Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Bài giảng Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.4 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI

BÀI GIẢNG TRIẾT HỌC
(DÀNH CHO HỌC VIÊN CAO HỌC)

Người biên soạn:
1. PGS.TS. Nguyễn Hữu Đễ
2. Th.S Tô Mạnh Cường

HÀ NỘI, 2013
1


Chương I:
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
I.Khái niệm triết học và đối tương nghiên cứu của triết học
1. Khái niệm triết học
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian
(khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn minh
cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học
có gốc ngơn ngữ là chữ triết ( ); người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả
mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc
của con người.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ dar'sana (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ
phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp
cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với
người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm
kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt


động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư
cách là một hình thái ý thức xã hội.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song,
với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong
những điều kiện nhất định sau đây:
Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được
cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên
cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và
triết học ra đời.
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực
tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
2. Đối tượng của triết học (Học viên tự nghiên cứu)
II. Tính quy luật về sự hình thành, phát triển của triết học (Học viên tự nghiên cứu)
2


III. Vai trị của triết học trong đời sơng xã hội
1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới; về vị trí, vai trị của con người trong thế giới ấy.
Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song,
với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong
những điều kiện nhất định sau đây:
Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được
cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên
cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và

triết học ra đời.
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn;
nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân
con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực
tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở
thành niềm tin định hướng cho hoạt động của con người.
Có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu về thế giới quan. Nếu xét theo quá trình phát
triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản: Thế giới quan huyền thoại,
thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Thế giới quan huyền thoại là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên
thủy. ở thời kỳ này, các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và
tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người, v.v. của con người hoà quyện vào
nhau thể hiện quan niệm về thế giới.
Trong thế giới quan tơn giáo, niềm tin tơn giáo đóng vai trị chủ yếu; tín ngưỡng cao hơn
lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái người.
Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề
thuộc về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong cuộc sống
của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới, dù muốn hay không con người
cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này dần dần
hình thành nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế giới quan lại trở thành nhân tố định
hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới. Có thể ví thế giới quan như
3


một "thấu kính", qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như tự xem xét
chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách
thức hoạt động đạt được mục đích, ý nghĩa đó. Như vậy thế giới quan đúng đắn là tiền đề
để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan

trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri
thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Các trường phái chính của triết học là sự diễn tả thế giới quan khác nhau, đối lập nhau
bằng lý luận; đó là các thế giới quan triết học, phân biệt với thế giới quan thông thường.
- Chức năng phương pháp luận:
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các
ngun tắc chỉ đạo con người tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp
trong nhận thức và trong thực tiễn.
Phương pháp luận của triết học chính là phương pháp luận chung nhất. Trong triết
học, thế giới quan và phương pháp luận không tách rời nhau.
Mỗi quan điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc phương pháp luận, là lý luận
về phương pháp. Với tư cách là phương pháp luận chung nhất, triết học đóng vai trị định
hướng cho con người trong q trình tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương
pháp trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, do đó, nó có ý nghĩa quyết định đối với
thành bại trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
2. Vai trò của triết học đối với các khoa học cụ thể và đối với tư duy lý luận
Sự hình thành, phát triển của triết học khơng thể tách rời sự phát triển của khoa học
cụ thể, qua khái quát những thành tựu của khoa học cụ thể. Tuy nhiên, triết học lại có vai
trị rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể, nó là thế giới quan, phương pháp
luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá
những thành tựu đạt được, cũng như vạch ra phương hướng, giải pháp cho quá trình
nghiên cứu khoa học cụ thể.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cho thấy điều đó.
Triết học cịn có vai trị to lớn đối với rèn luyện năng lực tư duy của con người.
Ăngghen từng nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao khoa học thì khơng thể
khơng có tư duy lý luận”.

4



CHƯƠNG II
KHÁI LƯỢC VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
I. Triết học Ấn Độ cổ - trung đại
1. Điều kiện ra đời và nét đặc thù của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
a. Điều kiện kinh tế - xã hội
* Kinh tế, chính trị
- Sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế - xã hội theo mơ hình
"cơng xã nơng thơn". Trong kết cấu này, chế độ quốc hữu về ruộng đất được các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác coi là "chiếc chìa khố" để tìm hiểu tồn bộ lịch
sử ấn Độ cổ đại.
- Trong xã hội Ấn Độ cổ, trung đại đã phân hoá và tồn tại rất dai dẳng bốn
đẳng cấp lớn: tăng lữ (Brahman), quý tộc (Ksatriya), bình dân tự do (Vai`sya) và
tiện nơ (K`sudra). Ngồi sự phân biệt đẳng cấp, xã hội ấn Độ cổ đại cịn có sự phân
biệt về chủng tộc, dịng dõi, nghề nghiệp, tơn giáo.
* Khoa học, văn hóa
- Thiên văn học: sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện tượng nhật thực,
nguyệt thực, đã biết quả đất xoay tròn và tự xoay xung quanh trục của nó.
- Tốn học: phát minh ra số thập phân, tính được trị số ?, biết đại số, biết
lượng giác, biết phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3.
- Y học: xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng cây thuốc, bằng
thuật châm cứu, chủng đậu, ngoại khoa, v.v..
- Văn hoá Ấn Độ cổ, trung đại mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng, tơn
giáo, tâm linh.
b. Q trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ, trung đại thành ba
thời kỳ chính:
- Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV tr.CN đến thế kỷ VIII
tr.CN) tư tưởng thần thoại mang tính chất đa thần tự nhiên phát triển thành tính
chất nhất nguyên, xuất hiện một số tư tưởng duy vật thô sơ tản mạn

- Thời kỳ thứ hai là thời kỳ cổ điển hay còn gọi là thời kỳ Bàlamôn-Phật
giáo (khoảng thế kỷ VI tr.CN đến thế kỷ VI) tư tưởng triết lý chia làm hai hệ
thống: chính thống và khơng chính thống
Phái chính thống: Sàmkhya, Mimànsa, Vedànta, Yoga, Nỳaya, Vai`sesika
Phái khơng chính thống: Jaina, Lokàyata, Buddha (Phật giáo)
5


- Thời kỳ thứ ba là thời kỳ sau cổ điển hay còn gọi là thời kỳ xâm nhập của
hồi giáo (khoảng thế kỷ VII đến thế kỷ XVIII) là cuộc cạnh tranh uy thế giữa đạo
Phật, đạo Bàlamôn, đạo Hồi. Đạo Phật suy yếu, đến thế kỷ XII và đầu kỷ nguyên
mới đạo Bàlamôn phát triển thành đạo Hinđu
2. Một số nội dung khái quát triết học Ấn Độ cổ-trung đại
Đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề triết học như bản thể luận, nhận thức luận - chịu
ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo
a. Tư tưởng bản thể luận:
- Bản thể luận thần thoại tôn giáo:
Họ sáng tạo nên một thế giới các vị thần có tính chất tự nhiên, tượng trưng
cho sức mạnh của trời, đất, mặt trời, mặt trăng, lửa, gió, mưa, thần ác, thần thiện.
Vũ trụ có 3 thế lực thiên giới, trần giới, địa ngục.
Về sau, những nguyên lý trừu tượng duy nhất tối cao được coi là nguồn gốc
của vũ trụ và đời sống con người là "thần sáng tạo", Brahman "tinh thần tối cao"
Bahman
- Tư duy triết học về bản thể luận
Nội dung căn bản của kinh Upanisad là vạch ra nguyên lý tối cao bất diệt là
bản thể của vũ trụ vạn vật, giải thích bản tính con người và mối quan hệ giữa đời
sống tinh thần của con người với nguồn sống bất diệt của vũ trụ, từ đó tìm ra con
đường giải thoát cho con người ra khỏi sự ràng buộc của thế giới sự vật, hiện
tượng hữu hình, hữu hạn như phù du này
- Nhận thức luận

