Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Quy trình sản xuất giống tôm sú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.74 KB, 43 trang )

MỤC LỤC
Lời nói đầu:
Sơ lược về lòch sử phát triển của nghề nuôi tôm:
Chương I: Một số đặc điểm sinh học cơ bản của tôm sú:
Chương II: Một số yêu cầu kỹ thuật chọn vò trí, thiết kế và xây dựng trại sản xuất giống:
Chương III: Một số biện pháp xử lý nước phục vụ cho trại tôm giống:
Chương IV: Kỹ thuật nuôi vỗ tôm bố mẹ cho đẻ:
Chương V: Kỹ thuật nuôi tảo làm thức ăn cho ấu trùng tôm:
Chương VI: Kỹ thuật sử dụng trứng Artemia làm thức ăn cho ấu trùng tôm:
Chương VII: Kỹ thuật nuôi ấu trùng:
Chương VIII: Quản lí bệnh trong trại tôm giống:
Chương IX: Đánh giá chất lượng giống tôm sú:
Chương X: Quy trình thực hành kỹ thuật sản xuất tôm sú giống:
Chương XI: Các loại thức ăn – hóa chất, thuốc kháng sinh thường dùng trong sản xuất tôm
giống:
LỜI MỞ ĐẦU
Để đáp ứng nhu cầu của các trại sản xuất tôm giống trong cả nước.Trung tâm Nghiên Cứu
Nuôi Trồng Thủy Sản – Đại Học Thủy Sản mở lớp đào tạo kỹ thuật viên kỹ thuật sản xuất
giống tôm sú (Penaeus monodon).
Đối tượng đào tạo là các học viên có trình độ văn hóa phổ thông, đã và sẽ tham gia các
trại sản xuất tôm giống.
Tài liệu này tóm tắt những kiến thức cơ bản ban đầu giúp cho các học viên có điều kiện
để tiến hành tốt việc thực hành.
Phần đặc điểm sinh học giúp các học viên hiểu biết về sinh học về mùa sinh sản tôm mẹ
và ấu trùng tôm.
Phần nuôi tảo, Artemia sẽ giúp học viên nắm vững một số đặc điểm sinh học của các đối
tượng được sử dụng để làm thức ăn tươi sống cho ấu trùng tôm và phương pháp nuôi sinh khối
trong các trại sản xuất tôm giống.
Phần nuôi vỗ tôm bố mẹ giúp học viên hiểu được cơ chế phát dục, các điều kiện cần
thiết cho quá trình nuôi vỗ tôm bố mẹ, cho đẻ.
Phần chăm sóc ương ấu trùng nuôi tôm giúp học viên hiểu được yêu cầu của ấu trùng ở


từng giai đoạn và phương pháp ương nuôi chúng.
Phần quản lý môi trường và phòng trừ dòch bệnh giúp học viên nhận biết và xử lý một số
hiện tượng môi trường bất thường và phòng trò một số bệnh cho ấu trùng trong quá trình sản
xuất.
Phần qui trình thực hành giúp học viên nắm thực tế một chu trình sản xuất giống tôm sú.
Phần thức ăn, hóa chất và thuốc thưòng dùng trong trại sản xuất giống giúp học viên biết
cách sử dụng, bảo quản các loại trên và sử dụng chúng cho có hiệu quả nhất.
1
Do trình độ và phương tiện lớp đào tạo chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến phê bình đóng góp của Q vò.
SƠ LƯC VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGHỀ NUÔI TÔM
I) THẾ GIỚI.
Nghề nuôi tôm thế giới đã trải qua nhiều thế kỷ song nghề nuôi tôm hiện đại mới thực sự
bắt đầu vào những năm 1935-1942. Người có công đầu tiên trong lónh vực sản xuất nhân tạo
này là tiến só người Nhật Motosaka – Fujinaga (Hudinaga). Năm 1963 trong một hội nghò khoa
học Mêhicô về sinh học và nuôi tôm, ông đã công bố công trình nghiên cứu và sản xuất giống
nhân tạo loài P.japonicus (tôm he Nhật Bản). Trong những thí nghiệm ban đầu do thiếu hiểu
biết về dinh dưỡng ấu trùng tôm nên phần lớn ấu trùng chỉ ở giai đoạn Zoae và dưới 10%
chuyển sang Mysis.
Đến năm 1942 với sự khám phá ra loài tảo khuê Skeletonema costatum và Chaetoceros
sp. Là thức ăn tốt ở giai đoạn Zoae nên nâng được tỷ lệ sống của ấu trùng lên 30%.
Năm 1946 Fujinaga đã tìm ra ấu trùng Nauplius của Artemia là thức ăn tốt cho giai đoạn
Mysis, nhưng đến năm 1956 ông mới bắt đầu thí nghiệm và đạt được nhiều kết quả và từ đây
đến năm 1964 quy trình sản xuất giống và ương nuôi ấu trùng tôm P.japonicus mới được hoàn
chỉnh.
Từ quy trình này nó được phổ biến khắp thế giới, làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu
sinh sản nhân tạo sau này.
Cũng vào thời gian 1963 Harry Cook (Mỹ) cùng sự cộng tác của Fujinaga để cho đẻ và
ương ấu trùng thành công trên đối tượng P.ortecus. Trên cơ sở này quy trình bể nhỏ được hình
thành ở Mỹ sau đó nhân rộng ra nhiều quốc gia khác có cải tiến hơn, như Philipin, Đài Loan,

Thái Lan
Cũng từ đây trên thế giới đã sản xuất thành công với nhiều đối tượng tôm he khác, gần 20
loài thuộc giống Penaeus và 7 loài thuộc giống Metapenaeus.
Ngày nay trên thế giới việc sản xuất tôm nhân tạo đã phát triển đến quy mô hiện đại và
tồn tại nhiều quy trình khác nhau thể hiện tính phong phú, đa dạng phù hợp với điều kiện tự
nhiên, tình hình nguồn lợi khu vực. Sự phát triển không ngừng của nghề nuôi tôm và điều
kiện trang thiết bò của từng đòa phương, khu vực, quốc gia riêng biệt làm sản lượng tôm giống
thu được từ sinh sản nhân tạo ở các nước không ngừng tăng lên, hàng năm cung cấp một số
lượng giống lớn cho người nuôi tôm thòt. Nhưng tại hội thảo quốc tế về tổ chức nuôi tôm tại
Nakisia tháng 6-1990 cho rằng “nghề nuôi tôm (chủ yếu là tôm sú) tuy đã phát triển rộng
khắp nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của con người”.
II)VIỆT NAM
Ở Việt Nam nuôi tôm là nghề truyền thống có từ lâu đời nhưng thực chất của nó là
nuôi nước lợ, trong đó có nuôi tôm với hình thức nuôi quảng canh cổ truyền và bán thâm
canh, con giống tự nhiên. Còn nuôi thâm canh và công nghiệp có quy mô thì chỉ mới phát
triển khoảng 6-7 năm gần đây, khi mà sản xuất tôm bột đang đạt đến số lượng thương phẩm.
Theo tổng kết của Hội thảo khoa học về nuôi tôm lần thứ nhất vào năm 1987 ở nước
ta: Từ năm 1971 trạm nghiên cứu nuôi trồng thủy sản nước lợ (Viện nghiên cứu) và trường Đại
2
học Thủy Sản đã cho đẻ tôm he P.merguiensis (tôm bạc, tôm thẻ) và tôm Metapenaeus ensis
(tôm rảo, tôm đất) tại Quý Kim - Bãi Cháy. Nhưng ấu trùng chỉ phát triển đến giai đoạn Zoae
ít con chuyển đến giai đoạn Mysis thì cũng chết. Đến năm 1974 với sự giúp đỡ của chuyên
gia Nhật Bản Macno Kasumi Trạm đã cho sản xuất 65.000 Postlarvae P.oriensis ở các bể
10m
3
; 1,5 triệu Postlarvae P.merguiensis ở bể 200m
3
theo kiểu Nhật.
Cùng với sự nghiên cứu cho tôm đẻ, trạm đã thành công trong nghiên cứu nuôi luân
trùng Brachionus làm thức ăn cho ấu trùng tôm. Sự thành công của nghiên cứu gây thức ăn

cho ấu trùng tôm là một nguyên nhân trực tiếp đưa đến kết quả cho đẻ thành công trong các
năm 1974-1977.
Năm 1981-1982 được sự giúp đỡ của chuyên gia F.A.O và viện nghiên cứu nuôi trồng
thủy sản nước lợ Hải Phòng, trại giống Quy Nhơn bước đầu cho đẻ và ương nuôi thành công
đối tượng P.merguiensis (tôm bạc, tôm thẻ) và sau đó là P.monodon (tôm sú).
Năm 1983, Trại thực nghiệm Cửa Bé-Trường Đại Học Thủy Sản Nha Trang đã cho đẻ
thành công với P.merguiensis và sau đó là P.monodon.
Năm 1984, Viện Hải Dương Học cũng cho đẻ thành công với P.merguiensis và
P.monodon.
Tính đến đầu năm 1986 cả nước đã sản xuất được 3,3 triệu Postlarvae của các loại tôm
he và đã xây dựng các trại có quy mô lớn như Quý Kim - Bãi Cháy, Quy Nhơn, Vũng Tàu.
Những năm gần đây phong trào sản xuất giống đã phát triển và lan rộng, đặc biệt một
số tỉnh ven biển miền Trung và miền Tây như Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Đònh, Khánh
Hòa, Ninh Thuận, Cà Mau, Bạc Liêu
Năm 1986 cả nước có khoảng 28 trại sản xuất 20 triệu Postlarvae/ năm đến năm 1989
có khoảng 49 trại sản xuất 200 triệu Postlarvae/ năm. Năm 1991 có 120 trại sản xuất đựơc
khoảng 300 triệu post/ năm. Đến năm 1994 cả nước có khoảng 680 trại sản xuất được khoảng
2 tỷ Post/ năm. Chỉ tính riêng Khánh Hòa có tới 461 trại tôm giống với 18.047 m
3
nước ương
ấu trùng năm 1994 đã sản xuất được 1,2 tỷ và đến năm 1995 đã có tới 600 trại tôm sản xuất
ra được 1,4 tỷ con tôm bột trong đó chủ yếu là tôm sú.
Diện tích nuôi tôm biển ở Việt Nam khá lớn khoảng 340.000 ha, tuy nhiên diện tích
mới sử dụng để nuôi tôm là 260.000 ha với sản lượng 52.000 tấn/ năm. Mặc dầu một số nơi
đã áp dụng hình thức nuôi bán thâm canh, thâm canh năng suất quá cao. Song phần lớn là
khai thác tự nhiên, quầy chà giữ tôm hay đào kênh đắp bờ. Nuôi theo hình thức cổ truyền là
quảng canh với con giống tự nhiên năng suất khoảng 200kg/ha/năm. Nhưng đến nay do có
điều kiện thuận lợn và sự hiểu biết thêm về kiến thức do đó người nuôi tôm đã chuyển sang
nuôi thâm canh là chủ yếu bởi nó cho lợi nhuận rất cao.
Với nhu cầu con giống cấp thiết, và lợi nhuận trong sản xuất rất cao. Hiện nay số lượng

