Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Đặc trưng truyện ngắn và quan niệm về con người qua tác phẩm Một con người ra đời của nhà văn Maksim Gorky

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.19 KB, 31 trang )

MAKSIM GORKY
MỘT CON NGƯỜI RA ĐỜI
TIỂU SỬ MAKSIM GORKY
Maksim Gorky là ai? Đây có lẽ là một câu hỏi lạ lùng, bởi lẽ, đối
với tất cả bạn đọc yêu văn chương trên tồn thế giới khơng một ai
là khơng biết đến cái tên của một nhà văn Nga vĩ đại. Maksim Gorky
( 28/3/1968 - 18/6/1936) là nhà văn kiệt xuất, chủ sối của nền văn
học cách mạng ở Liên Xơ. Nhưng nếu chỉ một chiều và đơn giản thế
thơi thì khơng đủ để tạo nên chất riêng của ơng. Ơng là một người
nghệ sỹ của văn học Nga, cuộc đời và sự nghiệp của ơng nằm trọn
trong dịng chảy của nền văn chương Nga vĩ đại. Sáng tác của ơng
có sức ảnh hưởng to lớn đến tồn bộ khơng chỉ nhân dân Nga mà
cịn là nhân dân trên tồn thế giới.
Maksim Gorky tên thật là Aleksey Maksimovich Peskov, sinh ra
tại thành phố công nghiệp bên bờ sông Volga trong một gia đình lao
động. Cái tên Gorky xuất hiện khi ơng đặt chân vào làng văn, nó
mang ý nghĩa là “ cay đắng” hay cũng là ý chỉ, ông là nhà văn xuất
thân từ những điều cay đắng của “ những lớp người dưới cùng của
xã hội”. Cái tên này cũng phản ánh sự tức giận của ông với đất nước
Nga thời đó. Gorky sống cùng ơng bà khi cha mẹ qua đời vào năm
ông 10 tuổi, cái chết của bà đã ảnh hưởng rất lớn đến ông. Gorky
làm nhiều công việc, và cũng chính từ đó đã tích lũy được rất nhiều
vốn kiến thức cho con đường văn chương sau này của ông.
Trước khi bước đến với văn học, Maksim Gorky làm việc trên
cương vị là một nhà báo. Các bài viết của ông gây ấn tượng mạnh
mẽ tới người đọc, thu được những thành cơng bước đầu. Ơng viết
khơng ngừng, phản ánh rõ nét cuộc sống khổ cực của người dân để
đánh thức lương tâm con người trong họ. Ngịi bút của ơng chú tâm


vào hiện thực tàn khốc mà con người phải chịu, đồng thời cũng từ


đó làm nổi bật phẩm chất lương thiện của người dân.
Danh tiếng cũng như giọng văn của ông gây ảnh hưởng mạnh
mẽ và có tác động rất lớn đến tầng lớp công nhân, đặc biệt là các
công nhân “ có ý thức”. Ở trung tâm của mọi tác phẩm của ông là
một niềm tin ở giá trị vốn có và khả năng của con người . Tuy nhiên,
cả các tác phẩm cũng như những bức thư của ông cho thấy một
"con người không ngừng nghĩ" (một người thường xem xét lại mình)
đấu tranh để giải quyết những tình cảm về đức tin và thái độ hồi
nghi trái ngược bên trong, tình yêu cuộc sống và sự phẫn nỗ với sự
tầm thường và nhỏ mọn của thế giới con người.
Những năm 1900 tới 1905 là giai đoạn gia tăng tính lạc quan
trong các tác phẩm của Gorky. Ơng tham gia vào phong trào đối
lập, và vì thế ơng lại bị bỏ tù trong một thời gian ngắn vào năm
1901. Năm 1906, Gorky đã viết tác phẩm nổi tiếng của mình về đấu
tranh và chuyển biến cách mạng mang tên “ Người mẹ”. Những trải
nghiệm của ơng tại đó - gồm cả một scandal về việc ông đi cùng
người tình chứ khơng phải vợ - đã làm sâu sắc hơn sự khinh miệt
của ông với "tâm hồn tư sản" và cả với sự ngưỡng mộ của ơng với
tính dũng cảm của tinh thần Mỹ.
Maksim Gorky cũng là bạn thân của một nhà văn nổi tiếng
người Nga khác là Lev Nikolayevich Tolstoy. Tuy nhiên, họ có những
điểm khác nhau về thân thế và quan điểm: trong khi Tolstoy sinh ra
trong một gia đình giàu có, Gorky lại là một người thuộc giai cấp vơ
sản. Ơng là người chủ trương thay đổi nước Nga trong khi Tolstoy lại
không muốn sự bất cơng bị tiêu diệt bằng vũ lực. Ơng là một người
khơng có niềm tin tơn giáo, trong khi Lev Tolstoy lại là một người
đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Ngoài ra, về tuổi tác thì ơng thua
Tolstoy đến 40 tuổi. Nhưng họ có một điểm tương đồng là tình u



