Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.51 KB, 23 trang )

Nhóm 4
1.Đỗ Trung Nghĩa
2.Lê Ngọc Bảo Châu
3.Ngơ Hồng Minh
4.Nguyễn Thu Hằng
5.Nguyễn Thu Thủy
Đề bài:Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư
Chương 1 : Lý thuyết chung về các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư
I.Khái niệm đầu tư và chi tiêu đầu tư
1.Khái niệm về đầu tư

Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành những hoạt
động nhằm thu được những kết quả và mục tiêu nhất định trong tương lai.Mục tiêu
của mọi công cuộc đầu tư là đạt được những kết quả cao hơn so với những hi sinh
về các nguồn lực đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Các nguồn lực phải bỏ ra có thể là tiền,tài nguyên thiên nhiên,sức lao động
và trí tuệ.Những kết quả thu được có thể là sự gia tăng tài sản tài chính,tài sản vật
chất,tài sản trí tuệ,nguồn nhân lực có khả năng làm việc với năng suất lao động cao
cho nền kinh tế và toàn bộ xã hội.
2.Phân loại đầu tư
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư được chia làm 2 loại : Đầu tư trực tiếp
và đầu tư gián tiếp
-Đầu tư gián tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ bốn không trực tiếp tham gia
quản lí, điều hành q trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư
VD:các nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán thứ cấp
-Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý
điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư.
Theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư mang lại, chúng ta có phân loại
đầu tư thành đầu tư tài chính, đầu tư thương mại,đầu tư phát triển.
-Đầu tư tài chính : là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua
các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước( gửi tiết kiệm hoặc mua trái


phiếu)
hay lãi suất và quyền sở hữu công ty tùy thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty phát hành cổ phiếu.Đầu tư vào tài sản tài chính khơng trực tiếp tạo ra
tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của tổ chức,cá nhân
đầu tư.
-Đầu tư thương mại : là loại đàu tư trong đó người có tiền bỏ ra tiền mua hàng hóa
và sau đó bán lại với giá cao hơn giá ban đầu nhằm thu lợi nhuận từ chênh lệch giá
khi mua vào và bán ra. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh
tế.Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thích đẩy q trình lưu thơng của cải
vật chất trong nền kinh tế
-Đầu tư phát triển:Trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động
nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh mà
mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống

1


cho mọi người dân trong xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao
đời sống cho mọi người dân trong xã hơi. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng và
sửa chữa các cơ sở hạ tầng, mua sắm thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất kinh
doanh
3.Chi tiêu đầu tư
Ở tầm vĩ mô, chi tiêu đầu tư là sự dịch chuyển vốn từ các khoản tiết kiệm của
hộ gia đình và chính phủ sang khu vực kinh doanh nhằm làm tăng lượng sản phẩm
đầu ra và góp phần làm tăng trưởng kinh tế.Chi tiêu đầu tư bao gồm quyết định trì
hỗn tiêu dùng, tìm kiếm và tích lũy vốn để tăng tiềm năng sản xuất cho nền kinh tế.
Ở góc độ vi mơ,chỉ tiêu đầu tư là q trình nhà đầu tư quyết định thời điểm
thực hiện đầu tư và kết hợp các nguồn lực với tỷ lệ như thế nào để quá trình thực
hiện đầu tư đạt kết quả cao nhất.
II.Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư

1.Lợi nhuận kì vọng
a)Lý thuyết của Keynes:
Theo Keynes thì lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 yếu tố cơ bản quyết định đến
đầu tư.
Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận nhà đầu tư mong muốn sẽ thu được
trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư.
Nếu lợi nhuận kỳ vọng lớn hơn lãi suất cho vay thì nhà đầu tư sẵn sàng bỏ
vốn để kinh doanh.Nếu lợi nhuận kì vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được thì nhà
đầu tư sẽ khơng bỏ vốn sản xuất kinh doanh mà gửi tiền vào ngân hàng.
Có hai chỉ tiêu định lượng để xác định lợi nhuận của một dự án đó là tỷ suất
lợi nhuận vốn đầu tư và hệ số hoàn vốn của dự án.Tỷ suất lợi nhuận phản ánh mức
lợi nhuận thu được tính trên một đơn vị đầu tư.Hệ số hoàn vốn nội bộ là lãi suất dự
án có thể đạt được để đảm bảo cho tổng các khoản doanh thu của dự án cân bằng
với các khoản chi ở thời gian mặt bằng hiện tại.
Các nhà đầu tư không căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận thông thường mà căn cứ
vào tỷ suất lợi nhuận biên để quyết định đầu tư.Tỷ suất lợi nhuận biên thường giảm
dần.
Tỷ suất lợi nhuận có quan hệ tỷ lệ thuận một chiều với đầu tư.Một ngành có
tỷ suất lợi nhuận cao thì người ta sẽ đầu tư vào nhiều.Vậy tỷ suất lợi nhuận giúp
đưa ra quyết định đầu tư vào đâu.Tuy nhiên nếu đầu tư nhiều thì hiệu quả sẽ
giảm.Lúc này ta xét đến tỷ suất lợi nhuận biên.Tỷ suất lợi nhuận biên cho biết nên
đầu tư bao nhiêu,lượng vốn như thế nào.
Tỷ suất lợi nhuận=lợi nhuận/Vốn đầu tư (%)
Tỷ suất lợi nhuận biên=delta lợi nhuận/delta vốn đầu tư (%)
Các nguyên nhân khiến tỷ suất lợi nhuận biên giảm:
Thứ nhất: khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư tăng lên.Nhu cầu vốn tăng
làm lãi suất cho vay tăng(tức là giá cả của đồng vốn tăng lên)làm cho chi phí sản
xuất kinh doanh tăng.Nếu các yếu tố khác khơng đổi thì khi đó lợi nhuận giảm làm
cho tỷ suất lợi nhuận biên giảm.
Thứ hai:xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường.Khi giá tăng đàu

tư và kết quả đầu tư đã đi vào hoạt động phát huy kết quả trong thực tiễn thì cung
2


sản phẩm sẽ tăng nghĩa là có nhiều sản phẩm được cung ứng vào nền kinh tế.Cung
tăng sẽ dẫn đến giá sản phẩm giảm, chi phí sản xuất coi như ổn định, tỷ suất lợi
nhuận vốn đầu tư giảm.Khi quy mơ vốn đầu tư tăng thì hiệu quả biên của vốn giảm
dần nên các nhà đầu tư chỉ tiếp tục đầu tư khi hiệu quả biên của vốn lớn hơn lãi
suất của vốn vay trên thị trường vốn.Khi nào hiệu quả biên của vốn thấp hơn mức
lãi suất vốn vay tức là lợi nhuận tăng thêm thấp hơn sơ với chi phí tăng thêm thì các
nhà đầu tư sẽ ngừng việc đưa thêm vốn vào mở rộng sản xuất,điểm cân bằng đạt
được khi hiệu quả biên của vốn đầu tư bằng với lãi suất cho vay của ngân hàng.
Theo Keynes tỷ suất lợi nhuận là đại lượng khó xác định.Tuy nhiên chính điều
đó lại thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư.Lợi nhuận thu được có thể rất cao,
có thể thấp, thậm chí có thể ẩm nên kích thích các nhà đầu tư bỏ vốn với kì vọng có
thể thu được lợi nhuận cao.Bên cạnh đó họ cũng phải đối mặt với những rủi ro có
thể xảy ra.Đó là tính hai mặt của đầu tư,chấp nhận rủi ro để thu được lợi nhuận kì
vọng.
a1)Một số yếu tổ ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng
-Cung cầu hàng hóa
Cầu là lượng hàng hóa mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua
tại các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian xác định.Cầu hàng hóa phụ thuộc
vào nhiều yếu tố.Đó là thu nhập,mức sống,thói quen tiêu dùng và thị hiếu của người
dân.Nếu cầu tiêu dùng trên thị trường tăng thì lợi nhuận kì vọng của doanh nghiệp
tăng và ngược lại.
Cung hàng hóa là lượng hàng hóa mà người sản xuất muốn bán và có khả
năng bán tại những mức giá khác nhau trong khoảng thời gian xác định.Trước hết
nó phụ thuộc vào khả năng sản suất của xã hội tức là khả năng kết hợp các yếu tố
đầu vào,cơng nghệ sản xuất,bên cạnh đó là các yếu tố khác như chính sách
thuế,các kỳ vọng...Khi cung hàng hóa trên thị trường tăng thì giá hàng hóa giảm

xuống làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm xuống, nếu cung hàng hóa trên thị
trường thấp dẫn đến giá hàng hóa tăng làm cho lợi nhuận kì vọng của doanh nghiệp
tăng lên.
-Mức độ rủi ro
Một trong những đặc điểm của đầu tư phát triển là lượng vốn lớn, thời kì đầu
tư kéo dài đồng nghĩa với độ rủi ro cao.Rủi ro là một đặc điểm cơ bản của hoạt động
đầu tư.Phạm vi ảnh hưởng của rủi ro rất rộng chẳng hạn như những thay đổi không
lường trước của giá cả,công nghệ.Một hoạt động có mức độ rủi ro thấp thường có
lợi nhuận kì vọng cao hơn hoạt động đầu tư có mức độ rủi ro cao.Để giảm thiểu
những tác động của rủi ro thì cần có các biện pháp quản lý rủi ro như nhận diện
chính xác rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro và xây dựng biện pháp chống rủi ro
-Các nguồn lực đầu tư vào quá trình sản xuất
Khi quyết định đầu tư, các nhà đầu tư phải xác định được các yếu tố đầu vào
để đảm bảo cho quá trình thực hiện đầu tư cũng như vận hành kết quả đầu tư.Việc
sử dụng các yếu tố đầu vào nào,số lượng bao nhiêu và chất lượng ra sao ảnh
hưởng rất nhiều đến số lượng và chất lượng sản phẩm đầu ra và ảnh hưởng đến lợi
nhuận của doanh nghiệp.Các yếu tố đầu vào cụ thể là:

3


Các điều kiện về nguồn nhân lực: số lượng và chất lượng lao động.Khi xem
xét nguồn nhân lực thì ta phải chú ý đến khả năng dự báo tăng dân số, tiền lương,
trình độ học vấn và văn hóa của người lao động
Nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển:khả năng huy động vốn trên thị
trường tài chính và tỷ lệ phân bố vốn cho hoạt động đầu tư.
Về nguồn nguyên liệu đầu vào:phụ thuộc vào chính sách bảo vệ tài ngun
thiên nhiên,các chính sách đền bù giải phóng mặt bằng,mối liên hệ giữa các ngành
kinh tế
Về trình độ công nghệ:phụ thuộc vào các quy định về chuyển giao công

nghệ,khả năng nghiên cứu và tiếp thu của đội ngũ khoa học trong nước.
Về cơ sở hạ tầng:phần lớn được đàu tư ngân sách nhà nước nên phụ thuộc
vào quy hoạch vùng và nguồn ngân sách.
-Thuế
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước,vừa là công cụ tái phân
phối của cải xã hội vùa là công cụ điều tiết phân bổ vốn giữa các ngành,vùng
miền.Thuế tác động đến cung cầu trên thị trường.Thuế thu nhập cá nhân làm giảm
thu nhập của người dân làm giảm cầu tiêu dùng,thuế cịn có tác động đến giá các
yếu tố khác làm tăng chi phí sản xuất và ảnh hưởng đến cung cầu hàng hóa.
2.Lãi suất tiền vay:
2.1.Định nghĩa
Lãi suất được hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng,giá cả của
quan hệ vay mượn hoặc cho thuế các dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc
các tài sản khác.Khi đến hạn,người đi vay trả cho người vay một khoản tiền dơi ra
ngồi số vốn gọi là tiền lãi.Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi
suất.
Lãi suất là cơ sở để các cá nhân cũng như doanh nghiệp đưa ra quyết định
kinh tế của mình xem đầu tư vốn của mình vào danh mục đầu tư này hay đầu tư
khác.
2.2.Phân biệt lãi suất thực và danh nghĩa:
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà các ngân hàng trả cho người gửi tiền.Lãi
suất danh nghĩa phụ thuộc vào cung cầu vốn vay tiền trên thị trường.Lãi suất được
điều chỉnh để tạo ra sự cân bằng trên thị trường vốn.Ngoài ra lãi suất cũng chịu ảnh
hưởng của sự điều tiết ngân hàng nhà nước thơng qua chính sách tiền tệ như lãi
suất cơ bản,nghiệp vụ thị trường mở, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu.
Lãi suất thực tế là lãi suất danh nghĩa sau khi đã loại trừ yếu tố lạm phát.Chủ
đầu tư sẽ chỉ quyết định đầu tư khi IRR ( tỷ suất thu nhập nội bộ) của dự án lớn hơn
lãi suất thực tế.Do đó khi lãi suất tăng sẽ có ít dự án đầu tư hơn, nhu cầu đầu tư sẽ
giảm.
3.Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia

Đây là chỉ tiêu vĩ mô ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều yếu tố khác.
-Nhu cầu về sản lượng sản phẩm hay việc thay đổi sản lượng là nhân tố ảnh hưởng
đến việc tăng hay giảm quy mô vốn đầu tư.
VD:Khi GDP tăng nhanh sẽ làm tăng thu nhập của người dân, do đó vừa kích thích
tiêu dùng lịa vừa làm tăng tiết kiệm
4


Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu cùng tăng, tiết kiệm tăng thì cung vốn tăng làm giảm
lãi suất,kích thích đầu tư.
Hơn nữa,khi toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra tâm lí hướng về đầu tư.
Q trình này sẽ tạo ra hiệu ứng “số nhân”:một sự tăng thêm ban đầu trong sản
lượng sẽ làm đầu tư và sản lượng tiếp tục tăng thêm nhiều lần.
-Tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn đầu tư không giống nhau, vấn đề này
được đề cập trong lý thuyết gia tốc vốn đầu tư.Theo lý thuyết này, để sản xuất ra
một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất định.Tương
quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn theo công thức:x=K/Y
K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu
Y:sản lượng tại thời kỳ nghiên cứu
x:hệ số gia tốc đầu tư
Đặc điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
-Phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư.Nếu x khơng đổi trong kì kế hoạch thì
có thể sử dụng cơng thức để lập kế hoạch khá chính xác .
-Phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư.Khi kinh tế tăng trưởng
cả cao, sản lượng nền kinh tế căng,cơ hội kinh doanh lớn,dẫn đến tiết kiệm tăng cao
và đầu tư tăng nhiều.
Hạn chế gia tốc đầu tư:
Thứ nhất, ở đây giả định quan hệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định.Thực tế đạu
lượng này (x) luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác.
Thứ hai,thực chất lí thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ

không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự thay đổi của sản lượng.
Thứ ba,theo lý thuyết này thì tồn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện
ngay trong cùng 1 thời kì.Điều này khơng đúng vì nhiều lí do, chẳng hạn như do việc
cung cấp các yếu tố có liên quan đến vốn đầu tư khơng đáp ứng,do cầu vượt quá
cung.
4.Chu kì kinh doanh
Chu kì kinh doanh là những dao động của nền kinh tế xung quanh xu thế tăng
trưởng dài hạn,bao gồm cả những thời kì tăng trưởng nhanh xen kẽ với những thời
kì suy thối của nền kinh tế.
Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức chi tiêu
đầu tư khác nhau.
Theo lý thuyết tính kinh tế của quy mơ, trong những điều kiện nhất định thì việc gia
tăng quy mơ sản lượng sản xuất ra có thể giúp cho củ đầu tư tiết kiệm chi phí sản
xuất,gia tăng đầu tư.
Mặt khác, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế
mở rộng, nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp tư
nhân gia tăng.Ngược lại,khi chu kì kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên,quy mô của nền
kinh tế mở rộng,nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các doanh
nghiệp tư nhân gia tăng.Ngược lại, khi chu kì kinh doanh ở vào thời kì đi xuống, qui
mơ nền kinh tế thu hẹp,nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và các doanh nghiệp tư nhân
thu hẹp lại.

5


Không phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu của các doanh nghiệp cũng
thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kì kinh doanh của tồn bộ nền kinh
tế.Bởi vì mặc dù nền kinh tế suy thối nhưng các doanh nghiệp vẫn đầu tư phát triển
sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ khi sản phẩm cũ mất chỗ đứng trên thị trường
hoặc đã kết thúc một chu kì sống, hoặc cũng có một số doanh nghiệp đầu tư vào

các thị trường ngoài nước trong khi nền kinh tế của quốc gia trên đà đi xuống.
5.Đầu tư nhà nước
Trong tổng đầu tư xã hội bao gồm đầu tư của nhà nước và đầu tư doanh
nghiệp.Các dự án đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước không nhằm mục đích thu lợi
mà tác dụng trợ giúp,điều tiết,định hướng cho đầu tư của tồn xã hội.Thơng qua
ngân sách, chính phủ có thể đầu tư phát triển mạng lưới giao thơng, viễn thông, cơ
sở hạ tầng,các khu công nghiệp...điều này nhằm cải thiện mơi trường đầu tư,khuyến
khích các cá nhân,tổ chức,doanh nghiệp đầu tư vào các vùng, ngành theo quy
hoạch của chính phủ,hướng nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển
của doanh nghiệp nhà nước.
Đầu tư từ ngân sách nhà nước là nguồn đầu tư quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia.Nguồn lực này thường được sử dụng cho các
dự án kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội,quốc phòng,an ninh, hỗ trợ các dự án của
doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước,chi cho công tác
lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng,lãnh
thổ,quy hoạch xây dựng đô thị và nơng thơn.Nguồn chi này có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động chi đầu tư khác vì nó giúp cải thiện mơi trường đầu tư
và đồng thời là nguồn chi không thể thiếu của mỗi quốc gia.Tuy nhiên,nếu hoạt động
chi ngân sach nhà nước không hợp lý,sai mục đích,thất thốt sẽ gây ra thâm hụt
ngân sách nhà nước,ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Nếu đầu tư nhà nước được thực hiện một cách hợp lý, đúng hướng có thể
góp phần làm tăng hiệu quả chi đầu tư, phát triển kinh tế-xã hội.
6.Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư phản ánh những nhân tố đặc trưng của địa điểm, từ đó tạo
thành các cơ hội và động lực cho DN đầu tư hiệu quả , tạo việc làm và phát triển.Nó
như một chất xúc tác ban đầu cho quyết định của nhà đầu tư.Sự cải thiện môi
trường đầu tư có quyết định vơ cùng quan trọng đồi với chi đầu tư và nền kinh
tế.Nếu môi trường đầu tư thuận lợi có thể tăng chi đầu tư và tổng đầu tư của tồn

xã hội.
Trong mơi trường đầu tư có nhiều yếu tố như :Cơ sở hạ tầng kĩ thuật của xã
hội,mơi trường chính trị,hệ thống chính sách của nhà nước và môi trường luật
pháp,hệ thống pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư
6.1.Cơ sở hạ tầng kĩ thuật của xã hội
Cơ sở hạ tầng ở đây mang tính xúc tác cho hoạt động đầu tư, tạo điều kiện cho
kinh tế xã hội phát triển.Những quốc gia có cơ sở hạ tầng phát triển sẽ thúc đẩy các
nhà đầu tư tích cực đầu tư sản xuất, làm tăng chi cho đầu tư
6.2.Mơi trường chính trị
6