trại được xây dựng rất lớn và nhiều với quy trình ngày một hoàn thiện hơn, nhưng vẫn không
đáp ứng đủ nhu cầu về giống cho con người nuôi. Vì vậy để nghề nuôi tôm phát triển mạnh
việc nghiên cứu học tập nâng cao kỹ thuật hoàn thiện hơn quy trình sản xuất để nâng cao
năng suất, chất lượng tôm giống. Việc cần thiết là phải đầu tư nhiều hơn nữa vào nghề nuôi
tôm.
3
Chương I: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CƠ BẢN CỦA TÔM SÚ(Penaeus monodon)
MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM SÚ
(Penaeus monodon, Fabricius 1789)
1. Vò trí phân loại:
Tôm sú/ tôm giang/ tôm cỏ thuộc lớp giáp xác bộ mười chân, họ tôm he. Tôm sú có tên
khoa học là Penaeus monodon, Fabricius 1789.
2.Hình thái:
Trên cơ thể tôm sú có vệt sọc màu xám đậm, hơi xanh hoặc nâu đỏ, tôm có chủy dài
hơi cong, có 7-8 gai trên chùy (Hình 1 và 2).
3. Phân bố:
Tôm sú phân bố chủ yếu ở các vùng ven biển Châu Á Thái Bình Dương, từ phía nam
Nhật Bản xuống phía Bắc Úc Châu, từ phía đông Phi châu sang Indonêsia. Ở Việt Nam tôm sú
có nhiều ở các vùng biển miền Trung.
4. Tính ăn của tôm sú:
Tôm sú thiên về ăn các động vật nhỏ như giun, nhuyễn thể, cá, côn trùng, trong ruột
tôm còn tìm thấy các mảnh thực vật, bùn cát.
Ấu trùng Zoae ăn thực vật phù du. Ấu trùng Mysis chủ yếu ăn động vật phù du. Hậu ấu
trùng Postlarvae ăn tạp thiên về động vật.
5. Sinh trưởng của tôm sú:
Khi ương trong ao sau 25-30 ngày, tôm sú đạt kích cỡ 2-3 cm. Khi nuôi trong ao, sau 4
tháng, tôm sú có thể đạt kích cỡ trung bình 25 - 40g/ con.
Tôm sú lột xác nhiều lần và có tính chu kỳ để lớn.
6. Cơ quan sinh sản của tôm sú:
*Tôm đực:

Cơ quan sinh dục phụ của tôm đực là Petasma (Hình 3): Petasma nằm ở giữa gốc đôi
chân bò thứ nhất, Petasma giúp cho việc đưa các bó tinh từ tôm đực cho tôm cái.
Cơ quan sinh dục của tôm đực bao gồm: 1 đôi tuyến tinh phân nhiều thùy, một đôi ống
dẫn tinh và một đôi túi tinh. Túi tinh đổ ra gốc chân bò thứ 5 (hình 3).
*Tôm cái:
Cơ quan sinh dục phụ của tôm cái là Thelycum. Thelycum nằm ở gốc đôi chân bò thứ
5. Thelycum gồm một tấm giữa và hai tấm bên (hình 3). Thelycum là nơi nhận và lưu trữ các
bó tinh trùng.
Cơ quan sinh dục của tôm cái là một đôi buồng trứng phân thùy và ống dẫn trứng. Ống
dẫn trứng mở ra ở gốc chân bò thứ 3 (hình 3).
7. Các giai đoạn phát triển buồng trứng:
Buồng trứng tôm sú phát triển qua 5 giai đoạn (hình 4).
- Giai đoạn I: Giai đoạn chưa phát triển
Buồng trứng nhỏ, mảnh, trong suốt, không thể nhìn thấy qua lớp vỏ.
- Giai đoạn II: Giai đoạn đang phát triển
Buồng trứng bắt đầu lớn lên trải rộng ra trong xoang giáp đầu ngực, chạy dọc phía trên
ruột, tới đuôi. Buồng trứng hơi có màu xanh ô liu.
4
- Giai đoạn III: Giai đoạn gần chín
Buồng trứng dày, trải rộng ra phía trước, dễ nhìn qua lớp vỏ.
- Giai đoạn IV: Giai đoạn chín
Buồng trứng có màu xanh ô liu đậm lấp đầy khoảng trống phía trên và trong khoang
đầu ngực và phân thùy rõ ở đốt bụng 1.
- Giai đoạn V: Giai đoạn vừa đẻ xong
Buồng trứng nhão, có màu xám. Nhiều người cho rằng giai đoạn này tương tự giai đoạn
I.
8. Hiện tượng giao vó ở tôm sú:
Khi tôm cái vừa lột xác, tôm đực thường giao vó, đưa tinh cho con cái: Các bó tinh, với
sự giúp đỡ của Thelycum. Hiện tượng giao vó được mô tả trong hình 5.
9. Mùa đẻ của tôm sú:

Tôm sú ở vùng biển miền Trung, mùa đẻ rộ của tôm sú từ tháng 2 đến tháng 5 và từ
tháng 7 đến tháng 9. Ở các thủy vực miền Nam, mùa đẻ của tôm sú có thay đổi chút ít, tùy
thuộc vào điều kiện thời tiết trong hàng năm.
10. Khả năng đẻ trứng của tôm sú:
Tôm sú tự nhiên ở vùng biển Khánh Hòa có thể từ 300.000 đến 1.000.000 trứng.
* Đẻ trứng: tôm thường đẻ trứng ở các bãi xa bờ, nứơc sâu, nước trong sạch, có độ mặn
cao, trên 30‰

.
11. Qúa trình phát triển của tôm sú:
* Phát triển phôi
Trứng tôm sú hình cầu, màu vàng xanh, đường kính trung bình 0,30 mm. Thời gian để
phôi phát triển qua giai đoạn 2 tế bào, giai đoạn phát triển của phôi nang và thời điểm xuất
hiện Nauplius trong trứng là 0,5: 1,5: 8 giờ tính từ sau khi đẻ. (hình 6).
* Ấu trùng
Ấu trùng tôm lột xác nhiều lần và phát triển qua các giai đoạn Nauplius, Zoae, Mysis
(hình 7).
Giai đoạn Nauplius:
Ấu trùng Nauplius (N) biến thái qua giai đoạn phụ. Nauplius mới nở có hình quả lê, sau
biến đổi dần và trở nên dài ra. (Hình 7) Nauplius sống phù du, trôi nổi ở tầng trên. Đặc điểm
chủ yếu của các giai đoạn Nauplius như sau:
Nauplius 1 (N1): Ấu trùng mới có hình quả lê có chiều dài trung bình 0,33 mm. Công
thức gai đuôi là 1+1.
Nauplius 2 (N2): Ấu trùng có chiều dài trung bình 0,34 mm. Công thức gai đuôi là 1+1.
Trên các gai ở phần phụ có các lông.
Nauplius 3 (N3): Ấu trùng có chiều dài trung bình 0,38 mm. Công thức gai đuôi 3+3.
Cơ thể trở nên thon hơn.
Nauplius 4 (N4): Ấu trùng có chiều dài trung bình 0,42 mm. Cơ thể trở nên dài hơn,
đặc biệt phần đuôi. Công thức gai đuôi 3+3.
Nauplius 5 (N5): Ấu trùng có chiều dài trung bình 0,47 mm. Công thức gai đuôi 5+5

hoặc 5+6.
5
Nauplius 6 (N6): Ấu trùng có chiều dài trung bình 0,54 mm. Phần gáip ngực đã phân
biệt rõ. Công thức gai đuôi 7+7.
Ấu trùng Zoae:
Cơ thể bao gồm 3 phần rõ rệt: Đầu (Carapace), ngực (Thorax) và bụng (Abdomen). Ấu
trùng Zoae sống trôi nổi tầng trên, ăn thực vật phù du. Ba giai đoạn phụ của Zoae được phân
biệt nhờ sự xuất hiện chùy tráng, cuốn mắt kép, uropod, sự phân đốt của phần bụng và sự
phát triển của gai lưng và gai bên các đốt bụng.
Zoae 1 (Z1):
Ấu trùng có chiều dài trung bình là 0,94 mm. Phần ngực có 6 tiết, phần bụng chưa
phân đốt. Đầu tròn, đôi mắt kép, chưa có cuống. Công thức gai đuôi 7+7 (hình 7).
Zoae 2 (Z2):
Ấu trùng có chiều dài trung bình là 1.59 mm. Xuất hiện chủy và 2 hốc mắt ở vùng
trước đầu ngực. Cuống mắt kép phát triển. Bụng phân 6 đốt. Công thức gai đuôi 7+7.
Zoae 3 (Z3):
Ấu trùng có chiều dài trung bình là 2,70 mm. Phần đầu bao trùm lên 6 đốt ngực đầu
tiên. Năm đốt bụng đầu tiên có gai lưng, riêng đốt bụng thứ năm có thêm 2 gai hai bên.
Uropod xuất hiện ở đốt cuối đốt bụng thứ 6. Công thức gai đuôi 8+8.
Ấu trùng Mysis (M):
Cơ thể ấu trùng đã giống dạng tôm trưởng thành hơn so với Zoae. Mysis sống ở tầng
trên. Dựa vào sự xuất hiện và phân đốt của chân bơi, Mysis được phân thành 3 giai đoạn
phụ:
Mysis 1 (M1): Ấu trùng có chiều dài thân trung bình 2,90 mm, chân bơi chưa xuất
hiện, năm đôi chân bò phát triển ở phần ngực.
Mysis 2 (M2): Ấu trùng có chiều dài thân trung bình 3,30 mm, chân bơi xuất hiện ở 5
đôi chân bò đầu tiên và chưa phân đốt.
Mysis 3 (M3): Ấu trùng có chiều dài thân trung bình 4,20 mm, chân bơi phân thành 2
đốt rõ ràng. M3 biến thái thành bán ấu trùng.
* Hậu ấu trùngPost-larvae:

Post-larvae có hình dạng giống như tôm trưởng thành, chân bơi phân thành 3 đốt.
Post-larvae lột xác nhiều lần để trở thành tôm con. Tuổi Post-larvae được tính theo
ngày kể từ ngày biến thành Post-larvae đầu tiên. Post-larvae có đời sống ở đáy.
* Tôm con: Rất giống tôm trưởng thành.
* Tôm trưởng thành: Ở giai đoạn này tôm bắt đầu phát dục mạnh mẽ.
* Tôm thành thục: Tôm có kích thướt lớn hơn so với tôm trưởng thành, hoàn toàn chín
sinh dục, di cư xa bờ, có khi tới vùng biển sâu 160 m để đẻ.
12. Vòng đời của tôm sú:
Theo Motoh (1981), vòng đời của tôm sú được trình bày trong hình 8.
13. Một số yêu cầu sinh thái của tôm sú:
Hình vẽ 8 cho thấy có yêu cầu về độ mặn khác nhau tùy thuộc từng giai đoạn phát
triển, tôm thường phân bố tự nhiên ở các thủy vực có độ mặn 10-30 ‰.
Một số yếu tố môi trường phù hợp đối với tôm sú:
- Độ mặn của nước: 20-30 ‰
6
- Nhiệt độ nước: 25-30
0
C
- pH: 7,5-8,5
- Lượng oxy hòa tan: 3-5 mg/l
Đối với ấu trùng và hậu ấu trùng, các yếu tố môi trường thích hợp là:
- Độ mặn của nước: 30-33 ‰
- Nhiệt độ nước: 29-31
0
C
- pH: 7,5-8,5
- Lượng oxy hòa tan: > 5 mg/l
- NH
4
+