Upanisad chia nhận thức thành hai trình độ khác nhau:
Hạ trí: nhận thức sự vật hữu hình tri thức khoa học thực nghiệm;
Thượng trí: nhận thức "tinh thần vũ trụ tối cao" Brahman. Linh hồn bất tử, đầu thai
hết thân xác này đến thân xác khác với hình thức khác nhau từ kiếp này sang kiếp
khác gọi là luân hồi
b. Tư tưởng giải thốt của triết học tơn giáo Ấn Độ
Để giải thích nguồn gốc nỗi khổ và cách thức, con đường giải thoát cho con
người khỏi bể khổ trầm luân. Mục đích của triết học cổ đại là tìm phương tiện,
cách thức, con đường giải thoát.
Giải thoát là phạm trù triết học tôn giáo ấn Độ dùng để chỉ trạng thái tinh
thần, tâm lý, đạo đức của con người thoát khỏi sự ràng buộc của thế giới trần tục
và nỗi khổ của cuộc đời.
Để giải thốt thì phải dày cơng tu luyện theo đạo đức giới luật, tu luyện trí
tuệ, trực giác thực nghiệm tâm linh, chiêm nghiệm nội tâm lâu dài. Đạt tới giải
6


thoát là đạt tới siêu thoát, vượt ra khỏi sự ràng buộc của thế tục, hoàn toàn tự do, tự
tại.
Nguồn gốc của tư tưởng giải thoát do điều kiện kinh tế-xã hội ấn Độ cổ đại
quy định đồng thời do các nhà triết học ấn Độ ít chú trọng ngoại giới, coi trọng tư
duy hướng nội, đi sâu vào thế giới tâm linh con người. Nó biến đổi cùng với sự
biến đổi của xã hội.
Tư tưởng giải thoát thể hiện tính nhân bản, nhân văn sâu sắc, phản ánh đặc
điểm, yêu cầu của xã hội ấn Độ đương thời. Nó chưa giải thích được nỗi khổ, mới
dừng lại ở mặt tinh thần, tâm lý, đạo đức. Không phải là biến đổi cách mạng hiện
thực
Tóm lại: Nền triết học ấn Độ được xác lập và hình thành từ những tơn giáo
khác nhau, từ ấn giáo cổ truyền, từ Phật giáo cho đến Hồi giáo, Ki tô giáo đều
được dân tộc ấn giang tay đón nhận phát triển theo tính tự nhiên, theo quan điểm

"Hãy sống và để cho người khác sống với"
II. Triết học Trung Quốc cổ, trung đại
1. Điều kiện kinh tế - xã hội và nét đặc thù của triết học Trung Quốc cổtrung đại
a. Điều kiện ra đời:
- Về tự nhiên: TQ cổ đại đất đai rộng, chia làm hai miền, miền bắc lạnh khô, sản
vật nghèo. Miền nam ám áp, sản vật phong phú, phong cảnh đẹp.
- Về kinh tế - xã hội: Thời Đông Chu 770-221 Tr.CN sở hữu tư nhân về ruộng đất,
xã hội phân hoá giàu nghèo sâu sắc, các thế lực cát cứ tranh giành nhau, chiến tranh triền
miên, khốc liệt. Xã hội Trung Hoa lúc này rơi vào tình trạng hỗn loạn, "Vương đạo" suy
vi, "Bá đạo" nổi lên lấn át "Vương đạo", tình trạng như Khổng Tử than phiền: "quân bất
quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử".
- Xuất hiện 103 trường phái triết học, tranh luận về trật tự xã hội cũ, đề ra hình
mẫu cho xã hội tương lai. Ảnh hưởng lớn nhất là 3 phái Nho, Mặc, Đạo
- Nét đặc thù của triết học Trung Quốc cổ, trung đại là hầu hết các học thuyết có xu
hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội với nội dung
bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con đường trị
nước.
b. Quá trình hình thành và phát triển triết học Trung Quốc cổ, trung đại
- Thời Tam đại: Hạ, Thương, Chu (thiên niên kỷ II-I Tr.CN) xuất hiện các biểu tượng “đế” “thượng đế”, “quỷ thần”, “âm dương”, “Ngũ hành”. Thời Đông Chu (770221Tr.CN) quá độ nô lệ sang phong kiến, tư tưởng triết học đã có hệ thống

7


- Thời Tần Hán:Thiên hạ thống nhất, giai cấp thống trị yêu cầu thống nhất tư
tưởng, các trường phái lần lượt dung hợp với Phật giáo tạo nên nền văn hố huy hồng,
xán lạn, là thời kỳ cực thịnh của xã hội phong kiến
- Từ thời Tống trở về sau nho học được đề cao : thời hậu kỳ của XHPKTQ, biểu
hiện của nó là Lý học - dung hợp đạo Phật vào Nho. Từ đời Thanh về sau tranh cãi xung
quanh phạm trù Hữu và Vô (động và tĩnh), tâm và vật (tri và hành)Thời kỳ thứ nhất (từ
thế kỷ thứ IX trở về trớc): Những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện, nhưng chia

thành một hệ thống.
2. Một số nội dung triết học Trung Quốc cổ, trung đại
a. Tư tưởng bản thể luận
- Nho gia
Khổng tử nói đến trời, đạo trời và mệnh trời. Mạnh tử hình thành quan niệm "thiên
mệnh"
Thời Chiến Quốc, Tuân Tử “trời đất hợp lại thì vạn vật sinh ra, âm dương giao tiếp
với nhau thì sinh ra biến hố”
Thời nhà Hán, theo Vương Sung (27-107) cho rằng nguyên khí là yếu tố đầu tiên
của thế giới
- Đạo gia
Coi bản nguyên thế giới là "Đạo", Đạo sáng tạo ra vạn vật, vạn vật nhờ đó mà sinh
ra, sự sinh ra vạn vật theo trình tự đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn
vật"
- Âm dương gia
Âm dương là hai khí tác động qua lại với nhau sinh ra mọi sự vật, hiện tượng trong
trời đất.
Kinh dịch cho Thái cực là khí tiên thiên: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh
tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật
a. Tư tưởng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Cặp phạm trù thần- hình, xuất hiện thời nhà Hán. Đổng Trọng Thư (174- 104
Tr.CN) cho rằng thần là bản nguyên của hình, hình phát sinh từ thần. Vương Sung (27127) phê phán Đổng Trọng Thư và cho rằng nguyên khí là cội nguồn của thế giới
- Cặp phạm trù tâm - vật: xuất hiện thời Tuỳ Đường, Phật giáo thịnh hành, họ quan
niệm mọi hiện tượng giữa thế gian và trong cõi xuất thế đều do "thanh tịnh tâm" sinh ra,
tâm là bản nguyên của thế giới. Các nhà duy vật (Trương Tải) cho rằng có vật mới có tâm
- Cặp phạm trù lý-khí
Thời nhà Tống Trình Hạo(1033-1107), Trình Di (1023-1085) cho rằng "vạn vật
đều chỉ một lẽ trời", "Âm dương nhị khí cùng với ngũ hành là tài liệu để "Lý" sáng tạo ra
vạn vật trong trời đất. Vương Phu Chi cho rằng "Trong trời đất chỉ có khí" "Lý ở trong
8



khí"
c. Tư tưởng biện chứng
- Phạm trù biến dịch: trời đất vạn vật luôn luôn vận động biến đổi. Theo Lão Tử
"trong vạn vật không vật nào mà không cõng âm và bồng dương"
Vương An Thạch: mâu thuẫn nội ngoại của Ngũ hành là nguyên nhân cơ bản và vô
cùng tận của biến hố
La Thuận Khâm và Vương Đình Tương (thời Tống Minh): động lực của sự vận
động vật chất là do khí âm dương khơng đồng đều nhau
Vương Phu Chi (nhà Thanh): vạn vật vận động là do âm dương vừa mâu thuẫn,
vừa thống nhất
Kinh Dịch: vận vật phát triển không rõ ràng - rõ ràng - sâu sắc- kịch liệt - cao điểm
- mặt trái.
Lão Tử: Vũ trụ vận động biến đổi theo hai quy luật, quy luật bình quân và quy luật
phản phục
d. Tư tưởng về nhận thức
- Khổng Tử, Thuyết chính danh, lấy "danh" để định "thực" đã đề cập đến bản thân
nhận thức luận, lấy "danh" để định "thực"
- Mặc tử - lấy thực đặt tên. Thuyết tam biểu: lập luận phải có căn cứ, lập luận phải
có chứng minh, lập luận phải có hiệu quả
- Huệ Thi chú trọng "thực", Công Tôn Long chú trọng danh nhấn mạnh sự sai biết
giữa từ và khái niệm (Danh gia)
Hai ông đều tư biện, rơi vào quỷ biện
- Các nhà Mặc gia đời sau có tư tưởng minh biện, dựa vào khoa học họ đã có phạm
trù vận động, không gian, thời gian
- Đạo gia, Lão Tử, Trang tử đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh việc nghiên cứu sự
vật, hiện tượng cụ thể "Không cần ra cửa mà biết cả thiên hạ, khơng cần nhìn qua khe cửa
mà biết được cả đạo trời"
- Thời Tuỳ-Đường: Nho, Đạo, Phật dung hợp, lấy Phật giáo làm chủ, nhận thức

luận thể hiện ở thuyết "Đốn ngộ" cho rằng mỗi người đều có năng lực nhận thức trời cho
tiên nghiệm, Phật tính
đ. Tư tưởng con người và xây dựng con người
- Nguồn gốc con người:
Khổng Tử, Mặc Tử cho là trời. Lão Tử cho là Đạo
- Vai trò, vị trí con người:
Lão Tử: Đạo lớn, Trời lớn, Đất lớn, Người cũng lớn. Nho giáo: Con người cùng
với trời đất là ba ngôi tiêu biểu cho mọi vật trong trời đất
Mạnh Tử: Trời an bài địa vị của mỗi người
9


Đổng Trọng Thư "Thiên nhân cảm ứng"
Các nhà triết học tiến bộ "Thiên nhân cảm ứng"
Kinh dịch: "Trời đất muôn vật là nhất thể"
Tuân Tử "Thiên nhân bất tương quan"
- Bản tính con người
Khổng Tử: "Tính mỗi người đều gần nhau, do tập tành và thói quen mới hố ra xa
nhau”; Mạnh Tử: bản tính con người là thiện; Tuân Tử: Bản tính con người là ác; Cáo
Tử: khơng thiện, không ác; Vương Sung: Vừa thiện vừa ác.
- Về xây dựng con người
Các trường phái đều coi trọng sự nỗ lực cá nhân, sự quan tâm của gia đình và xã
hội.
+ Đạo gia: Bản tính con người có khuynh hướng trở về cuộc sống tự nhiên, vào
cuộc sống trong sạch, thanh cao.
+ Nho gia: Hướng con người vào tu thân và thực hành đạo đức. Tất cả mọi vấn đề
đều lấy đạo đức làm chuẩn. Vấn đề thiện-ác trở thành tiêu điểm tranh luận quan
trọng nhất của lịch sử triết học Trung Quốc. Tu thân dưỡng tính là cơ sở để nhận
thức thế giới quan.
Mục tiêu xây dựng con người: Giúp con người nhận thức và làm tròn 5 mối quan

hệ cơ bản (ngũ luân). Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè. Trong đó, vua nhân, tơi
trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, bạn hữu phải có tín.
Trong ngũ ln có ba điều chính (tam cương): vua tơi, cha con, vợ chồng
Vấn đề tu dưỡng bản thân hàng đầu là phải tu thân. “Thiên hạ gốc ở nước, nước
gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình”.
Những đức thường xuyên phải trau dồi (ngũ thường): Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Với
người có trọng trách thì: Nhân, trí, dũng.
Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia đối lập với Đạo gia. Đạo gia khởi xướng
đạo vô vi, trốn tránh trách nhiệm xã hội.
Trong hoàn cảnh xã hội TQ cổ đại, mỗi học thuyết đều có mặt tích cực và hạn chế.
e. Tư tưởng về xã hội lý tưởng và con đường trị quốc
- Khổng Tử: thuyết xã hội đại đồng
- Thuyết trị nước:
+ Nhân trị: Cách cai trị phải lấy đạo đức mà giáo hóa. Biện pháp thực hiện là chính
danh, lễ, vài trị tài đức của người cầm quyền và vai trò của dân.
+ Pháp trị: Lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trị.
III. Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
1. Điều kiện hình thành, phát triển và những đặc điểm của lịch sử tư tưởng
triết học Việt Nam (Học viên tự nghiên cứu)
10


a. Điều kiện hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
b. Những đặc điểm chủ yếu của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
- Đặc điểm của quá trình hình thành và phát triển các tư tưởng triết học Việt Nam
- Đặc điểm về hình thức thể hiện các tư tưởng triết học Việt Nam
2. Những nội dung cơ bản của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
a. Những tư tưởng triết học chính trị, đạo đức, nhân văn
b. Mơt số tư tưởng triết học Phật giáo
c. Một số tư tưởng triết học Nho giáo

d. Sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, triết học và
tơn giáo
3. Vai trị của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học
Việt Nam (Học viên tự nghiên cứu)

Chương III: KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
I. Triết học Hy Lạp cổ đại.
1. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học Hy Lạp cổ đại
Tư tưởng triết học ra đời ở xã hội Hy Lạp cổ đại, xã hội chiếm hữu nô lệ với những
mâu thuẫn gay gắt giữa tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc.
Những cuộc xâm lăng từ bên ngoài đã làm suy yếu nền kinh tế thủ công Hy Lạp.
Do thuận lợi về đường biển nên kinh tế thương nghiệp khá phát triển.
Một số ngành khoa học cụ thể thời kỳ này như toán học, vật lý học, thiên văn, thuỷ
văn, v.v. bắt đầu phát triển. Khoa học hình thành và phát triển đòi hỏi sự khái quát của
triết học. Nhưng tư duy triết học thời kỳ này chưa phát triển cao; tri thức triết học và tri
thức khoa học cụ thể thường hoà vào nhau. Các nhà triết học lại cũng chính là các nhà
khoa học cụ thể. Thời kỳ này cũng diễn ra sự giao lưu giữa Hy Lạp và các nước ảrập
phương Đông nên triết học Hy Lạp cũng chịu sự ảnh hưởng của triết học phương Đông.
Sự ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại có một số đặc điểm như: gắn hữu cơ
với khoa học tự nhiên, hầu hết các nhà triết học duy vật đều là các nhà khoa học tự nhiên;
sự ra đời rất sớm chủ nghĩa duy vật mộc mạc, thô sơ và phép biện chứng tự phát; cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm biểu hiện qua cuộc đấu tranh giữa
đường lối triết học của Đêmơcrít và đường lối triết học của Platơn, đại diện cho hai tầng
lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc; về mặt nhận thức, triết học Hy Lạp cổ đại đã theo
khuynh hướng của chủ nghĩa duy giác.
2. Một số nội dung cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
11