Là nhân tố vô cùng quan trọng của môi trường đầu tư.Ổn định chính trị sẽ tạo ra
sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt rủi ro của nhà đầu tư.Từ đó khuyến khích
các nhà đầu tư bỏ vốn thực hiện hoạt động của mình,đặc biệt đối với nhà đầu tư
nước ngồi,ổn định chính trị là một yếu tố hàng đầu trong việc quyết định đầu tư vào
một quốc gia khác.
6.3.Mơi trường luật pháp
Q trình đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian dài,
nên một môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để quản
lý và thực hiện đầu tư có hiệu quả.Mơi trường này bao gồm các chính sách, quy
định, luật cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn,chồng chéo nhau và có
hiệu lực cao.Những chính sách cụ thể ảnh hưởng tới chi tiêu đầu tư là:
-Chính sách sở hữu: mục đích là kiểm sốt các hoạt động của các nhà đầu tư,
khống chế một mức vốn sở hữu đối với từng nhà đầu tư
-Chính sách thuế: bao gồm các nội dung liên quan đến các loại thuế,mức thuế,thời
gian miễn giảm thuế,thời gian khấu hao và các điều kiện ưu đãi đầu tư khác.
-Chính sách lệ phí: quy định về các khoản tiền phải nộp như phí dịch vị cấp giấy
phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng
-Chính sách quản lý ngoại hối:bao gồm các quy định về mở tài khoản ngoại tệ, tỷ giá

hối đối,chuyển ngoại tệ ra nước ngồi.Những quy định này có ảnh hưởng lớn tới
nhà đầu tư nước ngồi.
-Quản lý hoạt động đầu tư:trong q trình hình thành và triển khai dự án đầu tư,chủ
đầu tư phải chịu sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền từ khâu cấp giấy
phép,thẩm định dự án đến quản lý thực hiện dự án.
-Ngồi những chính sách trên cịn có những chính sách khác mà như đầu tư cần
xem xét khi đưa ra quyết định đầu tư như:Chính sách cơng nghệ,chính sách bảo vệ
mơi trường,chính sách về lao động,tiền lương,chính sách về việc sử dụng các
nguồn tài nguyên...
Chương 2 :Thực trạng chi tiêu đầu tư ở Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu
tư tại VN
II- Thực trạng chi tiêu đầu tư tại VN:
Như đã nêu ở mục khái niệm chi tiêu đầu tư, Chi tiêu đầu tư thực chất là các khoản
chi tiêu cho các nhu cầu đầu tư của Nhà nước , các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, bao
gồm đầu tư vốn cố định và đầu tư vốn lưu động. Do đó, để tìm hiểu kĩ hơn về thwucj trạng
của chi tiêu đầu tư tại Việt Nam, ta sẽ xét đến tình hình chi tiêu đầu tư của lần lượt các đối
tượng đầu tư là Nhà nước và các đơn vị kinh tế.

1) Chi đầu tư của nhà nước:
a) Khái niệm chi tiêu đầu tư của Nhà nước: đầu tư công:
Việc gia tăng vốn xã hội được gọi là đầu tư cơng. Việc tăng vốn xã hội thuộc chức
năng của Chính phủ, vì vậy đầu tư cơng thường được đồng nhất với đầu tư mà chính phủ
thực hiện hay nói cách khác, chi tiêu đầu tư của chính phủ là đầu tư công. Đầu tư công bao
gồm: Đầu tư từ ngân sách (phân cho các Bộ ngành Trung ương, các địa phương); Đầu tư
theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu (thường là các chương trình mục tiêu trung và dài
hạn), cũng được thông qua trong kế hoạch ngân sách hằng năm, tín dụng đầu tư (vốn cho

7



vay) của Nhà nước có mức độ ưu đãi nhất định; Đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước,
mà phần vốn quan trọng của doanh nghiệp có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước.
b) Quy mô vốn đầu tư của Nhà nước:
Trong thời gian từ 2005 đến 2012, tỷ trọng vốn ĐTPT tồn xã hội ln chiếm rất cao trong
GDP (cao nhất là năm 2007 với 46,52%). Tuy nhiên, tỷ trọng này đang có xu hướng giảm
mạnh, đến năm 2012 chỉ còn 33,5% trong GDP.
Trong thời gian từ 2009-2012, tỷ trọng vốn đầu tư trong GDP theo 3 khu vực sở hữu đều
giảm (KTNN - 11%; khu vực kinh tế ngồi nhà nước -3,96% và khu vực kinh tế có vốn FDI 18,54%). Sự sụt giảm tỷ trọng vốn đầu tư/GDP của khu vực KTNN là do chủ trương cắt
giảm đầu tư công trong thời gian qua.
Số liệu tại bảng 1 cho thấy, tổng vốn ĐTPT toàn xã hội đã liên tục tăng từ 343.135 tỷ đồng
năm 2005 lên 989.300 tỷ đồng năm 2012 (tăng lên 2,88 lần). Trong đó, khu vực vốn FDI
tăng nhanh nhất (4,5 lần); tiếp đến là khu vực kinh tế ngoài nhà nước (2,95 lần) và cuối
cùng là khu vực KTNN 2,32 lần. Nhìn chung, quy mô vốn cho ĐTPT đều tăng trong thời gian
từ 2005 - 2012, tuy nhiên có xu hướng chững lại trong tất cả các khu vực (năm 2012 chỉ cao
hơn so với năm 2011 là 64.805 tỷ đồng), đặc biệt là trong 2 năm gần đây, tổng vốn đầu tư
nhà nước đã khơng cịn chiếm ưu thế mà đứng sau khu vực kinh tế ngoài nhà nước.
Điều này một phần là do trong năm 2011, Chính phủ thực hiện rà soát, cắt giảm, điều
chuyển vốn đầu tư nhằm sử dụng hiệu quả, chống thất thốt, lãng phí theo tinh thần Nghị
quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 và năm 2012 triển khai thực hiện Chỉ thị số 1792/CTTTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân
sách nhà nước (NSNN) và vốn trái phiếu chính phủ.
c) Cơ cấu vốn của chi tiêu đầu tư Nhà nước:
Vốn ĐTPT từ khu vực KTNN có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong toàn bộ giai đoạn 20052012 từ 47% xuống còn khoảng 37%. Vốn ĐTPT từ khu vực ngoài nhà nước giữ nguyên tỷ
trọng trong giai đoạn này. Khu vực FDI có sự gia tăng đóng góp cho vốn ĐTPT được coi là
một tín hiệu đáng mừng. Tỷ trọng đóng góp vốn ĐTPT của khu vực này tăng từ 14,89%
năm 2005 lên 23,2% năm 2012.
Trong tổng vốn, giá trị vốn đầu tư nhà nước từ 2005 - 2012, vốn đầu tư từ NSNN luôn tăng
và đứng đầu qua các năm. Điều này phản ánh thực tế gia tăng chi tiêu công của Nhà nước
cho phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua.
Trong thời gian 2005 - 2012, tỷ lệ giữa vốn đầu tư từ NSNN/tổng vốn đầu tư của Nhà nước
luôn chiếm tỷ trọng cao nhất tuy tăng giảm không đều (năm 2005 - 2010 chiếm bình quân


8


tới 55,6%, thậm chí năm 2008, 2009 là trên 60%, năm 2010 là 44,8%, năm 2011 là 52,1 và
năm 2012 là 54,8%) (Hình 1).
d)Hiệu quả chi tiêu đầu tư của Nhà nước:
d.1)Hiệu quả kinh tế
Quy mô đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước trong thời gian qua duy trì tăng trưởng
ở mức 2 con số và có sự chậm lại trong những năm gần đây (mức tăng trung bình giai đoạn
2001 – 2005 đạt 12,68%/ năm, giai đoạn 2006 – 2010 là 11,54%/năm và xuống khoảng 6%
trong năm 2011 - 2012).
Qua các số liệu ở trên có thể thấy, trong tổng vốn đầu tư của khu vực nhà nước từ
năm 2005 - 2012, vốn đầu tư từ NSNN luôn chiếm tỷ khối lượng lớn nhất so với các nguồn
vốn khác. Điều này phản ánh thực tế gia tăng chi tiêu công của Nhà nước cho phát triển
kinh tế - xã hội. Tuy vậy, nếu so sánh với những nỗ lực cắt giảm chi tiêu cơng qua NSNN thì
mục tiêu này chưa đạt được hiệu quả khi năm 2012, tỷ trọng vốn đầu tư từ NSNN vẫn lên
tới 54,8%.
Mơ hình tăng trưởng của Việt Nam dựa quá nhiều vào vốn ĐTPT và phát triển theo
chiều rộng. Các nhân tố phát triển theo chiều sâu ngày càng bị lấn át. Trong tồn bộ giai
đoạn 2001-2010, sự đóng góp của vốn vào tăng trưởng chiếm tỷ trọng trung bình tới
55,65%, tỷ trọng đóng góp cao nhất vào năm 2009 với 72,37%.