: < 0,1 mg/l
- NH
3
: < 0,1 mg/l
- NO
2
: < 0,1 mg/l
- H
2
S: < 0,1 mg/l
Trong quá trình nuôi, đối với Postlarvae ở các giai đoạn muộn, việc giảm độ mặn sẽ
giúp tôm lớn nhanh.
Chương II: YÊU CẦU KỸ THUẬT CHỌN VỊ TRÍ, THIẾT KẾ & XÂY DỰNG TRẠI SẢN XUẤT
TÔM GIỐNG
1. Vò trí trại:
Lựa chọn vò trí xây dựng trại là một trong những yếu tố quan trọng cho hoạt động của
trại sau này. Để phát huy hết khả năng công suất của trại mang lại hiệu quả cao nhất đòi hỏi
việc lựa chọn vò trí để xây dựng trại phải thỏa măn một số yêu cầu đòi hỏi cơ bản như sau:
1.1 Vò trí và mặt bằng xây dựng:
- Vò trí xây dựng trại có thể nằm ở ven biển, eo, vònh, hải đảo hay trong vùng nội đòa
sao cho đảm bảo được nguồn nước mặn. Mặc khác trại phải nằm trên vùng đất cao có thể
tránh được úng lụt hoặc thủy triều lớn hàng năm.
- Môi trường nước và đất không bò ô nhiễm bởi các chất thải từ công và nông nghiệp
như hóa chất, dầu khí, kim loại nặng, thuốc trừ sâu
1.2 Nguồn nước và chất nước:
1.2.1 Nước mặn:
Nguồn nước mặn là yếu tố quan trọng quyết đònh cho toàn bộ quá trình hoạt động sản
xuất của trại. Do đó nguồn nước mặn cung cấp không bò ô nhiễm, có thể lấy trực tiếp từ biển,
mạch ngầm, nước ót ruộng muối.
Tuy nhiên nguồn nước có nguồn gốc từ biển hay ruộng muối sẽ có chất lượng ổn đònh,

việc xử lý nước có nguồn gốc từ mạch ngầm mặc dù các tiêu chuẩn thủy lý, hóa cũng ổn đònh
nhưng vẫn có một chỉ tiêu các chất vô sinh hòa tan vượt quá ngưỡng cho phép so với yêu cầu
của trại sản xuất. Do đó muốn sử dụng được đòi hỏi phải qua công đoạn xử lý phức tạp hơn,
thể tích các loại bể lắng, cấp phải tăng lên gấp 3 lần so với bình thường, tăng giá thành sản
xuất. Mặc dù vậy khi sử dụng nước ngầm với quy trình xử lý nước tốt sẽ thuận lợi hơn về mặc
sản xuất ổn đònh lâu dài.
7
Vì vậy để lựa chọn được vò trí xây dựng trại sản xuất cần phải qua điều tra, khảo sát,
tốt nhất nguồn nước phải đảm bảo các chỉ tiêu sau:
- Độ mặn của nước: > 28 ‰
- Nhiệt độ nước: 25-31
0
C
- pH: 7,5-8,5
- Kim loại nặng: < 0,01 mg/l
- NH
4
+
-N: < 0,1 mg/l
- NO
2
-N: < 0,01mg/l
- H
2
S: < 0,1 mg/l
1.2.2 Nước ngọt:
Mặc dù không có yếu tố quyết đònh trong sản xuất nhưng có được nguồn nứơc ngọt tốt
sẽ thuận lợi hơn cho vấn đề vệ sinh trại sau mỗi đợt sản xuất, cho sinh hoạt, cho thuần hóa độ
mặn khi cần thiết. Do đó nguồn nước ngọt sử dụng có thể là nước máy, nước giếng, nước
ngầm tốt.

Tiêu chuẩn nước ngọt tốt là tiêu chuẩn nước dùng cho sinh hoạt thông thường
1.3 Một số yêu cầu khác
1.3.1 Nguồn cung cấp ấu trùng (Nauplius).
Để đảm bảo sản xuất được liên tục, vò trí trại giống cần phải chủ động được nguồn
cung cấp ấu trùng. Do đó trại giống phải:
- Gần cơ sở sản xuất, cung cấp ấu trùng.
- Chủ động nuôi tôm vỗ tôm bố mẹ và cho đẻ. Nguồn tôm bố mẹ có thể khai thác tôm
bố mẹ từ tự nhiên mang trứng hoặc không mang trứng, có khả năng nuôi vỗ và cho đẻ được.
1.3.2 Nguồn năng lượng.
Trại giống phải gần nguồn điện lưới để đảm bảo cho hoạt động sản xuất được thuận
lợi, liên tục, chi phí sản xuất thấp. Mặc khác cần có thêm máy phát điện hoặc máy nén chỉ
chạy bằng dầu để chủ động sản xuất phòng khi mất điện.
1.3.3 Giao thông.
Có thể sử dụng thuận tiện các phương tiện giao thông như tàu thủy, xe ô tô nhằm đưa
tôm bố mẹ, ấu trùng đến và vận chuyển tôm giống đi.
2.Thiết kế và xây dựng:
Yêu cầu cho thiết kế xây dựng trại sản xuất giống tùy thuộc vào quy mô, công suất dự
kiến ban đầu cần đạt được để thiết kế cho phù hợp.
Hiện nay có rất nhiều loại thiết kế mô hình trại sản xuất giống cùng với nhiều loại
nguyên vật liệu khác nhau:
- Bể nuôi tôm bố mẹ, bể ương ấu trùng có thể thiết kế theo dạng hình chữ nhật, hình
vuông, hình tròn-đáy nón Với các loại vật liệu khác nhau như Composite, bê tông, gạch, vải
nhựa và thể tích từ 3-50 m
3
.
- Quy mô trại cũng có tổng thể tích thay đổi rất lớn từ 60-1000 m
3
. Tuy vậy qua quá
trình thực tế để dễ dàng đạt hiệu quả cao trong quản lý sản xuất thông thường trại sản xuất
tôm giống được thiết kế theo quy mô gia đình có công suất từ 10-15 triệu PL

15
/ năm. Vì vậy
trong phạm vi tư liệu này chúng tôi chỉ giới thiệu về thiết kế cho 01 đơn nguyên trại sản xuất
tôm giống từ công đoạn nuôi vỗ tôm bố mẹ đến PL
15
có công suất từ 10-15 triệu PL
15
/ năm
8
đang phổ biến rộng rãi được kiểm chứng thực tế có hiệu quả cao trong nhiều năm thực
nghiệm.
2.1 Sơ đồ trại sản xuất tôm giống công suất từ 10-15 triệu PL
15
/năm:
2.2 Công trình xây dựng cơ bản:
- Yêu cầu công trình xây trát kín, chống thấm.
STT Hạng mục Cấu trúc Thể tích ĐVT SL
1 Bể lắng nước Có mái che 30m
3
Bể 02
2 Bể xử lý, cấp nước Có mái che 27m
3
Bể 03
3 Bể nuôi tôm bố mẹ Có mái che 12m
3
Bể 02
4 Bể cho đẻ Có mái che 1,8m
3
Bể 06
5 Bể nuôi tảo Mái che lấy ánh sáng 1,8m

3
Bể 03
6 Bể lọc cát Có mái che 2m
3
Bể 02
7 Bể ương ấu trùng Có mái che 5,5m
3
Bể 12
8 Hồ chứa nước thải Bể ngầm 15m
3
Bể 02
9 Nhà làm việc, Phòng
thí nghiệm, Phòng
máy, Kho
Xây cấp 4
10 Nhà bao che khu vực
sản xuất, tường rào
bảo vệ
Xây cấp 4
2.3. Trang thiết bò chính
- Máy bơm nước mặn Cs 15-20 m
3
/ h, 2-3 m
3
/h. Ống dẫn nước, van các loại.
- Hệ thống khí: Máy thổi khí hoặc nén khí 0,5-1Hp (04 cái), ống dẫn khí, val, đá bọt
các loại.
- Hệ thống điện hoàn chỉnh, dự phòng máy phát điện công suất 3KW/ h.
- Lưới các loại đủ kích cỡ mắc lưới từ 10-20 μm, 125, 220, 300, 500 μm.
- Dụng cụ đo độ mặn, pH, kính hiển vi, nhiệt kế, cân, bình oxy, thau, xô, ca, ly thủy

tinh
- Hóa chất các loại
*Chú thích:
1. Bể lắng (A
1,2
) =(3,7 x 3,7 x 2,2m) =30m
3
2. Bể cấp nước (B
1,2,3
) =(3,7 x 3,6 x 2,0m) =27m
3
3. Bể nuôi vỗ tôm bố mẹ (C
1,2
) =(3,0 x 3,0 x 0,8m) =07m
3
4. Bể cho đẻ (D
1,2,3,4,5,6
) =(1,5 x 1,5 x 0,8m) =1,8m
3
5. Bể lọc cát (E
1,2
) =(1,2 x 1,2 x 1,5m) =02m
3
6. Bể nuôi tảo (F
1,2,3
) =(1,5 x 1,5 x 0,8m) =1,8m
3
7. Bể ương ấu trùng (G
1,2, 12
) =(2,0 x 2,6 x 1,1m) =5,5m

3
8. Hồ thấm (H
1,2
) =(3,2 x 3,2 x 1,5m) =15m
3
9. Phòng máy, kho (J,K)
10. Nhà làm việc, phòng trực (L
1,2
)
9
* Yêu cầu chung:
- Chọn được vò trí thích hợp, nắm bắt được từng hạng mục của công trình tông qua việc
hiểu rõ đặc điểm sinh học của tôm sú.
- Tính toán được tỷ lệ của từng hạng mục của công trình với các loại quy mô công suất
trại sản xuất giống khác nhau.
- Tính toán hiệu quả khả thi của công trình.
Chương III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XỬ LÝ NƯỚC PHỤC VỤ CHO TRẠI TÔM GIỐNG
1. Xử lý các chất cặn bã hữu cơ và khử trùng:
1.1 Thuốc tím (KMnO4).
Thuốc tím có tác dụng loại bỏ các chất hữu cơ và kim loại nặng.
Đối với nguồn nước biển có hàm lượng phù sa nhiều, độ đục cao, có nhiều chất, hàm
lượng kim loại nặng cao. Cần phải loại bỏ chúng trước khi đưa vào xử lý diệt trùng.
Dựa trên các nguyên lý sử dụng thuốc tím theo phương trình (1) và (2) như sau:
(1) 3Fe(HC0
3
)
2
+ KMnO
4
+ 7H