với văn học. Gorky trở thành một đại văn hào nước Nga ở thế kỷ 20,
tuy nhiên ông cũng ảnh hưởng văn học thế kỷ 19 của các nhà văn
Tolstoy, Chekhov và cả một người thường bị ơng chỉ trích - Fyodor
Mikhailovich Dostoevsky.
Từ năm 1906 tới năm 1913, Gorky sống trên đảo Capri, một
phần vì lý do sức khỏe và một phần để tránh khơng khí đàn áp
ngày càng gia tăng tại Nga.Ơng tiếp tục ủng hộ cơng việc của đảng
dân chủ xã hội Nga, đặc biệt là những người Bolshevik, và viết các
tiểu luận hưu cấu và văn hóa. Trong khoảng 2 năm 1921-1922, nạn
đói lớn đã xảy ra tại các vùng nông thôn của nước Nga, đặc biệt là ở
khu vực sông Volga và Ural, giết chết khoảng 2 triệu tới 5 triệu
người. Maxim Gorky đã phải lên tiếng kêu gọi cộng đồng quốc tế
giúp đỡ nước Nga. Năm 1933, Gorky xuất bản một cuốn sách về
Kênh Biển Trắng-Baltic, được trình bày như một ví dụ về sự tích cực
của việc cải tạo lao động đã biến một người từ xấu thành tốt, đó là
"sự hồi sinh thành công của những kẻ thù của giai cấp vô sản". Ông
viết hàng loạt tác phẩm, ghi lại những cảm xúc của mình về nước
Nga mới - nước Nga Xơ viết. Đặc biệt quan tâm đến sự ra đời và
trưởng thành của nền văn học Xô viết, ông dốc nhiều tâm sức cho
việc thành lập Hội Nhà văn Liên Xô và chuẩn bị cho Đại hội lần đầu
tiên của Hội vào năm 1934. Đại hội này đã đánh dấu sự ra đời của
khái niệm chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa - một trào lưu nghệ
thuật mới mà Gorky được xem như là ngọn cờ đầu trong sáng tác
(với tác phẩm "Người mẹ"), đồng thời cũng là một trong những
người đầu tiên đặt nền tảng lý luận. Gorky được tôn vinh là cha đẻ
của nền văn học xã hội chủ nghĩa, là nhà văn Nga vĩ đại nhất trong
thế kỷ 20.
Tuy nhiên, cái chết bất ngờ của con trai ông là Maxim Peshkov
tháng 5 năm 1934 được nối tiếp bởi cái chết của chính Maxim Gorky



vào tháng 6 năm 1936. Vào thời đó, những lời đồn đốn đã rộ lên về
hồn cảnh cái chết của ông. Trong những phiên xét xử mẫu với
Bukharin năm 1938, một trong những cáo buộc là Gorky đã bị giết
hại bởi các nhân viên thuộc NKVD ( Bộ Dân ủy Nội bộ Liên Xô) của
Yagoda.Tuy nhiên, về sau cái chết của ông đã được xác định là do
bệnh lao phổi và truỵ tim.
Ở thời Liên bang Xô viết, trước và sau khi ông mất, những sự
phức tạp trong đời sống và quan điểm của Gorky đã bị giảm xuống
còn một hình ảnh biểu tượng (được ca ngợi trong những bức tranh
hùng ca và những bức tượng ở những vùng nông thôn): Gorky như
một tác giả Nga vĩ đại xuất thân từ người dân thường, một người
bạn trung thành của những người Bolshevik, và người sáng lập và
ngày càng thích hợp với "chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa". Trái
lại, các trí thức bất đồng coi Gorky là một tác gia có khuynh hướng ý
thức hệ. Ngày nay, một sự cân bằng lớn hơn đã được tìm thấy trong
những tác phẩm về Gorky, theo đó chúng ta thấy một sự tán thưởng
ngày cảng lớn về khía cạnh tinh thần phức tạp về đời sống Nga hiện
đại được thể hiện trong những tác phẩm của ông. Một số nhà sử học
đã bắt đầu coi Gorky như một trong những nhà quan sát sâu sắc
nhất về cả những hứa hẹn và những nguy hiểm của cách mạng tại
Nga. Và dù có nhiều ý kiến trái chiều như thế nào, chúng ta cũng
không thể phủ nhận những ảnh hưởng mà Maxim Gorky đã tạo nên
đối với nhân dân toàn thế giới. Sau tất cả, ông vẫn là một nhà văn,
là người đặt nền móng cho trường phái hiện thực xã hội chủ nghĩa
trong văn chương và là một nhà hoạt động chính trị người Nga kiệt
xuất.
ĐẶC TRƯNG TRUYỆN NGẮN CỦA MAKSIM GORKY
Thử bút qua nhiều thể loại khác nhau, song truyện ngắn vẫn là
“đứa con tinh thần” mà M.Gorky được ưu ái hơn cả, đồng thời cũng