Trong khi đó, sự đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng chiếm trung bình
25,21% trong giai đoạn 2001-2010, cao nhất vào năm 2009 với 34,02%. Mức độ đóng góp
của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng chiếm tỷ trọng nhỏ nhất
với 19,15%. Đóng góp của yếu tố TFP này khơng ổn định, biểu hiện qua sự “biến động” của
nền kinh tế thế giới trong năm 2008 - 2009 với mức độ đóng góp tương ứng là 7,29% và 6,39%.
Trong giai đoạn 2000-2006, TFP đóng góp vào tăng trưởng kinh tế 11,6%, trong đó
khu vực KTNN đóng góp 4,5%; kinh tế ngồi Nhà nước: 5,4% và kinh tế có vốn FDI chỉ đạt

1,7%.
Đến giai đoạn 2007-2012, yếu tố TFP chỉ đóng góp vào tăng trưởng 6,4%. Trong đó,
khu vực KTNN đóng góp 2,2%, ngồi Nhà nước: 3,0% và kinh tế có vốn FDI: 1,2%. Như

9


vậy, sự đóng góp của TFP vào nền kinh tế theo các phân tích này đều nhỏ, trong đó có khu
vực KTNN, chứng tỏ tính hiệu quả chưa cao của khu vực này.
Bức tranh tổng thể về ĐTPT trong những năm vừa qua ở nước ta có biểu hiện chưa tích
cực, trong đó ĐTPT của khu vực KTNN có một vị trí, vai trị rất quan trọng. Nguồn vốn này
góp phần thu hút được nhiều nguồn lực trong nước và ngồi nước cho ĐTPT, góp phần tạo
nên những thành tựu phát triển kinh tế quan trọng. Bên cạnh những thành tích đã đạt được,
hiệu quả đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước trong thời gian qua chưa cao.

Chỉ số ICOR của kinh tế Việt Nam từ mức 3,3 giai đoạn 1991 - 1995 đã tăng lên đến mức
7,04 giai đoạn 2001 - 2005 và mức 6,18 giai đoạn 2006 - 2010. Nhờ vào những biện pháp
tái cơ cấu, tập trung vào nâng cao hiệu quả đầu tư, hệ số ICOR trong hai năm 2011 - 2012
đã giảm đáng kể, đạt mức khoảng 4,6. Xét về từng dự án, còn khơng ít dự án đầu tư có
hiệu quả thấp, khơng đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội, cá biệt có những
dự án, nội dung đầu tư trùng lắp, chồng chéo, hoặc gây cản trở, làm mất hiệu quả của các
dự án đã được đầu tư trước đó.
Qua các số liệu tính tốn trên, ta thấy hiệu quả đầu tư từ khu vực Nhà nước có thể được
chia thành hai thời kỳ:
Từ 2005-2009, hệ số ICOR tăng dần. Mặc dù tỷ lệ đầu tư từ khu vực Nhà nước so với GDP
khu vực Nhà nước không tăng mà còn giảm đi trong giai đoạn này nhưng việc tạo ra giá trị
gia tăng đã giảm sút, dẫn tới giá trị hệ số ICOR khu vực này tăng lên nhanh chóng, bất chấp
nỗ lực cắt giảm, hạn chế đầu tư cơng của khu vực Nhà nước. Trong đó, vốn đầu tư từ
NSNN có tỷ trọng lớn nhất cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự kém hiệu
quả của đầu tư khu vực nhà nước nói chung.

Từ 2010-2012, ICOR có xu hướng giảm dần, chứng tỏ được hiệu quả đầu tư của khu vực
KTNN đã dần được cải thiện theo hướng tích cực. Tuy nhiên, tính chung cho giai đoạn
2005-2012, hiệu quả đầu tư của khu vực KTNN vẫn rất thấp khi giá trị hệ số ICOR là 8,58.
Nhìn chung trong cả giai đoạn 2000-2012, ĐTPT từ nguồn vốn NSNN khơng hiệu quả nếu
xét theo khía cạnh tạo việc làm cho lao động. Tuy nhiên, điều này có thể được giải thích
như sau: theo xu hướng thì khu vực Nhà nước cần giảm dần về tỷ trọng trong GDP, vốn và
lao động do tính mở của cơ chế thị trường và các quy tắc ràng buộc khi gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Khu vực Nhà nước vốn mang đặc trưng kém hiệu quả, linh
hoạt. Vì vậy, lao động được rút ra khỏi khu vực này chưa hẳn là một dấu hiệu tiêu cực.

10


d.2)Hiệu quả xã hội
Giảm nghèo là một trong những mục tiêu ưu tiên ở nước ta. ĐTPT có hiệu quả thể hiện ở
việc giảm tỷ lệ hộ nghèo qua các năm được xem xét qua hệ số co giãn (HSCG).Để đo
lường sự tác động của ĐTPT vào giảm đói nghèo có thể xem xét mối quan hệ giữa tốc độ
tăng trưởng vốn đầu tư của khu vực KTNN và tốc độ giảm tỷ lệ hộ nghèo. Qua số liệu trên,
HSCG giữa đầu tư của khu vực KTNN và giảm nghèo mang giá trị âm, điều này chứng tỏ
đầu tư của khu vực này có tác động tích cực tới giảm nghèo. Giá trị tuyết đối của hệ số này
đã tăng lên từ 1,19 tới 1,67 chứng tỏ tác động tích cực của vốn ĐTPT tới giảm nghèo của
giai đoạn sau so với giai đoạn trước.
Nguồn tài liệu nghiên cứu:
1. Chính phủ (2012), Báo cáo tình hình đầu tư phát triển năm 2012 và dự kiến phương án
phân bổ kế hoạch đầu tư phát triển nguồn NSNN năm 2013 và giai đoạn 2013-2015;
2. Bùi Mạnh Cường (2012), “Nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN ở Việt
Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế;
3. Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2011&2012;
4. Trần Thọ Đạt (2008), Sách chun khảo các mơ hình tăng trưởng kinh tế, NXB Đại học
Kinh tế Quốc dân.


TS Lê Đăng Doanh trích dẫn báo cáo của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, năm 2011, Việt Nam đã
triển khai đầu tư công với tổng số vốn dự kiến chi 123.029,1 tỷ cho 20.529 dự án, tức là đáp
ứng khoảng 1/3 dự án và 1/2 nhu cầu vốn đầu tư. Trong giai đoạn 2000-2009, đầu tư cho
lĩnh vực kinh tế luôn chiếm trên 73% vốn đầu tư của Nhà nước, đầu tư vào các ngành thuộc
lĩnh vực xã hội liên quan trực tiếp đến sự phát triển của con người (khoa học, giáo dục và
đào tạo, y tế và cứu trợ xã hội, văn hóa, thể thao, phục vụ cá nhân và cộng đồng) còn rất
khiêm tốn, giảm từ 17,6% năm 2000 xuống còn 15,2% năm 2009, trong đó đầu tư cho khoa
học, giáo dục và đào tạo giảm tỷ trọng từ 8,5% năm 2000 xuống còn 5,1% năm 2009; y tế
và cứu trợ xã hội từ 2,4% những năm 2000-2003 lên 3,2-3,9% những năm 2004-2008 và
giảm còn 2,8% năm 2009; đầu tư cho lĩnh vực quản lý nhà nước những năm gần đây chiếm
khoảng 8%.