a.Tư tưởng về bản nguyên của thế giới

- Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái đơn nhất
+ Trường phái Milê: Nước (Talet), khơng khí (Anaximen), Apeiron (Anaximanđrơ)
- Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái đặc thù
+ Trường phái của các nhà triết học tự nhiên thế ký V tr.CN: Anaxago coi là những phần
nhỏ bé, siêu cảm giác, khơng nhìn thấy được của nước, đất, khí, lửa, gọi là mầm sống, hạt
giống của muôn vật. Những mầm sống ấy kết hợp khác nhau tạo thành các vật đang tồn
tại.
Empêđôclơ coi khởi nguyên là một số xác định: đất, nước, lửa, khơng khí kết hợp với
nhau do sự tác động qua lại của hai lực “tình yêu” và “hận thù”.
- Bản nguyên thế giới với tư cách là cái phổ biến.
+ Trường phái nguyên tử luận: Đê-mô-crit thừa nhận nguyên tử (tồn tại) và chân không
(không tồn tại” là những bản nguyên thế giới luôn đối lập nhau.
b. Tư tưởng biện chứng
- Hê-ra-cơ-lít coi bản nguyên thế giới là lửa và khẳng định bản tính thế giới là “mọi thứ
đều trơi qua”. (Dịng sơng ln chảy và mặt trời ln chiếu sáng. Và khơng có gì ổn định
hơn việc dịng sơng ln chảy và mặt trời ln chiếu sáng). Khái niệm triết học cơ bản
của tư tưởng về bản tính của thế giới của Hê-ra-cơ-lít là Logos. Logos là sự thống nhất
của mọi cái hiện hữu.
- Biện chứng “phủ định” của trường phái Elê chủ trương vạn vật bất biến, không sinh
thành cũng không diệt vong với hai đại biểu là Pác-mê-nít và Dê-nơn.
- Xơ-crat và Platon phát triển theo tinh thần chủ nghĩa duy tâm khách quan. Theo Platon,
muốn co tri thức thì phải “hồi tưởng”. Hồi tưởng là con đường đánh thức trong linh hồn
“tri thức bị lãng quên”, là “tìm kiếm tri thức nơi mình”. Phương pháp hồi tưởng là
phương pháp biện chứng.
c. Tư tưởng về nhận thức
- Hê-ra-cơ-lít cho rằng “mọi người đều có khả năng nhận thức bản thân và suy xét” và
Logos thế giới con người (chủ quan) có khả năng phù hợp logos thế giới (khách quan).
Do đó, có thể tự nhân thức thế giới.
- Phái Ê-lê: (Pác-mê-nít và Dê-nơn) Đề cao vai trị nhận thức lý tính, phủ nhận vai trị
nhận thức cảm tính.

- Platon: Phủ nhận quan điểm các nhà duy vật về vai trò của cảm giác. Đối tượng của
nhận thức chân lý không phải là giới tự nhiên mà là những thực thể tinh thần, tức là thế
giới “ý niệm”.
- A-rít-tốt: Đối lập quan điểm Platon coi “ý niệm” là đối tượng của nhận thức. Ông coi
nhận thức là cả quá trình đi từ kinh nghiệm cảm tính đến nhận thức lý tính.
d. Vấn đề đạo đức và chính trị:
12


- Về đạo đức:
+ Đê-mô-crit: xuất phát từ bản chất con người để định nghĩa về đạo đức. Sự hài lịng và
khơng hài lịng là động lực của hành vi và tiêu chuẩn của tốt xấu. Con người phải biết
phải biết phân biệt tốt xấu. Do vậy, phải tích cực trau đồi lý trí và nắm bắt quy luật tự
nhiên, của hành động.
+ Platon: Đối lập với Đê-mô-crit. Là nhà duy tâm khách quan. Bản chất đạo đưc người
không nằm trong bản chất con người mà nằm trong linh hồn vĩnh cửu. Tri thức đúng đắn
chỉ có được thơng qua “sự hồi tưởng của linh hồn về cái thế giới mà nó nảy sinh từ đó”.
Nhà nước được xây dựng từ các tầng lớp công dân khác nhau: Các nhà triết học, các chiến
binh và những người lao động chân tay, bn bán. Nhà nước phải vừa đảm bảo bình đẳng,
vừa đảm bảo bất bình đẳng nhằm duy trì trật tự thang bậc xã hội cần thiết. Trong nhà
nước ấy, mọi người thực hiện công việc theo sự phân công chung nhằm đạt tới sự hài hòa,
thống nhất. Giáo dục giữ vài trò quan trọng hướng con người tới lẽ cơng bằng và cái
thiện.
+ Aritxtot: Có nhiều cống hiến. Khơng thể dựa vào Thượng đế áp đặt để có được cơng
dân hồn thiện về đạo đức mà phải dựa vào nhu cầu trên trái đất, phát triển khoa học và
chính trị mới có con người hồn thiện về đạo đức.
Nghệ thuật quyền lực của nhà chính trị được xây dựng trên cơ sở hiểu biết về con người,
về đức hạnh. Giữa chính trị và đạo đức có quan hệ với nhau. Tiêu chuẩn xây dựng nhà
nước kiểu mẫu là khả năng phụng sự lợi ích chung, tìm hạnh phúc cho xã hội. Cịn đạo
đức lại đi tìm hạnh phúc cho cá nhân.

II. Triết học Tây Âu thời trung cổ
1. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học Tây Âu thời trung cổ
Xã hội Tây Âu vào thế kỷ II - V là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ nô lệ và sự
ra đời chế độ phong kiến. Nền kinh tế của thời kỳ này nằm trong tay những người tiểu
nông, những người khốn cùng, phụ thuộc, nhục nhã về mặt cá nhân và tối tăm về trí tuệ.
Thời kỳ đầu trung cổ là thời kỳ của sự suy đồi toàn bộ đời sống xã hội. Ở những thế kỷ
tiếp theo, chế độ phong kiến cũng tạo ra được một sự phát triển xã hội cao hơn xã hội cổ
đại: kỹ thuật và nghề thủ công dần dần được phát triển; dân cư tăng nhanh, các thành thị
ra đời, tạo ra những tiền đề cho sự phục hưng mới của khoa học và văn hóa.
Nhà thờ thời trung cổ là một tổ chức tập quyền hùng mạnh, tôn giáo bao trùm lên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội làm cho triết học, luật học, chính trị học biến thành các
bộ mơn của thần học.
Đặc điểm của triết học thời kỳ này là khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa kinh
viện. Chủ nghĩa kinh viện Thiên chúa giáo thể hiện tập trung ở học thuyết của Tômát
Đacanh.
13


Trong lĩnh vực triết học, Tơmát Đacanh có mưu đồ làm cho học thuyết của Arixtốt thích
hợp với giáo lý đạo Thiên Chúa, biến triết học của mình thành cơ sở giáo lý của nhà thờ.
2. Một số nội dung cơ bản của triết học Tây Âu thời trung cổ
a. Mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin tôn giáo
Các nhà triết học thời kỳ này coi niềm tin tơn giáo giữ vị trí hàng đầu trong quan hệ với lý
trí. Từ đó, đi sâu nghiên cứu các vấn đề triết học liên quan, trong đó có mối quan hệ giữa
“cái chung” và “cái riêng”.
- Ý kiến thứ nhất: Cái chung, cái phổ biến là thực thể tinh thần, tồn tại thật, có trước sự
vật đơn nhất (chủ nghĩa duy thực) – gần với CNDT. Tiêu biểu như Téc-tu-liêng, Ơ-nighen-nơ, Tô-mát-đa-canh
- Ý kiến thứ hai: Sự vật đơn nhất có thực, có trước, cịn cái chung, cái phổ biến chỉ là tên
gọi giản đơn do con người sáng tạo ra (chủ nghĩa duy danh) – gần với CNDV. Tiêu biểu
như Đun-Xcot, Rôgie Bê-cơn, Uyliam Ốc-Cam.

b. Vấn đề xã hội và đạo đức
- Vấn đề xã hội
+ Ô-guýt-Xtanh: Vương quốc của loài người, của điều ác là Nhà nước, vương quốc của
thượng đế là nhà thờ. Bảo vệ sự bất bình đẳng xã hội và cho rằng Thượng đế ban cho
người này sướng, người kia khổ. Người nghèo chỉ nên yêu cái không lấy được, không nên
yêu của cải, chỉ nên u Thượng đế.
+ Tơ-mát Đa-canh: ca ngợi bất bình đẳng, cho rằng chính quyền vua chúa do Thương đế
sáng tạo ra. Dân phải phục tùng vua và vua phải phục tùng giáo hồng. Chính quyền quản
lý thân thể, giáo hội quản lý phần hồn.
+ Rô-giê Bê-cơn chống lại điều này và bị cầm tù.
- Vấn đề đạo đức: Bị quan điểm thần học chi phối, đạo đức không được xem là mục đích
mà bị coi là phương tiện để thực hiện mệnh lệnh của tôn giáo, đạo đức gắn với thần học.
+ Ô-guýt-xtanh: Sự can thiệp của Chúa vào mối quan hệ con người là cơ sở hình thành
đạo đức
+ Tơ-mát Đa-canh: Đạo đức chính là phẩm chất linh hồn. Với sự giúp đỡ của nó, con
người sẽ sống trong trắng và thơng qua nó thần linh sẽ tác động vào. Hạnh phúc, hy vọng,
tình yêu, niềm tin là những phẩm chất cao cả, thơng qua đó, quan hệ con người va thần
linh được xác định.
III. Triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận đại
1. Triết học Tây Âu thời Phục hưng
a. Điều kiện ra đời
Thế kỷ XV - XVI ở Tây Âu được gọi là thời kỳ Phục hưng với ý nghĩa là thời kỳ có sự
khơi phục lại nền văn hóa cổ đại. Về mặt hình thái kinh tế - xã hội đó là thời kỳ quá độ từ
xã hội phong kiến sang xã hội tư bản.
14


Thời kỳ này, sự phát triển của khoa học đã dần dần đoạn tuyệt với thần học và tôn
giáo thời kỳ trung cổ, bước lên con đường phát triển độc lập. Giai cấp tư sản mới hình
thành và là giai cấp tiến bộ, có nhu cầu phát triển khoa học tự nhiên để tạo cơ sở cho sự

phát triển kỹ thuật và sản xuất. Sự phát triển của khoa học, về khách quan đã trở thành vũ
khí mạnh mẽ chống thế giới quan duy tâm tôn giáo.
Sự phát triển khoa học tự nhiên đã địi hỏi có sự khái qt triết học, rút ra những kết
luận có tính chất duy vật từ các tri thức khoa học cụ thể.
Thời kỳ này đã có những nhà khoa học và triết học tiêu biểu như: Nicơlai Cơpécních,
Brunơ, Galilê, Nicơlai Kuzan, Tơmát Morơ, v.v..
b. Một số nội dung triết học Tây Âu thời Phục hưng
- Tư tưởng triết học về tự nhiên
Những thành tựu lớn trong khoa học tự nhiên đã tạo nên khuynh hướng phản kinh viện.
+ Ni-cô-lai Cu-dan: Trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ mà trái đất chỉ là một vì
sao chuyển động “giống như các ngơi sao khác”. Vũ trụ là vơ tận.
+ Ni-cơ-lai Cơ-péc-ních: Thuyết nhật tâm. Thách thức quyền uy của giáo hội trong các
vấn đề tự nhiên. Từ đó, khoa học tự nhiên được giải phóng khỏi thần học.
- Tư tưởng về triết học con người
Phát hiện ra con người trong thế giới và cả một thế giới trong con người.
+ Chủ nghĩa nhân đạo ra đời: tự do cá nhân, phản đối chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo, tán
thành quyền con người được hưởng lạc và thỏa mãn những nhu cầu trần gian. Tiêu biểu
như Leona Đờ Vanh-xi, Bruno, Sếch-xpia…
+ Chủ nghĩa cá nhân: Giải phóng con người khỏi xiềng xích phong kiến, giáo hội.
- Tư tưởng triết học về chính trị và xã hội
2. Triết học Tây Âu thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII)
a. Điều kiện ra đời
Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là thời kỳ của những cuộc cách mạng tư sản bắt
đầu ở Hà Lan, sau đến Anh, Pháp, ý, áo, v.v. và đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của
triết học Tây Âu. Sự phát triển của lực lượng sản xuất mới làm cho quan hệ sản xuất
phong kiến trở nên lỗi thời và mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở
nên gay gắt là nguyên nhân kinh tế của những cuộc cách mạng thời kỳ này. Nhưng đòn
giáng mạnh nhất vào chế độ phong kiến Tây Âu là cuộc cách mạng tư sản Anh (giữa thế
kỷ XVII) và cách mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVIII). Theo lời Mác, đó là những cuộc
cách mạng có quy mơ tồn châu Âu, đánh dấu thắng lợi của trật tự tư sản mới đối với trật

tự phong kiến cũ. Thời kỳ này cũng là thời kỳ phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật do
nhu cầu của sự phát triển sản xuất; thế kỷ XVII - XVIII cơ học phát triển, thế kỷ XVIII XIX, vật lý học, hóa học, sinh học, kinh tế học ra đời. Tất cả cái đó làm tiền đề cho sự
phát triển triết học mới với nhiều đại biểu nổi tiếng.
15


b. Một số nội dung:
- Tư tưởng về bản thể và bản tính của thế giới
Do ảnh hưởng của khoa học tự nhiên, triết học tự nhiên thấm đượm tư duy siêu
hình. Tư duy siêu hình đã chi phối những hiểu biết triết học về bản nguyên và bản tính
của thế giới.
Giải thích mọi hiện tượng tự nhiên bằng sự tác động qua lại của lực hấp dẫn và lực
đẩy giữa các phần tử vật thể. Các phần tử vật thể luôn bất biến, các thay đổi chỉ là thay
đổi về trạng thái không gian và tập hợp của chúng. Mọi phân biệt về chất đều bị quy về sự
thay đổi về lượng, mọi vận động đều bị quy về sự thay đổi vị trí trong khơng gian…
Tiêu biểu: Phran-xi Bê-cơn, Tô-mát Hốp-xơ, Đề-các-tơ, Đi-Đrô
- Lý luận nhận thức:
Nhiệm vụ trọng tâm là tìm ra phương pháp của tri thức chân lý cho tất cả các khoa
học
+ Chủ nghĩa kinh nghiệm: Ph Bê-cơn, T Hốp-xơ, J Lốc-cơ. Nguồn gốc duy nhất của tri
thức là kinh nghiệm. Kinh nghiệm liên quan đến cảm tính, cảm giác, tri giác, biểu tượng.
Khơng có gì trong nhận thức mà trước đó khơng do cảm giác thu nhận. Tri thức phải đi từ
cái cụ thể, cái kinh nghiệm đến cái khái quát và đưa ra lý thuyết. Đó là phương pháp quy
nạp.
+ Chủ nghĩa duy lý: R Đề-các-tơ, Xpi-nơ-da, Lép-ních. Những kinh nghiệm cho trước
cũng như kết quả thực nghiệm bao giờ cũng bi nghi vấn, chưa được khẳng định. Trong lý
tính của con người hàm chứa những tư tưởng rõ nét một cách trực giác. Khi phát triển
những tư tưởng có sẵn ấy, con người có thể thu được tri thức chính xác về thế giới. Tư
duy đều dựa trên trực giác và diễn dịch.
- Tư tưởng về con người và bản tính con người

Đấu tranh chống các quan điểm tôn giáo và các học thuyết siêu hình của Đề-các-tơ và
Lep-ních vì trong học thuyết đó có sự khẳng định, tán thành của lý tính về cơ sở niềm tin
của tơn giáo.
Con người chịu sự quy định của cấu trúc cơ thể trong sự tác động qua lại với môi trường
và điều kiện sống (La-mê-tri), Con người là thực thể thống nhất hữu cơ giữa hai mặt linh
hồn và thể xác (Đi-Đrô), con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của xã hội (Hen-vê-tuýt)..
Bản tính con người vốn khơng ác. Sở dĩ xã hội có cái ác là do sự khiếm khuyết của các
quan hệ xã hội và nền giáo dục không đúng đắn. Con người được giáo dục đúng đắn tức
là sự khai sáng.
- Tư tưởng về đạo đức
Các nhà duy vật Pháp đã phát triển đạo đức duy vật và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tư
tưởng đạo đức thần học tôn giáo. Họ cho rằng con người không phải sinh ra là có đạo
đức. Đạo đức nảy sinh dưới sự tác động của mơi trường xã hội, trước hết là chính trị và
16


pháp luật. Vì vậy, con người phải thay đổi điều kiện xã hội nếu muốn đạt đến đạo đức cao
cả. (Đi-Đrô, Hôn-bách)
IV.Triết học Cổ điển Đức
1. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ chuyên
chế Nhà nước Phổ. Song, thời kỳ cuối thế kỷ XVIII cuộc Cách mạng tư sản Pháp (1789)
ảnh hưởng mạnh đến nước Phổ, và Hêghen là một người tán dương cuộc cách mạng đó.
Đồng thời xã hội Phổ lúc này với những điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt đã làm nảy
sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản, thoả hiệp. Tất cả cái đó tạo nên nét riêng của triết
học cổ điển Đức.
Đặc trưng những học thuyết duy tâm của triết học cổ điển Đức là: khôi phục lại
truyền thống phép biện chứng; bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm chủ quan, tiên nghiệm
của Cantơ đến chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen; phê phán phép siêu hình
truyền thống "lý tính"; chú ý đến vấn đề triết học lịch sử.

2. Một số nội dung triết học cổ điển Đức
a. Tư tưởng về nguồn gốc thế giới
Có duy vật, duy tâm và nhị nguyên luận
- Can-tơ: nhà sáng lập triết học cổ điển Đức. Một mặt thừa nhận thế giới “vật tự nó” tồn
tại khách quan, có thể tác động lên giác quan con người.
- Heghen: nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội là ý niệm tuyệt đối.
- Phoi ơ bắc: thế giới là thế giới vật chất, giới tự nhiên khơng do ai sáng tạo ra, nó tồn tại
độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào.
b. Tư tưởng biện chứng
- Can-tơ: Người sáng lập PBC cổ điển Đức. Đưa ra giả thuyết vũ trụ luận và sự hình thành
hệ hành tinh từ “đám mây mù đầu tiên”. Sự phát triển không chỉ là “trạng thái của tự
nhiên”, mà còn là nguyên lý quan trọng nhận thức về tự nhiên.
- Heghen: Thành tựu quan trong nhất của triết học Heghen là phương pháp biện chứng mà
hạt nhân hợp lý của nó là tư tưởng về sự phát triển. Hệ thống triết học của ông gồm ba
phần: Lôgic học, triết học tự nhiên, triết học tinh thần.
Lôgic học: “ý niệm tuyệt đối” vận động và phát triển thì đó là sự tự vận động. Tồn tại,
bản chất, khái niệm là ba sự quy định, ba hình thức chủ yếu của “ý niệm tuyết đối” trong
quá trình phát triển. (phù hợp quá trình nhận thức của con người: mới nhìn vào sự vật
thấy tồn tại, đi sâu thấy bản chất, nắm bản chất rút ra khái niệm).
Trong loogic học tồn tại, Heghen đưa ra các phạm trù chất, lượng, độ, và tư tưởng biện
chứng về sự chuyển hóa từ lượng đến chất và ngược lại. Ở phần bản chất, ông đưa ra các
cặp phạm trù bản chất, hiện tượng, quy luật, khả năng, hiện thực, nguyên nhân, kết quả,
17


học thuyết về mâu thuẫn và sự phát triển. Ở phần khái niệm, ông đưa ra phạm trù cái
chung, cái riêng, quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, nguyên lý thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn, quan niệm về sự phát triển với tư cách là phủ định của phủ định.
Leenin coi Heghen là người phác thảo về PBC.
Trong triết học tự nhiên, có tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất và vận động, dự đoán

giữa khơng gian, thời gian và vận động có mâu thuẫn bên trong…
c. Tư tưởng về con người
- Can-tơ: Về các chủng tộc người khác nhau (1775), tất cả mọi người đều thuộc một loài
nhưng do tác động của điều kiện tự nhiên-vật chất khác nhau mới thành các chủng tộc
khác nhau. Tư tưởng về bốn bước phát triển của xã hội lồi người; vai trị hoạt động cải
tạo của con người với tư cách là chủ thể thế giới…
- Heghen: Tư duy, tinh thần là nguồn gốc duy nhất của mọi cái trong tồn tại. Hoạt động
thực tiễn của con người chính là q trình tự ý thức, tự nhận thức, lịch sử lồi người chính
là lịch sử tư duy.
- Phoi-ơ-bắc: chủ nghĩa nhân bản. Con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên.
Thành tựu TH CĐ Đức về con người là: đề cao sức mạnh con người, khẳng định tư duy, ý
thức chỉ phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, con người là
chủ thể và là kết quả hoạt động của mình…
d. Tư tưởng về đạo đức
- Can-tơ: Lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý, chuẩn mực đạo đức.
Nguyên tắc cơ bản của đạo đức là tuân theo mệnh lệnh tuyệt đối.
- Heghen: Trình bày các phạm trù đạo đức, thiện – ác và những mâu thuẫn nội tại cũng
như sự chuyển hóa giữa chúng. Học thuyết đạo đức của Heghen kết thúc bằng lý luận về
nhà nước. Đạo đức cao cả là yêu nước, phục tùng nhà nước. Hạn chế: Đề cao và bảo vệ
nhà nước quân chủ Phổ, nhà nước lý tưởng!
- Phoi-ơ-bắc: Đạo đức chỉ tồn tại trong quan hệ người. Nhiệm vụ đạo đức học là khám
phá ra con đường tới sự hài hòa giữa nghĩa vụ và hạnh phúc, giữa lợi ích.
V. Một số trào lưu triết học Phương Tây hiện đại
1. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học phương Tây hiện đại
- Từ giữa TK XIX, khoa học – kỹ thuật phát triển -> CNTB phát triển mạnh. Con người
vươn lên làm chủ hồn cảnh. Song chính điều này khiến con người phụ thuộc và KH-KT,
chịu tác động trở lại của các thành tựu, thành nạn nhân của KH-KT…
- Hồi nghi, mất lịng tin vào lịch sử, mất nhân tính. (Sức mạnh của nó càng tăng lên bao
nhiêu thì nó càng trở nên nghèo nàn bấy nhiêu)
-> Nét đặc thù của TH P.Tây hiện đại là diễn ra theo hướng có sự điều hịa mâu thuẫn

giữa khoa học với tơn giáo, sự tách biệt đối lập giữa CN duy lý và chủ nghĩa nhân bản.
18


-> Ba trường phái chủ yếu: chủ nghĩa duy khoa học, chủ nghĩa nhân bản phi duy lý, chủ
nghĩa Tô-mát mới.
2. Một số nội dung
a. Triết học duy khoa học
- Đại diện là chủ nghĩa thực chứng: Chỉ có những khoa học cụ thể mới cung cấp tư liệu
thiết thực. Khoa học tự nó đã là triết học.
+ Ơ-gt-tơ Cơng-tơ (1789-1957): người sáng lập chủ nghĩa thực chứng.
b. Triết học nhân bản phi duy lý
- Trong vấn đề con người và xã hội, giai cấp tư sản không muốn thừa nhận quy luật khách
quan của sự phát triển nên họ đề cao chủ nghĩa phi duy lý, hình thành trào lưu triết học
nhân bản phi duy lý. Xu hướng của trào lưu này là xóa bỏ lý tính, coi cơ sở của triết học
là trực giác thể nghiệm trực tiếp và trình bày quá trình phát triển của tư nhiên, xã hội như
cái gì vơ lý, khơng quy luật và vơ nghĩa.
- Hình thức thể hiện là “triết học cuộc sống”, “triết học hiện sinh”, triết học Phơ-rớt”.
c. Triết học tôn giáo
- Chuyên suy luận triết học độc lập về Chúa và tơn giáo. Điển hình là chủ nghĩa Tơ-mát
mới.
Dựa trên cơ sở triết học Tô-mát Đa-canh. Lấy Chúa làm nòng cốt, lấy đức tin là tiền đề,
lấy thần học làm căn cứ.
+ Lấy Chúa làm nguyên tắc tối cao, nhưng vẫn thừa nhận nhất định vai trò của khoa học.
Vấn đề là dung hòa giữa tri thức và đức tin, khoa học và thần học.

19


CHƯƠNG IV: KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

I. Điều kiện ra đời triết học Mác
1. Điều kiện kinh tế- xã hội
- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách
mạng công nghiệp
Cuộc cách mạng công nghiệp, LLSX phát triển, PTSX TBCN được củng cố vững chắc, :
"Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những
lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn LLSX của tất cả các thế hệ trước kia gộp
lại".(C.Mác và Ph,Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, t.4, tr.603.)
Chủ bao mua và những người thợ kéo sợi
Máy kéo sợi Gien ny
G.Oát (1736 - 1819)- người hoàn thành việc phát minh ra máy hơi nước
Xe lửa Xti phen xơ
Máy móc trong nông nghiệp
Một trong những hệ quả quan trọng nhất của cách mạng công nghiệp Anh là sự thay đổi
căn bản trong cấu trúc giai cấp của dân cư Anh: Tư sản và vô sản trở thành hai giai cấp cơ
bản trong xã hội.
Tạo tiền đề cho sự phát triển về mọi mặt của xã hội: nó xóa bỏ chế độ quân chủ chuyên
chế phong kiến, thiết lập thể chế cộng hòa, dân chủ tự do.
Những mâu thuẫn xã hội bộc lộ ngày càng rõ rệt và gay gắt, xung đột giữa tư sản và vô
sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
- Sự xuất hiện giai cấp vơ sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị- xã
hội độc lập
Vào những năm 30- 40 của thế kỷ XIX phong trào đấu tranh của giai cấp cơng nhân từ tự
phát sang tính chất tự giác.
Giai cấp tư sản khơng cịn đóng vai trị là giai cấp cách mạng
Giai cấp vô sản tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Nhu cầu lý luận của thực tiễn cách mạng
Thực tiễn xã hơi, địi hỏi phải được soi sáng bằng lý luận nói chung và triết học nói riêng.
Nhiều học thuyết, quan điểm lý luận về triết học, kinh tế và chính trị xã hội xuất hiện.
Nhu cầu lý luận của thực tiễn cách mạng

Sự xuất hiện giai cấp vơ sản tạo cơ sở cho sự hình thành lý luận cách mạng. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đáp ứng được u cầu, trong đó triết học đóng vai trị là cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận.
2. Tiền đề lý luận
20


C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa có phê phán Triết học cổ điển Đức,Kinh tế chính trị học
Anh, Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
- Triết học cổ điển Đức
+ G. Hêghen (1770-1831)
Là người đầu tiên xây dựng triết học thành một khoa học, trình bày các quy luật của phép
biện chứng.
Nhưng xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan, nên phép biện chứng của ông là phép
biện chứng duy tâm.
Sự kế thừa của Mác và Ăngghen đối với hệ thống triết học Hêghen
C.Mác và Ph.Ăngghen đã lọc bỏ những yếu tố duy tâm, thần bí, kế thừa, phát triển phép
biện chứng của Hêghen, xây dựng PBCDV
+ Triết học Phơbách (1804- 1872)
Là CNDV nhân bản, siêu hình.
Duy tâm trong việc giải quyết các vấn đề xã hội.
Sự kế thừa của Mác và Ăngghen đối với hệ thống triết học Phơbách
Phê phán quan điểm siêu hình về tự nhiên, duy tâm trong quan niệm về xã hội của
Phơbách, xây dựng nên CNDVBC cả về tự nhiên và xã hội.
- Đại biểu của kinh tế chính trị họcAnh : Ricácđơ (1772 - 1823), A.Xmith (1723 - 1790)
Từ tư tưởng kinh tế của A. Xmith, Ricácđô, về học thuyết giá trị, C.Mác đã nhận ra rằng,
kinh tế là yếu tố quy định quy luật vận động của lịch sử, từ đó hồn thiện quan niệm duy
vật lịch sử, xây dựng nên các học thuyết kinh tế.
- CNXH không tưởng Pháp
Tư tưởng của S. Phuriê (1772 - 1837) và Xanh Ximông (1769 - 1825) về hình mẫu xã hội

cộng sản dựa trên chế độ công hữu và lao động tập thể.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục tính khơng tưởng trong học thuyết của Xanh Xi
mông và Phuriê, CNXH từ không tưởng trở thành khoa học.
3. Những tiền đề khoa học tự nhiên
Sự phát triển của triết học nói chung, triết học duy vật nói riêng, khơng thể tách rời với sự
phát triển của các khoa học cụ thể, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Như Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ, mỗi khi KHTN có những phát minh mang tính chất vạch thời đại thì CNDV khơng thể
khơng thay đổi hình thức của nó.
Những tiền đề khoa học tự nhiên
Ba phát minh trong KHTN vạch thời đại giữa thế kỷ XIX :
21


Định luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng.
Thuyết tế bào
Thuyết tiến hóa của Đacuyn.
Những phát minh đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất, các hình thức vận động vật chất
của thế giới, tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
Chứng tỏ rằng, sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử. Đòi hỏi vĩ nhân xuất
hiện
II. Những giai đoạn chủ yếu trong hình thành và phát triển triết học Mác-Lênin
1. Giai đoạn Mác-Ăngghen
a. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen từ CNDT và dân chủ cách
mạng sang CNDV và CSCN.
Các-Mác (5.5.1818 – 14.3.1883)
Bước đầu hoạt động chính trị
Tác phẩm khoa học đầu tiên là luận án tiến sĩ, với đề tài “Sự khác nhau giữa triết học tự
nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpiquya” bảo vệ năm 1841.
Nội dung luận án mang màu sắc triết học và chính trị. Nội dung luận án đứng trên lập trường duy tâm của Hêghen.
Phri đrích Ăngghen (28.11.1820 – 5.8.1895)

Năm 1839, Ăngghen xuất bản Những bức thư từ Vesphali, nội dung thư có thiện cảm sâu
sắc với cơng nhân.
Năm 1841, Ăngghen đi Béclin làm nghĩa vụ quân sự.
Báo Sông Ranh (cuối 1842 đến đầu 1843) đánh dấu sự chuyển biến từ CNDT sang
CNDVBC, từ CNDCCM sang CNXHKH của Mác và Ăngghen
Chủ đề những bài báo của Mác là bảo vệ lợi ích của những người lao động.
Chính phủ phản động Phổ đóng cửa tờ báo năm 1843, kết tội Mác tuyên truyền cách
mạng và tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản.
Tháng 11 năm 1843, Mác đến Pari xuất bản tạp chí Niên giám Pháp - Đức. 2 tác phẩm
Góp phần vào vấn đề châu Âu và Góp phần phê phán triết học Pháp quyền của Hêghen.
Lời nói đầu.
Mác đoạn tuyệt với CNDT và chống lại phái Hêghen trẻ là Brunô Baue.
Đến 1844 Mác và Ăngghen cùng viết trên tờ Niên giám Pháp - Đức, mở đầu tình bạn vĩ
đại của 2 ông.
b. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
- Năm 1844, Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học, t.42
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, xoá bỏ chế độ tư hữu, trả lại bản chất người đích
thực cho con người.
Khởi thảo những nguyên lý xuất phát của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
22


vật lịch sử, luận chứng cho thế giới quan cộng sản chủ nghĩa.
- Năm 1845, Ăngghen xuất bản cuốn Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh, (Tập 2,
tr317-398)
Chỉ ra vai trị lịch sử của giai cấp vơ sản trong việc thủ tiêu chủ nghĩa tư bản.
Giai cấp vô sản không chỉ là giai cấp đau khổ mà địa vị kinh tế - xã hội của nó buộc nó
phải đấu tranh giải phóng đến cùng.
- Năm 1844 - 1846, Gia đình thần thánh
Phê phán phái Hêghen trẻ

- 1845: "Luận cương về Phoiơbắc" - chỉ ra những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ và "
khẳng định: Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song
vấn đề là cải tạo thế giới " (C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, t.3, tr.12).
Từ "Sự khốn cùng của triết học" đến "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản": sự kết thúc quá
trình hình thành của chủ nghĩa Mác.
Tác phẩm: Sự khốn cùng của triết học. Trả lời cuốn Triết học về sự khốn cùng của
Pruđông (1847). Là tác phẩm đầu tiên chín muồi về chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Là văn kiện có tính chất cương lĩnh của thế giới quan
mác xít, hoàn thành chủ nghĩa Mác, là cương lĩnh của tổ chức "Đồng minh những người
cộng sản" do Mác và Ăngghen soạn thảo từ tháng 12 năm 1847 đến tháng Giêng năm
1848
Từ 1848 - 1852, Mác và Ăngghen đã xuất bản một loạt tác phẩm, tổng kết kinh nghiệm
của cách mạng phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa xã hội
khoa học:
Cách mạng và phản cách mạng ở Đức Ăngghen 1852;
Đấu tranh giai cấp ở Pháp. C.Mác 1850;
Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ C.Mác 1852;
c. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển những quan điểm triết học
Sau "tuyên ngôn của Đảng cộng sản", các sự cách mạng 1848 - 1849 ở Đức, Pháp, áo, ...
Công xã Pari (1871), thành lập Quốc tế I (1864 - 1872). Sau 1861, Nga bắt đầu phát triển
chủ nghĩa tư bản. Đầu những năm 70, nước Đức được thống nhất. Các nước Đông Âu,
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị. Chủ nghĩa tư bản ở Mỹ, Nhật phát triển. Các
quan điểm triết học của Mác và Ăngghen được tiếp tục phát triển trong các tác phẩm tiếp
theo.
Chủ nghĩa Mác, trở thành hệ tư tưởng khoa học được thừa nhận trong phong trào công
nhân của những nước lớn ở Tây Âu.
Nhiều vấn đề triết học cần được giải quyết triệt để hơn nữa nhất là phải nghiên cứu kinh
23



tế - chính trị học ở một trình độ cao hơn để phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa; điều đó sẽ làm cơ sở cho việc phát triển thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản.
Trong năm 1848 - 1852, Mác và Ăngghen tổng kết kinh nghiệm của cách mạng qua các
tác phẩm:
Cách mạng và phản cách mạng ở Đức (Ăngghen 1852)
Đấu tranh giai cấp ở Pháp , (C.Mác 1848 - 1850)
Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ (C.Mác 1852)
... Trong các tác phẩm này, chủ yếu các ông phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó đặc biệt là học thuyết về chun chính
vơ sản và cách mạng.
Những vấn đề cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử được phát triển trong bộ Tư bản.
- Công xã Pari (1871) đánh dấu chủ nghĩa tư bản công nghiệp thành chủ nghĩa đế quốc.
- Chủ nghĩa Mác đã hợp nhất được phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội.
- Cuộc cách mạng vơ sản nhằm giành Chính quyền về tay giai cấp cơng nhân và thiết lập
chính quyền vơ sản.
Nội chiến ở Pháp (1871) Mác đã tổng kết kinh nghiệm của Cơng xã, hình thức Nhà nước
của chun chính vơ sản
Phê phán Cương lĩnh Gôtha (1875), làm phong phú thêm học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội, tính tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. chỉ rõ hai giai đoạn của hình
thái xã hội cộng sản chủ nghĩa, cơ sở phân chia giai đoạn và những đặc điểm cơ bản của
các giai đoạn.
Chống Duyrinh (1878), Ăngghen đã hoàn thành tất cả những nguyên lý của triết học mác
xít, các phạm trù, quy luật của triết học, chủ nghĩa duy vật lịch sử, bảo vệ nguyên tắc tính
Đảng trong triết học, vấn đề cơ bản của triết học, định nghĩa về vận động.
Mác là nhà toán học Ăngghen đã để nhiều năm nghiên cứu khoa học tự nhiên, đã khái
quát lịch sử khoa học tự nhiên về mặt triết học trong tác phẩm nổi tiếng của mình phép
biện chứng của tự nhiên.
Trong tác phẩm này, Ăngghen đã luận chứng một tư tưởng là: sự phát triển của các khoa
học tự nhiên, mở đầu từ thời đại Phục Hưng, diễn ra theo con đường mà đến giữa thế kỷ

XIX, khoa học tự nó, tuy khơng nhận thức được điều đó, đã tiếp cận cách biểu hiện chứng
về giới tự nhiên. Phép biện chứng của tự nhiên . Qua việc phan tích tính lịch sử khoa học
tự nhiên, Ăngghen chỉ rõ phương pháp tư duy siêu hình được quy định bởi lịch sử và là
tất yếu trong thời đại của nó. Vào thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình giúp cho khoa học
tự nhiên hệ thống hố các tài liệu đã tích luỹ được; đến ci thế kỷ XVIII, phương pháp
tư duy ấy bắt đầu bị loại bỏ, và vào giữa thế kỷ XIX thì nó hồn tồn biến thành xiềng
xích lớn nhất kìm hãm sự phát triển của khoa học tự nhiên. Đồng thời, nó lại được giai
cấp tư sản củng cố vì lợi ích của giai cấp đó. Vì thế phương pháp siêu hình giữa thế kỷ
24


XIX đưa các nhà khoa học tự nhiên đến với thần học.
Trong tác phẩm này, Ăngghen phân loại các hình thức vận động của vật chất mà điều đó
có một ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Về thực chất,
Ăngghen trình bày giả thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của thế giới vật
chất, và cố gắng phác hoạ một sơ đồ về bức tranh của giới tự nhiên...
Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX trong thế kỷ XX đem lại những cái
mới mà những quan điểm của Ăngghen về các hình thức vận động vật chất đã lạc hậu.
Nhưng, việc tiếp cận biện chứng chung đến chỗ hiểu được các kết quả phát triển khoa
học, đến việc giải thích giới tự nhiên vẫn còn giữ nguyên ý nghĩa của chúng trong thời đại
ngày nay.
việc vận dụng và phát triển phép biện chứng duy vật được nghiên cứu trong các tác phẩm:
Nội chiến ở Pháp (1871);
Phê phán Cương lĩnh Gôta (1875) của Mác;
Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học (1880);
Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của Nhà nước (1884);
Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886) của Ăngghen.
Như Mác viết trong "Lời tựa" cho tác phẩm Góp phần phê phán khoa học kinh tế - chính
trị, lịch sử triết học Mác chứng tỏ toàn bộ quan điểm của Mác và Ăngghen là kết quả
nghiên cứu trung thực của nhiều năm; tính chân lý và tính cách mạng của nó khơng có gì

đáng nghi ngờ. Và triết học Mác, ngay từ khi mới ra đời, đã biểu hiện ra không phải là
những điều cứng nhắc, mà là kim chỉ nam cho hành động. Đó là học thuyết triết học sinh
động, luôn phát triển một cách sáng tạo trong mối liên hệ hữu cơ với thực tiễn và các
khoa học khác.
2. V.I. Lênin (1870-1924) bảo vệ và phát triển triết học Mác
a. Hoàn cảnh lịch sử
- Cuối thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản chuyển sang đế quốc . Chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát
triển.
Đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản ngày một tăng cường. Đấu tranh giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh.
Trung tâm cách mạng chuyển từ Đức sang Nga. Giai cấp vô sản Nga trở thành đội tiên
phong của phong trào công nhân quốc tế, cùng với giai cấp nông dân đã thực hiện cuộc
cách mạng dân chủ tư sản, sau đó tiếp tục phát triển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở đầu cho
một thời đại mới.
- Khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đòi hỏi sự khái quát về mặt triết
học, trả lời những câu hỏi mà thời đại đặt ra. Các thứ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy
vật siêu hình đã không đưa ra được câu trả lời đúng đắn.
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×