được viết trong nhiều thời kì sáng tác của nhà văn. Là “người đại
diện lớn nhất của nghệ thuật vô sản”, cuộc đời và sự nghiệp sáng
tác của Gorky gắn chặt với phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động nghèo khổ. Giở từng trang sách của
Gorky, người đọc có thể thấy được từng chặng đường phát triển của
phong trào cơng nhân từ “buổi bình minh”, thời kì “phơi thai” đến
thắng lợi, đỉnh vinh vang. Chúng được viết ra từ chính kinh nghiệm
từng trải, từ máu và nước mắt của nhà văn, từ tiếng rên quằn quại
trong đau đớn, tiếng thét nhói tận tâm can của quần chúng lao khổ.
Chính vì lẽ đó mà truyện ngắn của M.Gorky được biết đến với chất
lãng mạn bay bổng, tràn đầy hi vọng; khi lại giằng xé bởi những
hiện thực ngang trái, cũng có lúc lại xen kẽ hai bút pháp này một
cách tài tình.
I.

Đặc trưng nội dung

1.

Truyện ngắn lãng mạn

Viết những tác phẩm lãng mạn, Gorky đã kế thừa truyền thống
lãng mạn tiến bộ của các nhà văn nổi tiếng như Puskin,
Lermentov…Ngay từ nhỏ Gorky cũng rất say mê các nhân vật lãng
mạn, sôi nổi chan chứa khát vọng tự do trong sáng tác của Sile,
Bairơn. Nhưng quan trọng hơn hết là ông đã tiếp thu sâu sắc sức
sống mãnh liệt, bất khuất, luôn vươn dậy mạnh mẽ của nhân dân,
biểu hiện trong những truyền thuyết, cổ tích…

Hơn nữa trong những năm 90 giai cấp vơ sản Nga đã bắt đầu
bước lên vũ đài chính trị nhưng đây chỉ mới là “buổi bình minh của
phong trào”. Lúc này ”những cán bộ đầu tiên của giai cấp chiến đấu
tương lai mới bắt đầu hình thành và những khối óc đang bị xâm
chiếm với những tư tưởng đấu tranh còn lờ mờ, tản mạn”. Gorky
muốn thổi vào những con người héo hon, tàn tạ, tầm thường, dung
tục xung quanh mình bằng những lời văn hùng tráng, chấp cánh


cho tâm hồn để “khích lệ con người đã bị cuộc sống dơ bẩn làm
nhục chí và đẩy vào cảnh sa đoạ” (truyện Người độc giả, 1894). Từ
đó cảm hứng chủ đạo nổi bật trong các tác phẩm lãng mạn
của ông là ca ngợi tự do, ca ngợi chiến công, ca ngợi những
con người tràn đầy ý chí bất khuất, chiến đấu và dành chiến
thắng, ca ngợi cuộc sống anh hùng và những rung cảm tinh
tế trước vẻ đẹp thiên nhiên.
1.1. Ca ngợi cuộc sống tự do
Trước hết, Gorky cho rằng: “Tự do là thứ quý giá nhất trong
cuộc đời con người”. Ông đề cao giá trị của tự do, xếp tự do lên
trên cả tình yêu, trên cả sự sống, đây cũng chính là truyền thống
ngàn đời của nhân dân lao động. Bởi thế mà các nhân vật của Gorky
sẵn sàng từ bỏ cả tình yêu và cuộc sống của mình chỉ để bảo vệ sự
tự do. Quan niệm này đã thể hiện ý thức sâu sắc của Gorky về cuộc
sống đích thực. Trong truyện ngắn "Macar Tsudra" (1892), tác giả
đã để cho nhân vật đúng trước sự lựa chọn giữa một bên là tình u
đơi lứa và một bên là tình yêu tự do; một bên là sự sống và một bên
là cái chết. Câu chuyện nếu mới chỉ nhìn qua thì giống như một bi
kịch tình yêu nhưng thực chất, nó là câu chuyện về một cách sống cách sống tự do. Lơiki, Radda có tình u tự do vô cùng mãnh liệt.
Họ không thể đánh đổi tự do bằng bất cứ giá nào, dù đó là tình u.
Viết trang truyện này, nhà văn khơng nhằm hạ thấp giá trị của tình

yêu mà tình yêu của hai nhân vật xuất phát từ sự đồng cảm trong lý
tưởng sống, lý tưởng về tự do. Như vậy lý tưởng tự do vừa là nhân tố
nảy sinh tinh yêu vừa là thước đo tình u. Qua đó, ta thấy sự xung
đột giữa tình yêu và tự do dẫn đến cái chết đầy tinh bi kịch lãng
mạn của đôi trai gái Txugan, Lôikô và Radda trong “Macar Tsudra”.
Họ chết với tư cách những người bất khuất. