện, đồng bộ những vấn đề chiến lược,
sách lược và phương pháp cách mạng, chủ động về nắm bắt tình thế và thời
cơ cách mạng. Điều cần đặc biệt nhấn mạnh là Đảng và Hồ Chí Minh đã làm
rõ sự thống nhất trong mục tiêu giành độc lập cho dân tộc và giành chính
quyền về tay nhân dân để đi đến sự lựa chọn hình thức chính quyền nhà
nước thích hợp.
 Tiểu kết
- Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần
thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước, qua ba Hội nghị Trung
ương, Đảng đã giải quyết những vấn đề:
+ Quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ


Nhiệm vụ hàng đầu là đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân
tộc; tính chất của cuộc cách mạng là giải phóng dân tộc; kẻ thù nguy hiểm,
cụ thể của cách mạng Đông Dương là bọn đế quốc, tay sai.
+ Về lực lượng cách mạng
Đoàn kết rộng rãi lực lượng của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giải
phóng. Để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương thành
lập Mặt trận dân tộc rộng rãi chống đế quốc, lấy liên minh công nông làm cơ
sở. Đỉnh cao của hình thức tập hợp lực lượng là Mặt trận Việt Minh, đồng
thời thành lập các đoàn thể cứu quốc.
+ Về phương pháp cách mạng
Xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của
Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng
quân sự, xây dựng căn cứ địa cách mạng, xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang. Dự kiến con đường giành chính quyền ở Việt Nam là tiến hành khởi

nghĩa từng phần trong từng địa phương, để tiến tới tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong cả nước.
+ Về vấn đề dân tộc
Đảng chủ trương sau khi giành độc lập, các dân tộc sống trên bán đảo
Đơng Dương muốn lập ra chính phủ liên bang hay đứng riêng thành một
quốc gia dân tộc tuỳ ý. Đối với Việt Nam, sau khi độc lập sẽ lập ra chính
phủ VNDCCH. Hội nghị Trung ương 8 đã phát huy sức mạnh của mỗi dân
tộc, coi giải phóng dân tộc là sự nghiệp riêng của mỗi dân tộc.
+ Các vấn đề khác: Bên cạnh đó, BCH Trung ương cịn đặc biệt chú
trọng tới cơng tác phân tích, dự báo tình hình, vấn đề chính quyền – nhà
nước, vấn đề xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo
của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán
bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động
quần chúng.




×