2
O → MnO
2
+ 3Fe(OH)
3
↓+ KHCO
3
+ 5H
2
CO
3
1mg Fe
2+
/ liter ≈ 0,94mg KMnO
4
(2) 3H
2
S + KMnO
4
→ S + MnO + 3H
2
O
1mg H
2
S/ liter ≈ 6,19mg KMnO
4
/ liter
Thông thường lượng thuốc tím cần dùng để xử lý nguồn nước biển từ Vũng Tàu đến Cà
Mau từ 0,5-2 mg/ lít.
Nước biển sau khi dùng thuốc tím để xử lý sẽ có màu tím hồng nhưng nhanh chóng

mất màu và tạo kết tủa. Nếu lượng thuốc tím vừa đủ thì sau 24h thì nước sẽ trong.
1.2 Xử lý nước bằng EDTA
Ngoài ra có thể sử dụng EDTA với nồng độ 5-10 ppm để xử lý nước ngay trong bể nuôi
ấu trùng.
1.3 Khử trùng nước bằng Clorin
Chlorin Ca(OCl)
2
khi hòa tan vào nước sẽ tồn tại dưới dạng Cl
2
.HOCl.OCl.Cl
2
có tác
dụng diệt trùng cao.
Thường Clorin thương mại 70% có nghóa là 1gr Clorin đó có chứa 0,392 g Cl
2
. Sau khi
xử lý Clorin, lượng Cl
2
vẫn còn dư thừa trong nước, lượng Cl
2
dư thừa trong nước cũng sẽ gây
độc đối với tảo và ấu trùng tôm, do vậy trước khi đưa nước vào bể nuôi tôm giống phải loại bỏ
lượng Cl
2
dư thừa bằng Thiosulphat:
Cl
2
+ 2Na
2
CO

3
.H
2
O → Na
2
S
2
O
6
+ NaCl + 10H
2
O
* Cách kiểm tra Cl
2
tự do dư thừa trong nước:
Lấy 10-20 ml nước đã xử lý Chlorin nhỏ 1-2 giọt thuốc thử Orthotolidin 1% nếu nước
xuất hiện màu vàng là còn dư Cl
2
, nếu nước không màu chứng tỏ đã không còn dư Cl
2
.
* Theo kinh nghiệm, sau 24 h xử lý Chlorin, người ta dùng một lượng Thiosulphat tương
đương với lượng Chlorin đã sử dụng để khử lượng Cl
2
dư thừa trong nước.
2. Lọc cơ học:
Nước trong bể lắng đã được loại bỏ chất hữu cơ, khử trùng sẽ được lọc qua bể cát.
10
Thông thường bể lọc cát có thể tích 2m
3

sử dụng 300kg cát có đường kính 0,5-1mm
100 kg đá 1-2.
3. Trình tự các bước xử lý nước trong trại sản xuất tôm giống.
Bước 1: Bơm nước từ biển lên bể lắng.
Bước 2: Xử lý thuốc tím (trong thời gian 24h).
Bước 3: Bơm nứơc từ bể lắng sang bể xử lý.
Bước 4: Xử lý Chlorin trong bể xử lý (trong thời gian 24h).
Bước 5: Bơm nước từ bể lắng sang bể lọc.
Bước 6: Nước từ bể lọc chảy tự động sang các bể nuôi theo yêu cầu.
Chương IV: KỸ THUẬT NUÔI VỖ TÔM BỐ MẸ CHO ĐẺ
1. Giới thiệu:
Phong trào sản xuất tôm giống, nuôi tôm thương phẩm ở Việt Nam đã và đang phát
triển mạnh đòi hỏi nguồn cung cấp tôm bố mẹ lớn. Nhưng việc sử dụng tôm bố mẹ ngoài tự
nhiên bò hạn chế bởi tính mùa vụ và tập tính sinh sản. Mặc khác các bãi tôm đã khai thác
khá triệt để. Bởi vậy vấn đề nghiên cứu tạo nguồn tôm bố mẹ nhân tạo đã được đặt ra từ lâu.
Năm 1943 Panous đã phát hiện ra nuôi tôm thành thục bằng phương pháp cắt mắt. Từ
đó đến nay phương pháp này được hoàn thiện dần và được áp dụng thành công ở nhiều nứơc.
2. Cách tuyển chọn tôm bố mẹ:
Tôm mẹ được thu thập từ biển khơi hoặc trong các ao đầm.
Các tiêu chuẩn chọn tôm bố mẹ.
Trọng lượng: Đối với tôm cái ≥ 100gr, đối với tôm đực ≥ 60gr
Màu sắc tươi sáng, bóng mượt.
Hình dáng ngoài không bò tổn thương.
Bộ phận sinh dục ngoài hoàn chỉnh.
3. Vận chuyển:
- Phương pháp hở:
Tôm được chứa trong thùng từ 20-40 lít, có sục khí và mật độ tương đương 1 con/ 5 lít.
Thời gian vận chuyển quá 8 tiếng phải cho ăn và thay nước.
Nhiệt độ ổn đònh trong suốt quá trình vận chuyển không vượt quá 30
0

C.
- Phương pháp kín:
Tôm chứa trong những túi nhựa (loại túi chuyên dùng 40 x 60 x 60 cm) có chứa oxy.
Thời gian vận chuyển không quá 14 tiếng.
Nhiệt độ ổn đònh trong suốt quá trình vận chuyển không vượt quá 30
0
C.
4. Kỹ thuật nuôi tôm phát dục:
4.1 Xử lý:
Tôm bố mẹ vận chuyển về trại được xử lý trước khi đưa vào bể nuôi để loại trừ mầm
bệnh và tránh lây lan về sau.
Hóa chất thường dùng để xử lý bao gồm trong các loại sau:
Formalin 25-50 ppm
11
Treaflan 0,5-1 ppm
KMnO
4
2-3 ppm
Malachite green 3-5 ppm
Thời gian xử lý thường từ 15-30 phút.
Trong quá trình nuôi vỗ, đònh kỳ 3-4 ngày xử lý tôm 1 lần để loại mầm bệnh bám trên
vỏ.
Khi chọn tôm, chuẩn bò cho đẻ phải được xử lý để tránh gây bệnh cho ấu trùng.
4.2 Cắt mắt:
4.2.1 Nguyên lý:
Ở giáp xác mười chân (Decapoda), tiếp giáp giữa cầu mắt và cuống mắt của chúng có
cơ quan X và tuyến sinus tiết ra MIH (Molt Inhibiting Hocmone) ức chế lột xác và GIH (Gonad
Inhibiting Hocmone) ức chế thành thục sinh dục.
Cơ quan Y nằm ở gốc chân hàm lớn, sản xuất Ecdysone (Hocmone lột xác)
Trong điều kiện bình thường MIH kìm hăm lột xác và GIH kiềm hăm thành thục sinh

dục. Khi những yếu tố sinh lý và môi trường có lợi cho việc tái sản xuất, hoạt độ MIH và GIH
giảm do đó sự lột xác hoặc thành thục sinh dục xảy ra dưới tác động của Ecdysone và GSH
(Gonad Stymulating). GSH được phóng thích từ hạch ngực và hạch năo của hệ thần kinh.
Như vậy khi cắt mắt (phá hủy cơ quan X và tuyến Sinus) sẽ làm giảm lượng MIH và
GIH. Khi đó tôm sẽ nhanh chóng thành thục hoặc lột xác.
4.2.2 Các phương pháp cắt mắt:
- Dùng dao lam xẻ đầu mắt.
- Dùng chỉ buộc
- Dùng kẹp nóng kẹp cuống mắt
- Dùng kéo cắt
* Chú ý: Chỉ cắt mắt khi tôm khỏe mạnh, không bệnh. Tất cả các thao tác phải nhanh
chóng, chính xác. Trong quá trình cắt mắt tôm được để trong nước.(xem hình số 1 và số 2)
4.3 Quản lý chăm sóc:
4.3.1 Điều kiện môi trường nuôi tôm bố mẹ:
Độ mặn :28-34‰
Nhiệt độ :28-30
0
C Oxy hòa tan 4-7 mg/ lít
pH :7,6-8,2 Giữ môi trường ổn đònh
4.3.2 Mật độ và tỷ lệ đực/ cái: Bố trí mật độ phù hợp tránh ô nhiễm, bệnh tật
cũng như tiết kiệm được chi phí chăm sóc và tỷ lệ giao vỹ đạt cao.
Bể nuôi vỗ bố trí mật độ 3-5 con cái/ m
2
. Bể giao vỹ 2-4 con/ m
2
(tỷ lệ đực/ cái là 1:1).
Thường xuyên kiểm tra chọn những cá thể cái đang ở giai đoạn tiền lột xác chuyển
sang bể giao vỹ.
4.3.3 Thức ăn và chế độ cho ăn: Thức ăn là yếu tố rất quan trọng nhằm nâng
cao tỷ lệ thành thục, chất lượng buồng trứng và chất lượng ấu trùng.

Phối hợp nhiều loại thức ăn trong khẩu phần để đảm bảo dinh dưỡng cũng như phù
hợp tính ăn của từng cá thể.
Loại thức ăn: Thức ăn tổng hợp, mực ống, hàu, nghêu, trai, giun biển, ốc càng và thòt
bò.
12
Ngày cho ăn 3 lần: 8 giờ sáng, 7 h chiều và 23 giờ đêm.
Lượng cho ăn hàng ngày bằng 10-15% tổng trọng lượng đàn tôm mẹ trong thời kỳ phát
dục. Bằng 3-5% tổng trọng lượng cơ thể tôm mẹ trong giai đoạn lột xác.
4.3.4 Thay nước: Hàng ngày thay nước 2 lần, mỗi lần 100%, đảm bảo nguồn
nứơc nuôi được sạch. Cân bằng độ mặn và nhiệt độ giữa nước cấp và nước trong bể nuôi.
4.3.5 Cho đẻ: Kiểm tra tôm mẹ hàng ngày vào 7h tối, nếu phát hiện tôm mang
trứng ở giai đoạn III, IV thì chuyển ngay tôm mẹ sang bể cho đẻ.
Thời gian đẻ của cá thể đầu và cuối trong cùng 1 bể không quá 2 tiếng.
Mật độ trứng khoảng 1.000.000 trứng/ m
3
.
Tôm thường đẻ vào ban đêm, khoảng 8 giờ tối – 3h sáng. Tôm sú chuẩn bò đẻ, màu sắc
sậm lại sau đó bơi lên mặt nước nghiên mình và đẻ trứng. Khi tôm đẻ 3 đôi chân sau chụm lại
duỗi về sau, cơ cử động nhòp nhàng giúp quá trình đẻ trứng và phóng tinh. Các đôi chân bơi
cử động mạnh giúp tôm mẹ bơi về phía trứơc cho trứng thụ tinh và phân tán ra. Quá trình đẻ
có thể liên tục hoặc gián đoạn.(Xem hình số 4: Các giai đoạn phát triển của buồng trứng ở
phần sinh học)
* Đánh giá chất lượng đẻ:
Tốt Xấu
Mùi tanh ít Mùi tanh
Bọt ít và nhỏ Bọt nhiều và có nhớt
Trứng rời Trứng vón
Có màng thụ tinh Ít màng thụ tinh
Sau 30 phút có phân cắt 2 tế bào Sau 30 phút có đa số trứng không phân cắt, trứng vỡ
nhiều.

4.3.6 Thu ấu trùng (Naupius)
Tại bể ấp, sau khi đẻ từ 13-15h trứng nở thành ấu trùng. Khi chuyển sang ấu trùng 3-4,
tắt sục khí, treo đèn, ấu trùng hướng quan nổi lên mặt nước. Ta dùng vợt thu ấu trùng vớt ra
thùng, sau khi thu xong ấu trùng tiến hành đònh lượng, rửa sạch và chuyển đến trại ương nuôi.
Tiêu chuẩn ấu trùng có chất lượng tốt:
Hướng quan mạnh
Có phụ bộ đủ và thẳng
Không dò dạng
Màu sắc xám sáng
Chương V: KỸ THUẬT NUÔI TẢO LÀM THỨC ĂN CHO ẤU TRÙNG TÔM
1. Giới thiệu chung:
Tảo khuê là một trong những loài tảo phù hợp về kích thướt và chất lượng dinh dưỡng
cho ấu trùng tôm sú. Tảo có tốc độ tăng trưởng nhanh, có thể nuôi trong điều kiện nhân tạo,
trong các trại sản xuất giống. Qua thực tế sản xuất và nghiên cứu người ta đã tìm ra được hai
loài tảo Silic (Baciliariophyta) để nuôi sinh khối và làm thức ăn cho ấu trùng tôm.
Chaetoceros sp và Skeletonema costatum là hai loài tảo dạng chuỗi, kích thướt tế bào
từ 4-6 μm. Tế bào bề mặt có dạng hình chữ nhật hoặc vuông, ở góc tế bào có gai hoặc lông
13
ngắn, chính các gai và lông này làm cho các tế bào tảo kết hợp nhau thành chuỗi
(Skeletonema 20-50 tb/ chuỗi. Chaetoceros 10-20 tb/ chuỗi). Tảo khuê là một loài tảo phù du
có trong các thủy vực nước lợ, nước mặn có nồng độ muối từ 0-50‰ (Tối ưu là 17-25‰). Các
loài tảo trên rộng nhiệt thích hợp trong khoảng nhiệt độ từ 25-30
0
C. Cường độ ánh sáng đặc
biệt quan trọng ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của tảo trong điều kiện
nuôi, thời gian chiếu sáng trên 12 giờ thì sau khoảng 20-24h tảo sinh trưởng đạt mật độ
500.000-600.000 tb/ ml. Trong điều kiện môi trường thuận lợi, chất dinh dưỡng đầy đủ, sự
phát triển của các loài Chaetoceros và Skeletonema làm cho nước có màu vàng xanh đến màu
nâu. Tảo nuôi sinh khối phát triển qua 4 pha.
1.1 Pha chậm:

Đôi khi kéo dài do sự thích hợp với môi trường sinh dưỡng mới của tảo kém và có tế
bào có thể chết.
1.2 Pha tăng trưởng:
Đặc trưng bởi sự phân chia tế bào liên tục theo công thức X x 2
n
(X là số tế bào tham
gia sinh sản X ≥ 1), n số lần sinh sản (n ≥ 1).
1.3 Pha dừng:
Đặc trưng bởi sự cân bằng giữa sự sinh tăng trưởng của tế bào mới và tế bào bò chết đi.
1.4 Pha chết:
Đây là kết quả của sự triệt tiêu hết chất dinh dưỡng đến mức không thể duy trì sự phát
triển hoặc cũng có thể do chất thải trong quá trình sống.
Tảo khuê có thể sinh sản theo 2 cách:
- Phân chia tế bào.
- Hình thành bào tử.
2. Kỹ thuật nuôi cấy:
2.1 Trang thiết bò:
- Vợt các loại (vợt thu, vợt lọc)
- Lưới thu.
- Dây thu Ф 21 hoặc 27.
- Dây khí, đá bọt.
- Bể gây giữ giống (bình thủy tinh, hoặc hình tam giác).
- Bể sinh khối (từ 1-3m
3
/ bể).
- Hóa chất các loại.
2.2 Môi trường nuôi cấy:
Dùng môi trường Walne để giữ và nuôi sinh khối tảo khuê
Các dung dòch theo thứ tự sau:
* Dung dòch 1 (tăng trưởng)

KNO
3
(hoặc NaNO
3
) 116 gr (100gr)
EDTA 45,0 gr
H
3
B0
3
33,6 gr
NaH
2
P0
4
.2H
2
O 20 gr
FeCl
3
1,3 gr
14
MnCl
2
.4H
2
O 0,36 gr
* Dung dòch 2 (khoáng vi lượng) 1ml
ZnCl
2

2,1 gr
CoCl
2
.6H
2
O 2.0 gr
Hòa tan trong 100 ml nước ngọt
* Dung dòch 3 (vitamin)
B
1
200 mg
B
12
100 mg
Hòa tan trong 100 ml nước ngọt
* Dung dòch 4 (dung dòch tăng thêm)
KNO
3
100 gr
Hòa tan trong 1 lít nước ngọt
* Dung dòch 5 (môi trường Silicat)
Na
2
SiO
3
.5H
2
O 20 gr (hoặc 67ml)
Hòa tan trong 1 lít nước ngọt
Các môi trường trên khi dùng trong cuôi cấy thì dùng mỗi loại loại dung dòch (1,3,4,5)

theo tỷ lệ 1/ 1000 (1 ml dung dòch mỗi loại cho 1 lít nước). Khi dùng để nuôi sinh khối thì bón
các dung dòch trên theo tỷ lệ 1/ 10.000.
2.3 Nguồn nước:
Nguồn nước giữ và nuôi sinh khối tảo cần phải được xử lý (xem phần kỹ thuật xử lý
nước).
2.4 Kỹ thuật thu giống, thuần giống, giữ giống:
2.4.1 Kỹ thuật thu giống:
Giống được vớt ở những vùng ven bờ biển vào lúc triều cao, dùng lưới phiêu sinh có
mắt lưới kích thứơt 15-18 μm, vớt theo hình số 8. Để có loài cần nuôi ta phải thu mẫu nhiều
lần. Dưới kính hiển vi ta kiểm tra được tảo Chaetoceros sp và Skeletonema có dạng chuỗi.
2.4.2 Thuần giống:
Tảo vớt từ tự nhiên thường lẫn tạp nhiều mùn bã hữu cơ và động vật phù du. Do vậy ta
phải phân lập tảo bằng lưới có kích thướt mắc lưới lớn hơn lượt qua nhiều lần và cuối cùng
chỉ giữ lại phần nước có tảo trong đó.
Có thể thực hiện việc thuần giống tảo theo 2 phương pháp sau:
- Dùng ưu thế môi trường để thuần giống một cách tương đối. Nghóa là trong điều kiện
môi trường dinh dưỡng đưa vào phù hợp với sinh học phát triển của 2 giống tảo này sẽ giúp
chúng ưu tiên phát triển hơn. Nên trải qua một thời gian, 2 giống tảo này chiếm ưu thế để
phát triển quần thể, chúng sẽ trở nên thuần chủng.
- Dùng phương pháp phân lập để tách 2 giống tảo này ra để nuôi riêng với môi trường
dinh dưỡng thích hợp. Sau nhiều lần phân lập, chúng sẽ trở nên thuần chủng.
- Khi tảo giống đã thuần chủng thì được nuôi giữ và đưa vào nuôi sinh khối.
2.4.3 Giữ giống:
Để chủ động cung cấp tảo cho sản xuất, chúng ta cần phải có phương pháp lưu giữ tảo.
Việc lưu giữ tảo được thực hiện trong phòng nuôi cấy tảo hoặc ở khu phân bố riêng cho vùng
nuôi tảo hoặc trong trại sản xuất tôm giống. Giống được giữ trong bình thủy tinh hay bình tam
15
giác và được nuôi trong môi trường Walne ở nồng độ muối 25-30‰. Thời gian nuôi tùy thuộc
vào mật độ tảo đưa vào ban đầu và sự tăng trưởng của tảo nuôi. Thông thường thời gian nuôi
giữ tảo từ 16-24h. Cách lưu giữ này có thể bảo đảm chất lượng tảo giống trước khi đưa vào

nuôi sinh khối.
2.5 Kỹ thuật nuôi sinh khối:
Trong các trại sản xuất tôm giống, người ta thường bắt đầu nuôi sinh khối tảo khi ấu
trùng Nauplius (N) ở giai đoạn N
3
hoặc N
4
. Việc nuôi sinh khối được tiến hành theo các bước
sau:
- Vệ sinh kỹ bể nuôi bằng xà phòng sau đó rửa lại bằng nước biển đã xử lý.
- Bơm nước biển đã xử lý vào bể.
- Cấp khí (24h/ 24h).
- Cấp tảo giống (giống đang lưu giữ) đang ở pha tăng trưởng với mật độ 50.000-70.000
tb/ ml.
- Cấp các muối dinh dưỡng (bón phân) theo thứ tự các dung dòch đã pha sẵn (chú ý
dung dòch 5 thường kết tủa với nước mặn, vì vậy đối với dung dòch này ta phải pha thêm nước
ngọt). Vào những ngày trời râm có thể tăng dung dòch 5 lên gấp nhiều lần.
- Khi tảo trong bể nuôi sinh khối đạt mật độ khoảng 500.000-600.000 tb/ ml hoặc bằng
mắt thường ta thấy tảo có màu nâu đậm là có thể tiến hành thu sinh khối.
* Cách thu: dùng dây nhựa Ф 21 hoặc lớn hơn tùy theo dòng chảy, một đầu được buộc
túi lưới thu (kích thướt mắt lưới từ 15-20 μm) đầu kia cho vào bể nước hút nhẹ, nước tảo sẽ
chảy ra liên tục trong khoảng thời gian 15-30 phút, các tế bào tảo được giữ lại, sau đó tháo túi
ra và chuyển sinh khối tảo này vào xô, cứ thế lại tiếp tục thu cho đến khi nước trong bể nuôi
tảo còn 1/4 – 1/5 thì có thể kết thúc.
Chương VI: KỸ THUẬT SỬ DỤNG TRỨNG ARTEMIA LÀM THỨC ĂN CHO ẤU TRÙNG
TÔM
PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRỨNG BÀO XÁC ARTEMIA LÀM THỨC ĂN CHO ẤU TRÙNG
TÔM
1. Giơí thiệu:
16