11


Hiện nay, nền kinh tế nước ta có quy mơ GDP khoảng 130 tỷ USD. Để sản xuất ra 130 tỷ
USD đó, trong nền kinh tế có: 100 cảng biển, trong đó có 20 cảng “quốc tế” nhưng chưa có
một cảng biển nước sâu đủ tiêu chuẩn quốc tế; 22 sân bay dân dụng, trong đó có 8 sân bay
quốc tế; đang xây dựng 18 khu kinh tế biển, 30 khu kinh tế cửa khẩu, 260 khu công nghiệp,
650 cụm công nghiệp. Trong thời gian từ 2001 đến 2010 đã quyết định thành lập mới 307
trường đại học, học viện, hiện nay Việt Nam có tổng cộng 409 trường đại học, học viện,
trường cao đẳng, bình qn mỗi tỉnh có 6 trường, năm 2015 sẽ có khoảng 550 trường ĐH
và Cao đẳng, theo kế hoạch cần đầu tư 10 tỷ USD/năm (chưa kể giáo dục, y tế). Trong 10
năm qua, mỗi tháng trên đất nước có thêm 1 khu đơ thị mới.
Đầu tư của khu vực Nhà nước không thể có hiệu quả kinh tế thuần túy cao như đầu tư của
khu vực tư nhân, bởi vì trong nhiều trường hợp mục đích của đầu tư cơng khơng phải nhằm
vào lợi nhuận và hiệu quả kinh tế. Ngay cả phần lớn doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tuy
có mục tiêu chính là sản xuất kinh doanh có lãi, nhưng vẫn cịn phải thực hiện một số mục
tiêu "phi lợi nhuận" như tạo điều kiện phát triển cho các vùng nghèo, có điều kiện khó khăn,

sản xuất và cung ứng các hàng hóa cơng cộng, các sản phẩm và dịch vụ ít lãi, thậm chí lỗ
vốn... Nhưng khơng phải vì vậy mà có thể biện minh cho việc đầu tư kém hiệu quả kéo dài
của khu vực nhà nước do những nguyên nhân chủ quan như chiến lược kinh doanh và đầu
tư sai lầm, quản lý kém, thiếu trách nhiệm, lãng phí, tham nhũng...
Song Chính phủ chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của các DNNN, nhất là
đối với việc đầu tư. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước được coi là "tự chủ" của
doanh nghiệp, nên q trình kiểm tra, kiểm sốt chưa cao. Các bộ cũng khơng thể can thiệp
vào q trình sản xuất kinh doanh của các DNNN. Thêm vào đó, quá trình cổ phần hố
cũng tiến triển chậm, nên sự giám sát các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa chặt chẽ.
Nhiều DNNN vay nợ lớn để mở rộng quy mô, đầu tư dàn trải vào nhiều lĩnh vực, nhiều
ngành nghề, phát triển các hoạt động ngồi ngành nghề chính, độc quyền và có khả năng
lũng đoạn thị trường, quản lý kém gây thất thốt vốn, kinh doanh thua lỗ. Tình trạng sử dụng
chưa hiệu quả vốn đầu tư ở các DNNN đã trở thành phổ biến và đáng báo động.
2) Chi tiêu đầu tư của doanh nghiệp:
Chi đầu tư hay đầu tư của doanh nghiệp là việc bỏ vốn cùng các nguồn lực khác
trong hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và tăng thêm tài sản mới cho doanh nghiệp, tạo
việc làm, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao đời sống cho nhân viên.
Chi đầu tư của doanh nghiệp có thể phân loại theo rất nhiều hình thức khác nhau.
Tuy nhiên trong bài luận này chỉ tập trung phân tích thực trạng chi tiêu đầu tư của doanh
nghiệp theo phương thức thực hiện đầu tư, cụ thể: đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo
chiều sâu.
I/ Đầu tư theo chiều rộng:

12


Trước thời kỳ đổi mới, do tư tưởng chủ quan duy ý chí, chỉ chú trọng vào các ngành cơng
nghiệp nặng, ở nước ta đã diễn ra tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ vào những
ngành này. Thời kỳ này hiệu quả đầu tư rất kém, nền kinh tế lâm vào trạng thái trì trệ. Sau
khi thực hiện đổi mới, với việc thay đổi cơ chế chính sách, hoạt động đầu tư ở Việt Nam đã

có sự chuyển biến. Đầu tư ở giai đoạn nay chủ yếu là đầu tư chiều rộng, tuy nhiên hiệu quả
của loại hình này vẫn rất hạn chế. Số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam tăng lên nhanh chóng
cả về quy mơ vốn và lao động. Số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động trong các ngành
kinh doanh tăng bình quân 25,8%/ năm (2 năm tăng 23,1 nghìn doanh nghiệp), trong đó
doanh nghiệp nhà nước giảm 4,6% (2 năm giảm 498 doanh nghiệp); doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tăng 22,8 %/ năm (2 năm tăng 775 doanh nghiệp). Về mặt số lượng, doanh
nghiệp tăng chủ yếu ở khu vực ngồi quốc doanh, sau đó là khu vực có vốn đầu tư nước
ngồi. Doanh nghiệp Nhà nước giảm do tổ chức sắp xếp lại và cổ phần hố chuyển qua khu
vực ngồi quốc doanh.




Nếu phân theo ngành kinh tế thì tại thời điểm 1/1/2003, ngành nơng, lâm nghiệp và
thuỷ sản có 3376 doanh nghiệp, chiếm 5,37% tổng số doanh nghiệp của tất cả các
ngành kinh tế và gấp 3,79 lần thời điểm 1/1/2001; công nghiệp có 15818 doanh
nghiệp, chiếm 25,15% và gấp 1,45 lần; xây dựng có 7814 doanh nghiệp, chiếm
12,42% và gấp 1,96 lần; thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng có 27633 doanh
nghiệp, chiếm 43,94%, gấp 1,43 lần; vận tải và viễn thông 3251 doanh nghiệp, chiếm
5,17% và gấp 1,8 lần; các ngành khác có 5000 doanh nghiệp, chiếm 7,95% và gấp
1,74 lần. Sau đây là bảng số liệu về số doanh nghiệp có tại thời điểm 1/1 hàng năm
Thời gian 1/1/2001 1/1/2002 1/1/2003 Tổng số
Phân theo hình thức sở hữu Trong đó:


thời gian

1/1/2001

1/1/2002


51507

1/1/2003

tổng số

39762

6289
2

-Doanh nghiệp Nhà nước

5531

5067

5033

-Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh

32702

43996

5555
5


+ Hợp tác xã

3187

3614

4112

+ Doanh nghiệp tư nhân

18226

22554

2481
8

13


+ Cty cổ phần

10489

16189

2358
7

+ Cty TNHH


800

1636

3038

Doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi

1529

1997

2304

Phân theo ngành kinh tế
- Nơng lâm nghiệp, thuỷ
sản
- Công nghiệp
- Xây dựng
-Thương nghiệp, khách
sạn, nhà hàng
- Vận tải. Viễn thông

891

3424

3376


10946

12951

15818

3894

5588

7814

19281

22489

27633

1789

2535

3251

2671

3710

5000


- Các ngành khác









Số doanh nghiệp tăng lên đã giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động. Tại
thời điểm 1-1-2001 khu vực doanh nghiệp thu hút 3,440 triệu lao động với mức thu
nhập bình quân 1,043 triệu đồng, 1-1-2002 có 3,787 triệu lao động (tăng 10,1%), 11-2003 có 4,4 triệu lao động (tăng 16,2%) với mức thu nhập bình quân 1,2 triệu
đồng. Như vậy mỗi năm khu vực doanh nghiệp sử dụng thêm 0,53 triệu lao động ,
góp phần nâng cao thu nhập cho một bộ phận lớn dân cư. Sự tăng lên về số lượng
doanh nghiệp góp phần quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, doanh
thu thuần bình quân tăng 26,8%/năm; tổng nguồn vốn tăng 16,4%; nộp ngân sách
tăng 15,5%/năm. Lợi ích cao hơn mà tăng trưởng doanh nghiệp đem lại là tạo ra
khối lượng hàng hoá và dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn. Cùng với sự tăng lên về số
lượng doanh nghiệp,
Lượng vốn đầu tư hàng năm cũng tăng lên đối với tất cả các thành phần kinh tế.
Quy mô vốn đầu tư được thể hiện qua bảng sau: Đơn vị: tỷ đồng Năm Tổng số
Thành phần kinh tế Kinh tế nhà nớc Ngồi quốc doanh Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoàI 2001 163,543 95,020 38,512 30,011 2002 183,800 103,300 46,500 34,000
2003 .217,585 123,000 58,125 36,460
Lượng vốn đầu tư tăng, nhưng tính bình qn lại giảm. Tại thời điểm 1/1/2003, bình
qn 1 doanh nghiệp chỉ có 72 lao động và 20 tỷ đồng tiền vốn, so với năm 2000 số
lao động là 86 người và vốn là 23 tỷ đồng.
Như vậy xu hướng quy mô nhỏ ngày càng tăng, chủ yếu là do doanh nghiệp tư nhân

tăng nhiều, trong đó gồm phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ.Do phần lớn

14














doanh nghiệp có mức vốn thấp (85% doanh nghiệp có số vốn dưới 10 tỷ đồng) nên
ngay từ đầu việc trang bị kỹ thuật, công nghệ đã rất hạn chế, mức độ trang bị tàI sản
cố định cho một lao động ở mức rất thấp, bình quân 108 triệu đồng/1 lao động, trong
đó cao nhất là khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồI là 247,4 triệu đồng/1
lao động; khu vực doanh nghiệp Nhà nước 117 triệu đồng/ 1 lao động (bằng 47%
mức trang bị của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồI), thấp nhất là doanh
nghiệp ngoàI quốc doanh 42,8 triệu đồng/1 lao động (chỉ bằng 17% của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồI, và bằng 26,5% doanh nghiệp Nhà nước).
Trong thực tế có nhiều doanh nghiệp ở nước ta do liên kết sáp nhập đã hình thành
doanh nghiệp có quy mơ lớn, có bước phát triển mạnh về quy mô cũng như tăng
trưởng kinh tế. Ví dụ từ khi mới thành lập tháng 5-1990, tổng công ty máy điện lực
và máy nông nghiệp VEAM chỉ có số vốn hơn 140 tỷ đồng, doanh thu 75 tỷ
đồng/năm, đến 2002, VEAM gồm 15 đơn vị thành viên, tổng số vốn đã lên tới 750 tỷ