1.1 Vài đặc điểm sinh học
Artemia là tên khoa học của một loài giáp xác có tính rộng muối (từ vài phần ngàn đến
250‰). Chúng thường sống ở biển tự nhiên hoặc nuôi trong ruộng muối.
Artemia ăn lọc không có tính chọn lựa, thức ăn chủ yếu là các hạt lơ lững trong nước
và các sinh vật cỡ như tảo và vi khuẩn.
Với chu kỳ biến thái ngắn, sau 10-15 ngày chúng có thể đạt giai đoạn trưởng thành và
tham gia sinh sản, tùy theo điều kiện môi trường Artemia có sự sinh trưởng và sinh sản khác
nhau, có dòng đơn tính, dòng lưỡng tính, đẻ con hay đẻ trứng. Khi nồng độ muối cao hơn
70‰ và dinh dưỡng kém, nhiệt độ cao thì Artemia có xu thế đẻ trứng bào xác (hình 1).
Ấu trùng Artemia vừa mới đẻ có ngay kích thướt 400-500 μm, con trưởng thành dài
không quá 20 mm. Trong quá trình phát triển Artemia trải qua 15 lần lột xác, sau mỗi lần thay
đổi cả về hình dáng và kích thướt. Artemia có thể sinh sản lần đầu sau 8 ngày phát triển,
thường là sau 12-15 ngày. Mỗi lần đẻ khoảng 300 trứng hoặc con, với chy kỳ đẻ 4 ngày/ lần.
Trong điều kiện tốt Artemia sống được vài tháng (6 tháng).
1.2 Giá trò sử dụng:
Ấu trùng Artemia là thức ăn quan trọng trong sản xuất tôm giống, vì:
- Thích hợp:
Ấu trùng Artemia di chuyển chậm, kích cỡ nhỏ phù hợp với ấu trùng tôm.
- Dinh dưỡng cao:
Ấu trùng Artemia chứa nhiều đạm, axít béo không no và dễ tiêu hóa.
- Thuận tiện:
Ấu trùng Artemia dễ sử dụng, dễ bảo quản và bán sẵn trên thò trường.
1.3 Nguồn cung cấp:
Hàng năm trên thò thường thế giới có khoảng 2.000 tấn trứng bào xác khô được bán ra
quanh năm với nhiều nguồn khác nhau như: Mỹ, Tây Ban Nha, Brazin, Canada, Trung Quốc,
Thái Lan và Việt Nam (Vónh Châu, Phan Thiết). Tùy theo từng nguồn và từng đợt sản xuất mẫu
mã, chất lượng và giá cả khác nhau.
2. Trứng bào xác:
2.1 Cấu trúc: (hình 2)
Trứng bào xác có cấu trúc làm 2 phần: vỏ trứng và phần phôi. Vỏ trứng gồm 3 lớp: lớp

chlorin, lớp màng ngoại bì và lớp màng phôi.
Lớp chlorin cứng, màu nâu nhạc đến nâu đen. Lớp này có vai trò bảo vệ phôi khỏi bò
tác động cơ học và phóng xạ. Khi bò oxy hóa bởi thuốc tẩy, lớp này sẽ bò phá hủy.
Lớp màng ngoại bì có tác dụng phôi không bò các phân tử lớn hơn CO
2
xâm nhập vào.
Màng phôi là một lớp trong suốt cánh biệt với phôi bởi màng nội bì. Màng này sẽ biến
thành màng nở trong quá trình trứng nở .
Phôi là một phôi vò đồng nhất. Phôi sẽ ngừng trao đổi chất khi hàm lượng nước trong
trứng dưới 10%. Khi hàm lượng nước trên 10% phôi sẽ bắt đầu hoạt động và trong điều kiện
có Oxy sẽ làm phá vỡ hệ Enzym chuyên biệt trong trứng bào xác.
2.2 Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường lên sự trao đổi chất:
17
- Nhiệt độ: Trứng bào xác (chứa nước 2-5‰) có khả năng chòu đựng biên độ nhiệt độ
rộng từ -21 đến 60
0
C trong thời gian ngắn có thể chòu được 60-90
0
C. Đối với trứng đã trương
nước, khả năng chòu nhiệt có khác nhau:
* Dưới -18
0
C và trên +40
0
C: Trứng ngừng trao đổi chất.
* Trong phạm vi -18
0
C và trên +40
0
C: Khả năng sống không bò ảnh hưởng.

* Từ 4 đến 32
0
C: Hoạt động trao đổi chất xảy ra.
- Nồng độ muối: Khi độ muối cao phôi sẽ tiêu thụ sẽ tiêu thụ nhiều hơn nguồn năng
lượng dự trữ của phôi.
- Ánh sáng: Là yếu tố rất cần thiết cho phôi hoạt động.
2.3 Lựa chọn loại Artemia: (bảng 1)
Trên thò trường hiện nay có rất nhiều loại Artemia với chất lượng khác biệt. Để chọn
được loại tốt, ta có thể dựa vào các yếu tố sau:
* Kích thướt: Tùy theo nguồn gốc mà ấu trùng Artemia có kích thướt thay đổi từ 0,43-
0,52 mm. Ấu trùng ở giai đoạn Mysis chỉ có thể tiêu hóa được những con mồi nhỏ hơn 0,45
mm. Để biết được kích thướt ta dùng kính hiển vi đo ít nhất 30 con rồi lấy giá trò trung bình.
* Điểm dinh dưỡng quan trọng của Artemia. Có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và tỷ lệ
sống của ấu trùng tôm. Hàm lượng (EPA) này theo đổi theo dòng Artemia và điều kiện sống
nơi sản xuất.
* Tỉ lệ nở: là số lượng ấu trùng có thể nở ra từ 100 trứng bào xác.
* Tốc độ nở: là thời gian từ lúc trứng nở cho đến khi ấu trùng nở ra hoàn toàn.
* Hiệu suất nở: Là số lượng ấu trùng nở ra từ 1gr trứng bào xác khô.
3. Phương pháp sử dụng trứng bào xác:
3.1 Sự phát triển của trứng bào xác (hình 3):
Sau khi ấp trứng từ 1-2 giờ, trứng sẽ hút nước. Sau 12-15 giờ vỏ trứng vỡ ra, xuất hiện
ấu trùng nằm trong màng nở. Khi màng nở vỡ ra, ấu trùng sẽ bơi tự do trong nước.
3.2 Các thông số môi trường về điều kiện nở trứng Artemia:
* Nhiệt độ: Thích hợp là 25-30
0
C. Dưới 25
0
C trứng chậm nở. Trên 35
0
C trứng ngừng

trao đổi chất. Tốt nhất nên giữ nhiệt độ ổn đònh trong thời gian cho nở.
* Độ mặn: Độ mặn 5-35‰ sẽ cho tỷ lệ nở và hiệu suất cao hơn. Ấu trùng cũng chứa
nhiều năng lượng hơn.
* pH: Thích hợp 8-8,5. Nếu bổ sung thêm NaHCO
3
vào môi trường để đảm bảo pH
không dưới 8.
* Oxy: Hàm lượng Oxy ≥ 2 mg/ l. Do đó nên điều chỉnh tốc độ sục khí cho thích hợp.
* Mật độ ấp trứng: Mật độ ấp trứng không nên quá 5 gr/ l.
* Ánh sáng: Cường độ chiếu sáng trên mặt nước 2.000 lux thì thích hợp nhất.
3.3 Phương pháp ấp trứng (hình 4)
- Dụng cụ:
- Bể ấp có hình chóp trong suốt hoặc mờ. Thể tích 200-1000 lít.
- Hệ thống sục khí.
- Đèn chiếu sáng.
- Sàng lưới 125μm
18
- Xô, chậu, ca,
- Hóa chất Clorin (thuốc tẩy).
- Tính lượng bào xác cần thiết.
Số lượng AT tôm x Số lượng Artemia cần cho 1 AT tôm
-Khối lượng cần ấp =
Số AT Artemia đã nở/ 1 gr trứng bào xác khô
- Khử trùng vỏ trứng: Khử trùng là biện pháp quan trọng làm giảm mầm bệnh (nấm, vi
khuẩn) cho ấu trùng tôm, làm tăng tỷ lệ nở của trứng bào xác.
Các bước tiến hành như sau:
* Ngâm lượng trứng cần ấp trong nước ngọt khoảng 1 giờ để trứng hút nước.
* Ngâm lượng trứng cần ấp vào dung dòch thuốc tẩy (Chlorine), nồng độ 200 ppm từ
20-30 phút.
* Rửa sạch nhiều lần bằng nước ngọt hoặc bằng nước biển đã lọc (trứng được chứa

trong lưới 125μ).
* Trứng bào xác đã xử lý cho vào dung dòch Thiosuphat 0,05% trong 2-5 phút, rồi rửa
lại bằng nước sạch.
* Trứng sau khi khử trùng đã sẵn sàng để cho nở.
- Cho trứng nở:
* Sục khí mạnh liên tục từ đáy bể.
* Giữ nhiệt độ từ 25-28
0
C.
* Chiếu sáng liên tục bằng đèn neon.
* Thời gian ấp trứng từ 24-36 giờ.
* 1 giờ trước khi thu hoạch, cho vào bể 50 ppm formol.
- Thu hoạch
* Khi ấu trùng Artemia đã nở hoàn toàn (sau khi ấp 24-36 giờ). Che phần trên bể,
ngưng sục khí, dùng đèn chiếu sáng phần chóp bể khoảng 3-5 phút.
* Mở van ở đáy bể cho nước và ấu trùng chảy từ từ vào vợt (lưới 125μ).
* Đóng van trước khi nước cạn.
* Rửa sạnh ấu trùng Artemia thu được trong vợt bằng nước biển đã lọc.
- Sử dụng:
* Cho ăn trực tiếp: Có thể sử dụng ấu trùng Artemia ngay hoặc dùng dần trước 24 giờ
sau khi trứng nở, tùy theo sự phù hợp kích cỡ từng giai đoạn ấu trùng tôm. Vì vậy sau 24 giờ
ấu trùng Artemia sẽ tiêu hết khoảng 25-30% năng lượng dự trữ, làm giảm chất lượng dinh
dưỡng.
* Trữ lạnh: Có thể trữ lạnh ấu trùng Artemia ở nhiệt độ lạnh (10
0
C) để dùng dần với
mật độ 8.000.000 con/lít và có sục khí nhẹ.
Bảng 1: Chiều dài, trọng lượng khô và năng lượng của ấu trùng Artemia mới nở.
Nguồn trứng Chiều dài
(mm)

Trọng lượng
khô (g)
Năng lượng (10
-
3
Toule)
San Francisco Bay, CA-USA 428 1,63 366
Macau, Brazil 447 1,74 392
19
Great Salt Lake, UT-USA 486 2,42 541
Shark Bay, Australia 458 2,47 576
Chalin lake, Canada 475 2,04 448
Tnagu, Bohai Bay, PR China 515 3,09 681
Aibi Lake, PR China 515 4,55 -
Yunchen, PR China 460 2,03 -
Lake Urmia 497 - -
Vinh Chau, Viet Nam 395 - -
Chương VII: KỸ THUẬT NUÔI ẤU TRÙNG
1. Yêu cầu chung:
Trong quy trình sản xuất tôm sú giống, kỹ thuật quản lý chăm sóc bể ương ấu trùng
đóng vai trò đặt biệt quan trọng, có ý nghóa thành công hay thất bại trong sản xuất.Vì vậy đòi
hỏi kỹ thuật viên phải nắm đầy đủ và vận dụng tốt những yêu cầu kỹ thuật của quy trình đề
ra như:
- Nắm được những đặc điểm sinh học cơ bản của tôm sú cần thiết cho sản xuất giống
(về hình thái các giai đoạn ấu trùng, điều kiện môi trường sống, tính ăn trong từng giai
đọan, ), kỹ thuật xử lý nguồn nước, kỹ thuật sản xuất thức ăn tự nhiên (tảo), kỹ thuật sản xuất
thức ăn chế biến, kỹ thuật sử dụng thức ăn tươi sống (Artemia) để thực hiện quy trình một
cách chặt chẽ và đồng bộ.
- Thành thạo các thao tác kỹ thuật trong quá trình sản xuất như: Xử lý, thuần hóa và
thả Nauplius, cách cho ăn, chăm sóc, vệ sinh thay nước, kiểm tra tình trạng sức khỏe và sự

phát triển của ấu trùng, vận hành sản xuất kòp thời điều chỉnh một số vấn đề thường xảy ra
trong quá trình nuôi.
2. Các bước tiến hành:
2.1 Chuẩn bò nước thả Nauplius (Xem phần xử lý nước)
Trại sản xuất giống đã được chuẩn bò sẵn sàng cho sản xuất, nước được cấp trước khi
thả ấu trùng 1 ngày, khoảng 60% dung tích bể nuôi, sau đó cấp thêm từ từ ở giai đoạn Zoea 2
và Zoae 3.
2.2 Chuẩn bò thức ăn:
Thức ăn nuôi ấu trùng gồm nhiều loại phù hợp với từng giai đọan ấu trùng khác như tảo
tươi, tảo khô, thức ăn tổng hợp, thức ăn chế biến, Artemia.
Hiện nay trên thò trường có nhiều loại thức ăn tổng hợp dạng vi nang được dùng bổ
sung thay thế một phần hay toàn bộ thức ăn tự nhiên (AP
0
Frippak, N
0
, Lansy – tảo khô) cho
kết quả tốt. Đây là một thuận lợi cho người sản xuất điều chỉnh khi thiếu thức ăn tự nhiên.
Tuy nhiên nên kết hợp thức ăn tự nhiên và thức ăn tổng hợp khô để nuôi ấu trùng thì hiệu
quả kinh tế sẽ cao hơn, chất lượng con giống tốt hơn.
Tảo tươi là thành phần thức ăn bắt buột trong giai đoạn Zoae 1 – Zoae 3 và được duy
trì cho đến cuối giai đoạn Mysis.
Cách cho ăn, lượng cho ăn được trình bày trong bảng 1.
2.3 Mật độ nuôi ấu trùng:
20
Mật độ nuôi ấu trùng đựơc tính cho toàn bộ 100% dung dòch bể nuôi. Mật độ ấu trùng
thưa sẽ dư thừa thức ăn, mật độ nuôi qúa dày sẽ khó chăm sóc, chất lượng tôm giống kém.
Nên nuôi với mật độ từ 90 – 130 ấu trùng/ lít.
2.4 Thuần hóa, xử lý và thả ấu trùng (Nauplius)
Ấu trùng trước khi đưa vào thả nuôi cần được cân bằng các yếu tố môi trường (nhiệt
độ, nồng độ muối, ) giữa nơi sản xuất ấu trùng và trại ương. Việc cân bằng nhiệt độ được

thực hiện bằng cánh ngâm cả bao đựng cả Nauplius vào bể đến khi nhiệt độ nước trong bao
và trong bể bằng nhau. Nếu môi trường chênh lệch không lớn lắm có thể thả Nauplius vào
thùng, chậu, duy trì sục khí lấy nước trong bể nuôi thêm từ từ cho đến khi nhiệt độ cân bằng
nhau.
- Xử lý ấu trùng: Nên xử lý ấu trùng trước khi thả vào bể nuôi để ngăn ngừa mầm
bệnh. Cách xử lý tắm ấu trùng trong nước có chứa formalin nồng độ 200 - 300 ppm (200 –
300 ml formalin/ 1m
3
nước) trong thời gian 30 giây hoặc tắm bằng Iodphor nồng độ 0,1 ppm
trong 15 phút (lưu ý cách tính toán, pha nồng độ các hóa chất xử lý). Trong quá trình thuần
hóa, xử lý cần thay đổi toàn bộ nước đựng ấu trùng từ trại tôm mẹ, mọi thao tác phải được
thực hiện nhanh gọn, nhẹ nhàng, hạn chế tối đa việc đưa ấu trùng ra khỏi môi trường nước.
2.5 Quản lý bể nuôi ấu trùng:
Đòi hỏi kỹ thuật viên vận dụng lòch chăm sóc chính xác và đầu tư thời gian thích đáng
để kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động sống và phát triển của ấu trùng, thực hiện nghiêm
ngặt các bước chăm sóc và có những điều chỉnh khi cần thiết.
2.5.1 Chăm sóc Nauplius:
Giai đoạn ấu trùng Naupllius dinh dưỡng noãn hoàn nên chưa phải cung cấp thức ăn.
Việc chăm sóc chỉ cần cấp sục khí nhẹ, đều, không để ấu trùng chìm dưới đáy bể và thường
xuyên quan sát khi thấy xuất hiện ấu trùng Zoae thì bắt đầu cho ăn.
2.5.2 Chăm sóc ấu trùng Zoae:
Ở giai đoạn này, ấu trùng có tính ăn lọc liên tục, vì vậy mật độ tảo trong bể nuôi phải
được duy trì thường xuyên (theo bảng 1), mỗi ngày cho ăn 4-5 lần tảo tươi. Tảo được cho ăn từ
giai đoạn Zoae 1 tăng dần ở cuối Zoae 1 đến Zoae 2, tăng tối đa ở Zoae 3 và giảm dần ở giai
đoạn Mysis.
Trong giai đoạn Zoae 2, Zoae 3 có thể bổ sung thêm tảo khô, thức ăn tổng hợp 2-3 lần/
ngày. Chú ý thường xuyên theo dõi trong bể ương lượng thức ăn thừa hay thiếu để điều chỉnh.
Phải xi-phông ngay mỗi khi thấy phân của ấu trùng đã vón cục chìm xuống đáy tránh gây ô
nhiễm nước nuôi trong giai đoạn này ta chỉ cần thêm nước.
2.5.3 Chăm sóc ấu trùng Mysis:

Ấu trùng giai đoạn này có tập tính bắt mồi chủ động, thức ăn là động vật phù du. Hiện
nay thức ăn sử dụng để nuôi ấu trùng Mysis chủ yếu là ấu trùng Artemia, đây là thức ăn thích
hợp nhất và thuận tiện cho người sử dụng. Thức ăn tổng hợp được sử dụng xen kẽ với
Artemia. Lượng cho ăn được trình bày trong bảng 1.
Mỗi ngày cho ăn khoảng 6 – 8 lần (chia đều thời gian và lượng thức ăn trong 2 ngày,
chú ý tính toán lượng thức ăn sao cho vừa đủ, nếu dư thừa sẽ gây lãng phí và dễ gây ô nhiễm
môi trường nuôi (ấu trùng Artemia nếu dư thừa chúng sẽ tiếp tục phát triển và trở trành sinh
vật cạnh tranh với ấu trùng tôm về thức ăn và dưỡng khí). Ấu trùng Mysis có nhu cầu dưỡng
21
khí cao và có tập tính bơi lội dạng treo nên dễ bò lắng đáy. Do đó phải theo dõi kỹ càng để
kòp thời có những điều chỉnh giúp ấu trùng bơi lội đều trong nước (như dùng vòi sục khí hoặc
khuấy đảo nước để nâng ấu trùng lên). Phân của ấu trùng Mysis rời rạc, lơ lửng trong nước
nên phải thay nước để giữ ổn đònh môi trường.
Thời gian biến thái của ấu trùng Mysis tùy thuộc vào nhiệt độ nước thông thường sau 4-
6 ngày ở nhiệt độ 27-29
0
C thì chuyển qua giai đoạn Postlarvae.
2.5.4 Chăm sóc hậu ấu trùng (Postlarvae):
Kỹ thuật chăm sóc Postlarvae tương tự như chăm sóc Mysis. Postlarvae thường bám vào
thành, đáy bể và có khả năng bơi lội chủ động ngược với dòng sục khí để bắt mồi, chúng có
thể ăn thòt lẫn nhau khi đói. Vì vậy trong giai đoạn này phải cho tôm ăn thật đầy đủ, thức ăn
chủ yếu là Artemia và thức ăn tổng hợp. Cũng có thể dùng thêm thức ăn chế biến như: thòt
hàu, tôm bóc vỏ, trứng xay nhuyễn, hấp chín, chà qua lưới, lọc lấy phần hợp cỡ để cho ăn.
Sau mỗi lần cho ăn phải kiểm tra, xiphong đáy thức ăn dư thừa trong bể.
* Lưu ý: Trong giai đoạn này tôm sử dụng nhiều thức ăn nên lượng nước thay hàng
ngày cũng phải nhiều hơn. Khi Postlarvae đạt 13-15 ngày tuổi thì có thể thu hoạch, chuyển
qua ao ương thành tôm giống hoặc thả trực tiếp nuôi thành tôm thòt.
2.6 Quản lý chất lượng nước:
Trong quá trình sống và phát triển ấu trùng sẽ thải phân và vỏ (do lột xác) làm dơ bẩn
nước nuôi. Vì vậy muốn giữ môi trường nuôi, hàng ngày phải tiến hành vệ sinh, thay nước.

* Cách vệ sinh thay nước:
- Xiphon đáy: Giảm nhẹ sục khí, dùng ống xiphong hút ra toàn bộ đáy bể, loại bỏ hết
cặn bỏ, thức ăn dư thừa, vỏ và xác ấu trùng chết ra ngoài qua vợt hoặc ống hút hermet thu ấu
trùng còn sống thả lại lại bể nuôi.
- Thay nước: Dùng dụng cụ thay nước hút nước ra ngoài đến mức cần thay, sau đó cấp
nước mới có cùng điều kiện thủy lý, hóa vào (để tránh sự thay đổi đột ngột về môi trường).
Bảng 2: Kích thướt mắt lưới sử dụng cho dụng cụ thay nước và lượng nước cần thêm,
hoặc thay trong các giai đoạn ấu trùng.
Giai đoạn
Kích thướt mắt lưới
(μ)
Lượng nước cần thêm
Lượng nước cần
thêm(%)
Lượng nước thay
(%)
Zoae 1
Zoae 2 20
Zoae 3 20
Mysis 1 đến PL
5
500 20-30
PL
6
-PL
15
700 40-60
2.7 Phòng bệnh:
Trong quá trình nuôi ấu trùng, do mật độ ấu trùng cao, môi trường là nước nên bệnh tật
rất dễ lây lan. Do đó những biện pháp kỹ thuật đúng đắn xuyên suốt toàn bộ quy trình từ

khâu xử lý nước, chuẩn bò bể, chuẩn bò thức ăn, quá trình vận hành chăm sóc được xem là
22
phương pháp phòng ngừa bệnh hữu hiệu nhất. Bởi vậy kiểm soát được các yếu tố môi trường
và thức ăn phù hợp sẽ giúp ấu trùng phát triển nhanh, khỏe mạnh, có khả năng kháng bệnh.
Ngoài ra trong quá trình sản xuất, có thể sử dụng một số loại thuốc, hóa chất để hạn chế sự
phát triển một số loại nấm, vi khuẩn gây bệnh như:
- Treflan, Malachite green có tác dụng phòng nấm.
- Oxytetracylin có tác dụng phòng trò vi khuẩn.
- Liều lượng và cách dùng thuốc (xem bảng 1).
2.8 Thu hoạch và vận chuyển Postlarvae

Rút cạn nước trong bể nuôi, dùng vợt vớt Postlarvae ra thùng, chậu. Tiến hành đònh
lượng Postlarvae bằng cách đong mẫu hoặc đếm so màu mẫu để tính số lượng Postlarvae xuất
cho người ương, nuôi đồng thời tính được kết quả sản xuất và tỷ lệ sống cho từng đợt sản xuất
giống, hạch toán lỗ, lãi.
2.8.2 Vận chuyển Postlarvae:
Đóng tôm vào túi nilong có chứa nước và oxy. Mật độ tôm trong bao tùy thuộc vào
quãng đường và thời gian vận chuyển.
300-500 PL/ lít (với thời gian vận chuyển trên 10 giờ)
500-800 PL/ lít (với thời gian vận chuyển dưới 10 giờ)
Giữ nhiệt độ trong bao khoảng 22-24
0
C có tác dụng làm tôm ít hoạt động, giảm lượng
tiêu hao oxy, không ăn thòt lẫn nhau do vậy giảm được sự hao hụt trong quá trình vận chuyển.
Chương VIII: QUẢN LÝ BỆNH TRONG TRẠI TÔM GIỐNG
Trong sản xuất giống phòng bệnh là phương pháp quan trọng, mang lại hiệu quả kinh
tế cao, còn chữa bệnh là phương cách đối phó cuối cùng, ít hiệu quả.
1. Phòng bệnh:
Phòng bệnh cho tôm phải hiểu theo hai nghóa sau:
- Quản lý chất lượng nước nuôi tốt, nuôi tôm bố mẹ tốt, sản xuất Nauplius khỏe mạnh,

cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, không thể xảy ra hiện tượng sốc trong quá trình nuôi, tôm
sẽ phát triển nhanh khỏe mạnh lấn át bệnh tật.
- Phòng bệnh chủ yếu và có hiệu quả là phòng nấm và protozoae bằng hóa chất và
thuốc đối với virus và vi khuẩn còn ít hiệu quả.
Trong sản xuất giống có hai loại nấm thường gặp, có thể gây chết 100% cho ấu trùng
tôm trong 1-2 ngày sau khi nhiễm, đó là nấm Lagenidium callinectes và Sirolpidium.Thực
hiện phòng 2 loại nấm này theo bảng sau:
Giai đoạn Nồng độ (ppm) Lần cho/ ngày
Nauplius 0,01 1
Zoae 0,03 2
Mysis 0,06 2
23
PL
1
đến PL
4
0,08 2
PL
5
trở đi 0,1 2
Ghi chú: Cách pha dung dòch Treflan:
- Treflan thương phẩm là loại Triflurali Elanco 44%.
- Lấy 10 ml Trealan pha vào 1.000 ml nước cất ta có dung dòch A
- Để Treaflan 0,01 ppm, ta lấy 1 ml dung dòch A cho vào 1m
3
bể nước nuôi ấu trùng.
2. Trò bệnh:
Phải thường xuyên quan sát ấu trùng qua kính hiển vi, khi thấy xuất hiện dấu hiệu gây
bệnh, phải trò ngay mới mang lại hiệu quả.
2.1 Bệnh vi khuẩn dạng sợi (Filamentous bacteria)

Bệnh này thường gặp ở giai đoạn Postlarvae, các sợi nấm bám đầy vào các phần phụ
của tôm, làm cho Postlarvae khó bơi, ăn yếu và sẽ xuất hiện các bệnh khác kèm theo như
hoại tử (necrosis), nếu phát hiện sớm có thể trò bệnh có hiệu quả. Trò bệnh bằng Sunfat đồng
(CuSO
4
) với nồng độ 0,15-0,25 ppm trong 24 h.
2.2 Bệnh hoại tử (necrosis)
Bệnh hoại tử có 2 dạng: Vi khuẩn ăn mòn các phần phụ hoặc các phần phụ bò chết
(chẳn hạn như hoại tử các nhánh chân bụng). Trong 2 dạng nhiễm bệnh trên, dạng thứ hai
khó trò hơn. Nếu phát hiện sớm thì có thể điều trò hiệu quả bằng cách: sử dụng Oxytetracylin
5-10 ppm, hay Furazon 2-3 ppm, trò liên tiếp 3 ngày sẽ khỏi. Nếu phát hiện chậm, tỷ lệ sống
PL
15
sẽ thấp. Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là do môi trường không thuận lợi.
2.3 Bệnh lột xác dính vỏ (Exuvia Entrapment)
Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn Postlarvae, khi lột xác một phần vỏ dính lại trên các
phần phụ như chân ngực, chân bụng làm cho tôm khó hoạt động. Nguyên nhân gây bệnh là
do hàm lượng NH
4
trong bể cao (từ 0,01 ppm trở lên). Wickins (1972) cho rằng khi sử dụng
thức ăn là trứng bào xác Artemia Utah dễ gây bệnh này, không thấy xảy ra ở Artemia hiệu
San Francisco Bay trong sản xuất giống tôm càng. Bowser và cộng sự (1981) cho rằng tăng
thêm Lexithin (Phospholipit) trong thức ăn , hạn chế được bệnh này.
Theo chúng tôi, khi bò bệnh này, có thể sử dụng 10-20 ppm Formalin (giai đoạn
Postlarvae) sau đó tăng cường thay nước, tăng thức ăn, bệnh sẽ khỏi.
2.4 Bệnh phát sáng (Luminescent vibriosis)
Bệnh phát sáng trên tôm, thường xảy ra trên tất cả các giai đoạn. Cần phân biệt rõ sự
phát triển trên tôm. Nếu trong bể tôm có những đốm sáng lớn trên những con tôm chết, đó là
do tập đoàn Coccobacilli tấn công vào các con gây chết phát sáng, thì hiện tượng lâm sàng
này không quan trọng. Khi nước biển xử lý không tốt thường sẽ gặp hiện tượng này.

Nếu phát sáng trên các con sống, đốm sáng rất nhỏ và nhiều trên phần cơ thòt của tôm
thì đó là bệnh do Vibrio harveyi và Vibrio splendidus gây nên.
Chen (1989) phân lập được trong gan tụy tạng tôm sú có 18 loài Vibrio trong đó có
Vibrio harveyi chiếm 26,9% và V. splendidus chiếm khoảng 0,5%. Hai loại này thường làm
tôm bò chết nhiều, có lúc tới 100%, chúng có thể kháng lại 24 loại thuốc kháng sinh (theo
24
Baticados và cộng sự 1991). Chỉ có một loại kháng sinh kiềm chế bớt sự phát triển của hai
loại Vibrio này.
Đối với loại bệnh này chỉ có phòng bệnh mới hiệu quả. Do bản thân các loại Vibrio
này có nguồn gốc từ nước biển nên việc phòng bệnh sẽ thông qua việc xử lý thật kỹ nguồn
nước nuôi.
2.5 Bệnh do nguyên sinh động vật (Protozoae)
Bệnh này do một số loài nguyên sinh động vật như Zoothmmium, Rpistylis, Vorticella,
Acineta chúng tấn công vào mắt mang, các phần phụ của tôm, làm cho tôm yếu kém, kén
ăn, di chuyển khó khăn rồi chết. Nguyên nhân sinh bệnh chủ yếu là do chăm sóc kém, làm
cho môi trường nuôi bò xấu, hàm lượng các chất hữu cơ trong bể cao, tạo điều kiện thuận lợi
cho nguyên sinh động vật phát triển. Điều trò bằng Chloroquin diphosphate 1,1 ppm liên tục
trong 2 ngày, hay tắm Formaline 25-30 ppm trong 15-20 phút. Để phòng trừ bệnh này phương
pháp chủ yếu vẫn là biện pháp quản lý môi trường nuôi tốt.
CHƯƠNG IX : ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯNG GIỐNG TÔM SÚ
PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯNG TÔM GIỐNG
1. Giới thiệu:
Hiện nay công nghiệp nuôi tôm sú đang được phát triển một cách nhanh chóng và trở
thành mũi nhọn kinh tế cho các vùng Duyên Hải. Là đối tượng mà nước ta và các nước khác
trên thế giới quan tâm. Tuy nhiên công việc này đã trải qua những khủng hoảng nghiêm
trọng. Đài Loan năm 1987 là một ví dụ điển hình. Trung Quốc năm 1994 sản lượng tôm chỉ
đạt 20% so với trước.
Qua nhiều năm nhiên cứu giống có chất lượng kém là một trong những nguyên nhân
gây ra những thiệt hại nghiêm trọng. Vì vậy việc kiểm soát được chất lượng giống sẽ góp
phần phát triển được công nghiệp nuôi tôm lâu dài và bền vững.

2. Mục đích:
- Giúp cho người sản xuất giống biết được chất lượng của đàn tôm mà mình sản xuất là
tốt hay xấu. Từ đó có thể đánh giá được kết quả của các biện pháp kỹ thuật mình đang áp
dụng để không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng giống tốt hơn.
- Giúp cho người tiêu thụ giống biết được chất lượng của đàn tôm mà mình đònh mua
nhằm tránh được rủi ro đồng thời giúp cho người nuôi tôm ổn đònh hơn.
3. Ý nghóa:
Có được phương pháp kiểm tra. Đánh giá chất lượng tôm giống tốt là một việc làm có
ý nghóa hết sức quan trọng trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn sản xuất. Bởi vì chất
lượng giống có ảnh hưởng rất lớn đến công nghiệp nuôi tôm trên toàn thế giới.
Bản thân người sản xuất cũng như người tiêu thụ giống phải ý thức được tầm quan
trọng của chất lượng giống tốt như thế nào mới thúc đẩy được nhiều giải pháp kỹ thuật để cải
tiến quy trình mang lại ý nghóa thiết thực cho nghề nuôi tôm hiện nay và cho tương lai.
25

×