đồng và doanh thu đạt 1000 tỷ đồng.
Trong việc xây dựng các doanh nghiệp nhà nước có quy mơ lớn ở nước ta cịn phải
kể đến việc thí nghiệm thực hiện chuyển Tổng cơng ty nhà nước sang hoạt động
theo mơ hình cơng ty mẹ- cơng ty con- một dạng tập đồn kinh tế. Dù trong giai đoạn
thí điểm, cũng thấy rằng có 17 Tổng cơng ty 91 và 9 cơng ty 90 đã hội đủ điều kiện
duy trì Tổng cơng ty nhà nước, và có thể xây dựng đề án chuyển sang hoạt động
theo mơ hình cơng ty mẹ- cơng ty con.
Trong thời kỳ cơng nghiệp hố- hiện đại hố, việc xây dựng các khu công nghiệp tập
trung là cần thiết và được nhà nước khuyến khích. Từ năm 1994 các khu công
nghiệp được xây dựng để cung ứng cơ sở hạ tầng thuận lợi, tạo điều kiện dễ dàng
cho đầu tư nước ngồi và đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra
nhập các khu công nghiệp. Hiện nay trên cả nước có 82 khu cơng nghiệp, diện tích
đất tự nhiên 15800 ha, diện tích đất có thể cho thuê 11000 ha. Khu công nghiệp là
đầu mối quan trọng trong việc thu hút đầu tư, đóng góp vào việc gia tăng sản lượng,
góp phần nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm cho hàng
ngàn lao động.Tuy nhiên, tiến độ lấp đầy các khu cơng nghiệp cịn chậm do nhiều
ngun nhân như hệ thống hạ tầng điện, nước, giao thông của các khu cơng nghiệp
chưa hồn chỉnh, giá th đất chưa thực sự hấp dẫn, các doanh nghiệp trong nước
thiếu vốn để đầu tư xây dựng nhà xưởng trong khu cơng nghiệp.
Tình hình đầu tư vào khu cơng nghiệp cịn nhiều bất cập. Việc đầu tư phát triển các
khu công nghiệp không theo một quy hoạch thống nhất, nhiều địa phương có khu
cơng nghiệp với chức năng tương tự nhau, nên không tận dụng được lợi thế so
sánh. Sự phối hợp giữa các khu cơng nghiệp cịn rất yếu, thường phát triển riêng rẽ,
đầu tư tất cả các hạng mục cơng trình, kể cả xây dựng các cụm dân cư, vốn đọng
trong kết cấu hạ tầng lâu và lớn, dẫn đến đầu tư tốn kém, không hiệu quả. Nhiều khu
công nghiệp xây dựng xong nhiều năm mà chưa có khách đến thuê. Các khu cơng
nghiệp chưa có sự sắp xếp hợp lí về quy mô, ngành nghề, công nghệ, đặc biệt là
các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp nặng, các ngành có
hàm lượng khoa học và vốn cao chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư.
Đầu tư theo chiều rộng có vai trị quan trọng trong việc phát triển sản xuất. Tuy

nhiên, các doanh nghiệp hiện nay, với quy mơ vốn ít nên khó có thể tiến hành đầu tư
triệt để. Mặt khác việc đầu tư dàn trải, khơng có quy hoạch cụ thể, khơng xác định
đầu tư trọng tâm, trọng điểm lại dẫn đến tình trạng lãng phí, hiệu quả đầu tư rất kém.
Trong lĩnh vực sản xuất nơng nghiệp đã có những bước phát triển khá nhanh và
tồn diện. Nơng nghiệp khơng những đảm bảo được an toàn lương thực- thực phẩm

15








trong nước mà cịn cung cấp nơng sản phục vụ cho xuất khẩu với số lượng lớn, chất
lượng ngày càng tăng. Những thành tựu to lớn và quan trọng của nông nghiệp và
nông thôn những năm qua một mặt do tác động tích cực của cơ chế và chính sách
đổi mới của Đảng, mặt khác có vai trị quyết định là nguồn vốn đầu tư của nhà nước
dành cho nông nghiệp, nông thôn ngày càng tăng. Từ năm 1991-2000, vốn đầu tư
phát triển nơng nghiệp- nơng thơn ước tính đạt 65,2 nghìn tỷ đồng, tương đương 5,9
tỷ USD, chiếm khoảng 10,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong những năm gần
đây đã có sự tập trung cao hơn cho đầu tư phát triển nông nghiệp- nông thôn.
Nguồn vốn ngân sách đã tăng đáng kể cho khu vực sản xuất này. Vốn đầu tư xây
dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước dành cho nông nghiệp- nông thôn năm 1996
đạt 2882,4 tỷ đồng, chiếm 10% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đến 1998 số vốn này đã
chiếm 15,3% tổng vốn đầu tư. Lượng vốn này chủ yếu được dành cho việc xây dựng
và nâng cấp các cơng trình thuỷ lợi để tạo ra cơ sở hạ tầng quan trọng phục vụ tưới
tiêu nước, phát triển sản xuất nông nghiệp. Năm 1998, vốn đầu tư cho thuỷ lợi là
2800 tỷ đồng, năm 1999 là 4000 tỷ, năm 2000 khoảng 3800 tỷ. Trong cơ cấu đầu tư

hiện nay, đầu tư cho thuỷ lợi chiếm khoảng 70% đầu tư toàn ngành. Bên cạnh nguồn
vốn trong nước, ngành nơng nghiệp- nơng thơn cịn thu hút nguồn vốn trong dân,
vốn của các doanh nghiệp, của mọi thành phần kinh tế và nguồn vốn đầu tư nước
ngồi, trong đó quan trọng nhất là vốn đầu tư của các hộ gia đình.
Nguồn vốn của các hộ gia đình đầu tư cho nơng nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản có
xu hướng tăng dần và đang có xu hướng chuyển dần theo cơ cấu hợp lý hơn: tập
trung vào các vùng chuyên cach sản xuất hàng hoá lớn như lúa gạo ở đồng bằng
sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng; cà phê ở Tây Nguyên; cao su, điều ở Đông
Nam Bộ; nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng ven biển… và xây dựng cơ sở hạ tầng nông
thôn, các cơng trình phục vụ sản xuất nơng nghiệp, trong đó chủ yếu là thuỷ lợi hố
nội đồng, cải tạo đồng ruộng, khai hoang phục hố, mua sắm máy móc phục vụ sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, phát triển ngành nghề nông thôn…Tuy nhiên, do thu
nhập của người nông dân nhìn chung cịn thấp nên việc đầu tư bằng vốn tự có của
dân chỉ chiếm tỷ lệ dưới 50%. Những năm gần đây, vốn đầu tư của dân còn tập
trung vào mở rộng sản xuất theo mơ hình trang trại chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía
Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ. Nguồn vốn đầu tư
của các doanh nghiệp cũng góp phần quan trọng thúc đẩy quy mô và tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở các vùng sản xuất nơng sản hàng hố tập trung. Phương thức đầu
tư chủ yếu của nguồn vốn này là hỗ trợ kỹ thuật, giống cây con, ứng trước vốn cho
nơng dân mua vật tư, phân bón để đảm bảo sản xuất, xây dựng mơ hình tổ chức sản
xuất và tiêu thụ nông sản, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn. Trong lĩnh vực phát
triển nông thôn, các doanh nghiệp cũng đã đầu tư vốn, kỹ thuật hỗ trợ các địa
phương xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, nhất là thuỷ lợi, giao thông, trường học,
trạm điện, trạm y tế, bệnh viện, hệ thống nước sạch…với nhiều mơ hình và mức độ
khác nhau.
Nguồn vốn nước ngồi cũng có vai trị quan trọng trong phát triển nơng nghiệp- nông
thôn. Nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào trồng và chế biến cà phê, cao su, chè,
mía đường, mì chính, gạo, chăn ni gia súc, gia cầm theo phương pháp công
nghiệp, đồng thời nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn.
Bên cạnh những thành quả đã đạt được, vẫn còn tồn tại những vấn đề sau: Vốn

đầu tư mặc dù có tăng nhưng lại tiến hành đầu tư dàn trải, phân tán, không tập trung
vào những vùng trọng điểm và các cơng trình quan trọng. Hiệu quả đồng vốn còn rất

16




thấp nhất là đối với các dự án xố đói giảm nghèo, tốc độ phủ xanh đất trống, đồi núi
trọc cịn chậm…
Trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, chúng ta phải chú trọng
đến việc đầu tư theo chiều rộng. Tuy nhiên việc thực hiện phải thích hợp, có xác
định các ngành, lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, những ngành mũi nhọn, để đạt được
hiệu quả đầu tư cao, đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế đạt được mục tiêu đã định.
II. đầu tư theo chiều sâu
Trong xu thế tồn cầu hố, khoa học và cơng nghệ phát triển nhanh chóng. Việc
phát triển theo chiều sâu với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao nhằm tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm trở thành chiến lược quan trọng ở tất cả các nước.Đặc
biệt đối với một nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay, muốn có sự bứt phá,
rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới thì việc
đầu tư theo chiều sâu càng có ý nghĩa quyết định.
Sau đây là một số thức trạng về việc đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam thời gian
qua.
a) Công nghệ
Trong những năm qua, chúng ta đã tiến hành các hoạt dộng chuyển giao
cơng nghệ với nhiều hình thức khác nhau.Trình độ cơng nghệ tuy đã có sự
chuyển biến nhất định nhưng vẫn cịn trong tình trạng lạc hậu. Thực trạng
cơng nghệ và thiết bị của nước ta có thể chia thành các nhóm như sau:
-


-

-

-

Nhóm 1: bao gồm những thiết bị và cơng nghệ lạc hậu hơn mức trung
bình của thế giới khoảng từ 1 đến 2 thế hệ. Đó là những công nghệ
và thiết bị của ngành lắp ráp điện tử, lắp ráp ơtơ, lắp máy xây dựng.
Nhóm 2: bao gồm các thiết bị và công nghệ lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ
so với mức trung bình của thế giới, đang phổ biến trong các ngành
điện, giấy, đường, chế biến thực phẩm, may…
Nhóm 3 : bao gồm các thiết bị và công nghệ lạc hậu từ 3 đến 5 thế
hệ, chủ yếu là những công nghệ và thiết bị của các nhóm ngành
đường sắt, đường bộ, cơ khí, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng
Nhóm 4: bao gồm các loại thiết bị và công nghệ lạc hậu hơn. Cho tới
năm 1998, tuổi thọ bình quân của tuyệt đại bộ phận các thiết bị, máy
móc của Việt Nam ở mức lạc hậu thuộc nhóm 2, năng suất lao động
chỉ đạt 50% so với thế giới. Ngay ở một trung tâm kinh tế như thành
phố Hồ Chí Minh, nhìn chung trình độ cơng nghệ của các doanh
nghiệp vẫn ở mức trung bình và lạc hậu.
Số liệu điều tra cho thấy 51% số doanh nghiệp có trình độ trung bình,
35% lạc hậu và chỉ có 14% là ở trên mức tiên tiến. Tốc độ đổi mới
cơng nghệ bình qn ở các doanh nghiệp khoảng 10-15% một năm,
tức là phải mất từ 7-10 năm mới hoàn thành một chu kỳ đổi mới cơng
nghệ, trong khi cùng thời gian đó cơng nghệ thay đổi từ 2 đến 3 thế
hệ.

17



-

-

Trong q trình thúc đẩy đổi mới cơng nghệ, sự thay đổi công nghệ
chủ yếu trong các ngành dệt, may, điện, điện tử, bưu chính viễn
thơng, giầy da, sứ dân dụng cao cấp, chế biến lương thực thực phẩm.
Nhiều ngành cịn rất hạn chế trong đổi mới cơng nghệ như ngành chế
tạo máy cơng cụ, hố chất. Nhìn chung tình trạng đầu tư cho cơng
nghệ cịn lẻ tẻ, chắp vá, thiếu quy hoạch, chiến lược, thiếu sự gắn bó
giữa phương hướng đổi mới , chuyển giao công nghệ với chiến lược
phát triển cũng như chiến lược cơng nghiệp hố-hiện đại hố.Nếu kéo
dài tình trạng này chúng ta sẽ ngày càng tụt xa hơn và rất nhiều
doanh nghiệp sẽ đứng trước nguy cơ không canh tranh nổi. Theo một
cuộc khảo sát hơn 7000 thiết bị, máy móc và 3 dây chuyền sản xuất
tại 42 nhà máy thuộc các ngành công nghiệp cho thấy: 76% số máy
mới nhập thuộc thế hệ máy 1950-1960, hơn 70% số máy nhập khẩu
đã hết khấu hao, 505 số máy móc, thiết bị là đồ cũ tân trang lại.

2. Nguồn nhân lực:
Tồn cầu hóa là q trình xã hội hóa ngày càng sâu sắc, sự phát triển của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất cùng với những mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố này ở
quy mơ tồn cầu. Q trình tồn cầu hóa đã thúc đẩy cuộc chạy đua phát triển nguồn nhân
lực tại các quốc gia, khu vực trên thế giới về khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động
trong nước và thị trường lao động quốc tế.
Đối với nước ta, phát triển nguồn nhân lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế
khu vực và thế giới, thực hiện các Hiệp định hợp tác kinh tế song phương đang là nhu cầu
hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột

phá, tăng tốc. Lao động trí thức, có trình độ chun mơn được coi là vốn nhân lực đóng vai
trò hàng đầu của sự phát triển kinh tế. Nguồn nhân lực nước ta hiện nay
/>III. Đánh giá chung về các nhân tố ảnh hưởng:
1. Ưu điểm:
- Các nhân tố góp phần vào giúp các doanh nghiệp và chính phủ có thể đưa ra các quyết sách hợp lý
cho việc đầu tư, đồng thời đưa ra được những biện pháp phòng tránh cũng như khắc phục nếu quyết
định đầu tư xảy ra sai sót và khi kế hoạch khơng đi theo đúng lộ trình vạch ra trước đó.
2. Nhược điểm:
- Các nhân tố trên mang tính đơn thuần dự báo, vì kinh tế ln biến động khơng ngừng từng ngày
từng giờ nên trường hợp xảy ra 1 dự báo sai là điều tất yếu, khi đó việc chi đầu tư gặp rất nhiều khó
khăn, chưa kể việc đầu tư sai dẫn đến thua lỗ.
Chương 3 :Một số giải pháp phát huy và hạn chế

I. Định hướng đầu tư và phát huy hiệu quả chi tiêu Đầu tư
Định hướng đầu tư để chi tiêu đầu tư hiệu quả trên hết phải phối hợp linh hoạt giữa
đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu vì:
- Đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng không tách rời nhau, đan xen và bổ sung
lẫn nhau trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư phát triển của doanh nghiệp.

18


Đầu tư theo chiều rộng sẽ tạo ra cơ sở nền tảng để tiến hành đầu tư chiều sâu. Đến
lượt mình thì đầu tư chiều sâu lại thúc đẩy hoạt động đầu tư chiều rộng. Hai hoạt động
này không thể tách rời nhau được.
+ Nếu khơng có hoạt động đầu tư chiều rộng tiến hành trước để tạo ra cơ sở vật
chất cũng như nền tảng ban đầu cho doanh nghiệp thì khơng thể nào có được hoạt
động đầu tư chiều sâu.
+ Nếu chỉ tiến hành hoạt động đầu tư chiều rộng thì lượng sản phẩm sản xuất ra
quá lớn mà khơng có sự thay đổi để đáp ứng tốt hơn nữa u cầu của khách hàng thì

sẽ khó tiêu thụ sản phẩm, gây ứ đọng vốn.
Đầu tư theo chiều rộng giúp doanh nghiệp duy trì năng lực kinh doanh, giữ được uy
tín và thị phần của mình: thay thế máy móc, thiết bị đã quá cũ, tu sửa, cải tạo nhà
xưởng, mở rộng hoạt động sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường như xây dựng
thêm nhà máy mới, mua thêm dây chuyền sản xuất... với trình độ công nghệ như cũ.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng lưu ý đầu tư theo chiều sâu để tăng tính cạnh tranh
cho sản phẩm của mình, như đổi mới cơng nghệ, đổi mới cơ chế quản lý, hay nâng cao
trình độ tay nghề cho cơng nhân... Để từ đó tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm.
Không ngừng bổ sung và hoàn thiện cho nhau nhưng hai hoạt động này cũng có tác
động kiềm chế lẫn nhau. Khơng phải lúc nào đầu tư theo chiều rộng cũng có tác dụng
là động lực thúc đẩy đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng khơng hợp lý, tràn
lan thì lại hạn chế hiệu quả của hoạt động đầu tư theo chiều sâu của doanh nghiệp.
+ Nếu đầu tư theo chiều rộng tạo ra một cơ sở vật chất không phù hợp và đồng
bộ như nhà xưởng không đúng quy cách, hay dây chuyền máy móc nhập lúc đầu quá
lạc hậu hoặc quá tiên tiến, sự chênh lệch về trình độ công nghệ quá lớn giữa các bộ
phận sản xuất… sẽ dẫn đến tình trạng làm đầu tư chiều sâu khơng phát huy được hiệu
quả, gây lãng phí, thất thốt.
+ Ngược lại, đầu tư theo chiều sâu không hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp
khơng có đủ điều kiện để tiếp tục đầu tư theo chiều rộng mở rộng sản xuất.
Tóm lại, đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu có mối quan hệ vơ cùng mật
thiết. Hoạt động này góp phần làm tăng hiệu quả của hoạt động kia và ngược lại.
Đồng thời, sự kém hiệu quả của hoạt động này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động kia.
Do đó, để thực hiện đầu tư có hiệu quả thì doanh nghiệp cần xem xét đầy đủ, nghiên
cứu kỹ lưỡng để phối kết hợp một cách hợp lý hai hình thức đầu tư này, tạo nên sức
cạnh tranh và chỗ đứng vững chắc trên thị trường.

19



- Đầu tư theo chiều sâu là chiến lược lâu dài của doanh nghiệp, giúp rút ngắn
khoảng cách cho 1 số nước tiến tới đầu tư theo chiều rộng.
Đối với một nền kinh tế, việc đầu tư theo chiều rộng không thể kéo dài quá lâu. Bất kỳ
quốc gia nào cũng không thể tăng trưởng mãi theo chiều rộng bằng cách tăng vô hạn
vốn đầu tư, đất đai, lao động, tài ngun vì các nguồn này đều có giới hạn.
Do đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi vốn lớn và thời gian đầu tư kéo dài, do đó gây trở
ngại cho các nước thiếu vốn. Bên cạnh đó đầu tư theo chiều sâu có khối lượng vốn
đầu tư khơng lớn và có thể thực hiện dễ dàng nhanh chóng hơn so với đầu tư theo
chiều rộng.
Bên cạnh đó nếu tiếp tục phát triển theo chiều rộng, thiếu chiều sâu thì nền kinh tế sẽ
có nguy cơ phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn vốn vật chất và các yếu tố bên ngồi.
Đối với một doanh nghiệp, việc mở rộng quy mơ sản xuất với trình độ cơng nghệ như
cũ chỉ có thể đến một giới hạn nhất định. Doanh nghiệp nếu không đầu tư theo chiều
sâu để nâng cao năng lực cơng nghệ cũng như chất lượng sản phẩm thì sẽ nhanh
chóng tụt hậu sản phẩm khơng thể tiêu thụ được dẫn đến không thể tồn tại được là
điều tất nhiên.
Đầu tư theo chiều sâu có thể nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư bỏ ra theo hướng gia
tăng tỷ trọng đóng góp của yếu tố cơng nghệ - một yếu tố khơng có giới hạn như
những yếu tố khác và tạo ra một nền tảng bền vững cho sự phát triển lâu dài của
doanh nghiệp.
Có thể nói, đầu tư chiều sâu là một chiến lược lâu dài và quan trọng, có ý nghĩa quyết
định đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
II. Giải pháp phát huy chi tiêu đầu tư
1. Cần tiếp tục ưu tiên nâng cao hiệu suất đầu tư, cải thiện việc xác định ưu tiên,
lựa chọn và quản lý dự án
Áp dụng cơ chế lựa chọn dự án chặt chẽ hơn, cải thiện công tác chuẩn bị và lập dự
tốn vốn đầu tư dự án, khơng ký kết hợp đồng nếu chưa có nguồn lực đảm bảo trong
trung hạn, cải thiện cách thức ghi chép và theo dõi hợp đồng. Áp dụng các cơ chế lựa
chọn và quyết định dự án chặt chẽ sẽ góp phần giảm tình trạng đầu tư dàn trải cho quá

nhiều dự án. Cơ sở dữ liệu về dự án đầu tư và hệ thống theo dõi tập trung được xây
dựng sẽ cải thiện công tác báo cáo đầu tư công được chất lượng và kịp thời.
2. Cần chú trọng hơn đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống điều hòa ngân sách

20


Nghiên cứu áp dụng cơ chế phân chia nguồn thu đối với một số sắc thuế gián thu lớn
như thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt cơng bằng và minh bạch hơn, nhằm
khuyến khích địa phương phát triển kinh tế đồng đều hơn đối với chi tiêu đầu tư
công .Hiện nay các loại thuế này được phân chia ở địa phương có cơ sở sản xuất,
trong khi về thực chất là thuế hàng hóa do người tiêu dùng (ở nhiều địa phương khác)
nộp. Theo kinh nghiệm quốc tế, một số nước tập trung các nguồn thu này và phân chia
cho các địa phương dựa trên công thức theo tiêu chí dân số, GDP và/hoặc mức tiêu
dùng theo đầu người của địa phương.
Nghiên cứu từng bước thay đổi cơ chế phân bổ ngân sách hiện hành để tạo động lực
tốt hơn cho các địa phương chi tiêu ngân sách với hiệu suất cao hơn. Theo đó, cần kết
hợp giữa phân bổ ngân sách theo đầu dân với các tiêu thức khác, gắn với kết quả chi
tiêu hơn như: số học sinh tốt nghiệp, số người bệnh được chữa trị, khối lượng dịch vụ
công được cung cấp.
3. Đối với đầu tư cơng, cần tăng cường mức độ tồn diện và minh bạch của ngân
sách
Trong thời gian qua, Việt Nam đã tăng cường đáng kể tính minh bạch và trách nhiệm
giải trình ngân sách. Từ chỗ ngân sách được coi là “bí mật” Nhà nước, đến nay thơng
tin được công khai với mức độ tương đương với các quốc gia khác có thu nhập ngang
và cao hơn Việt Nam. Tuy nhiên, độ tin cậy, khả năng chia sẻ và tính hữu ích của dữ
liệu vẫn cần được tiếp tục cải thiện. Theo đó cần tăng cường tính minh bạch và phù
hợp với thơng lệ quốc tế trong cách trình bày và báo cáo NSNN, làm nền tảng cho
việc ra quyết định chính sách kịp thời, đánh giá hiệu quả hoạt động dịch vụ cơng và

chính sách thu, chi tiêu cơng, nâng cao trách nhiệm giải trình và hội nhập quốc tế.
Nâng cao hiệu suất chi tiêu cũng đòi hỏi phải có các biện pháp minh bạch, cơng bằng
và hiệu quả trong lĩnh vực đấu thầu mua sắm và quản lý dự án. Hiện đã có những nỗ
lực lớn về cải cách đấu thầu mua sắm trong khu vực công, nhưng hầu hết các thành
tựu đạt được đến nay chủ yếu nhằm hình thành khung pháp lý. Cơng tác triển khai vẫn
là một thách thức. Chỉ định thầu vẫn là hình thức chi phối mặc dù đấu thầu cạnh tranh
đã chứng minh được lợi ích của nó. Những biện pháp chính trong lĩnh vực đấu thầu
mua sắm bao gồm tăng cường cạnh tranh và minh bạch trong quá trình đấu thầu, đảm
bảo cơ chế xử lý khiếu nại độc lập và hướng dẫn xử lý tranh chấp trong thực hiện hợp
đồng (trên cơ sở Luật Đấu thầu năm 2015.
4. Một số giải pháp khác
- Đối với chi tiêu đầu tư cần tăng cường cơ chế quản lý hiệu quả hoạt động và giải
trình trách nhiệm. Chính sách tăng cường tự chủ và xã hội hóa nằm trong một lộ trình
cải cách tham vọng có tiềm năng đem lại nhiều lợi ích cho người dân, nhưng q trình
triển khai cịn nhiều thách thức. Trong thời gian tới, cần:

21


(1) Đảm bảo về sự tương xứng giữa tăng phí, giá dịch vụ với tăng chất lượng dịch vụ
(2) Xây dựng được một cách có hệ thống các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cho từng
loại hình dịch vụ
(3) Minh bạch hóa các khoản thu từ tất cả các nguồn và các khoản chi tiêu, trách
nhiệm giải trình về thu phí, giá dịch vụ và gắn thu phí, giá với chất lượng dịch vụ
(4) Xây dựng và tăng cường kiểm tốn nội bộ và cải thiện liên tục cơng tác quản lý.
Ngoài ra cần tăng cường giám sát và kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước.
Trong thời gian tới, KTNN cần tiếp tục tăng độ phủ và chất lượng kiểm tốn hàng
năm, thơng qua:
(1) Chú trọng hơn đến việc tăng cường phương pháp và năng lực kiểm toán kết quả
hoạt động;

(2) Hài hịa các chuẩn mực kiểm tốn của KTNN với chuẩn mực quốc tế (ISSAI);
(3) Đánh giá đầy đủ về nhu cầu lực lượng lao động dựa trên năng lực, bao gồm cả
phân tích về nhiệm vụ dự kiến (số lượng và loại hình kiểm tốn), cũng như năng lực
và số lượng cán bộ yêu cầu ở mỗi cấp, làm căn cứ cho công tác tuyển dụng, đào tạo
cán bộ và khả năng thuê ngoài/ bổ sung nguồn lực từ các cơng ty kiểm tốn tư nhân
nếu cần.
- Cải thiện hệ thống thơng tin quản lý. Chính phủ hay doanh nghiệp đều cần có tính
chính xác, kịp thời và minh bạch về các thông tin báo cáo về ngân sách. Tuy nhiên,
khả năng tiếp cận cơ sở dữ liệu trên tồn quốc hiện vẫn cịn hạn chế, chủ yếu chỉ trong
hệ thống cơ quan tài chính và kho bạc, sự kết nối với các cơ sở dữ liệu tập trung của
quốc gia cũng như các bộ và địa phương còn chậm, chưa hỗ trợ các bộ ngành, địa
phương cải thiện về chất lượng phân tích và giám sát về tình hình thực hiện, hiệu quả
và hiệu suất của các chính sách chi tiêu và dự án đầu tư, đặc biệt trong bối cảnh phân
cấp cao hiện nay. Do vậy, cần:
(1) Tăng cường các hệ thống thông tin quản lý ngân sách, tài sản, công nợ trên cơ sở
một nền tảng và chuẩn mực chung, đảm bảo khả năng báo cáo tổng hợp, đáp ứng nhu
cầu quản lý của Chính phủ, giám sát của Quốc hội, cũng như chia sẻ với doanh nghiệp
và người dân;
(2) Tạo điều kiện cho các bộ ngành, địa phương truy cập đầy đủ, trực tiếp, thuận lợi,
và thường xuyên vào cơ sở dữ liệu chi tiêu cơng có được từ hệ thống.

22


23



×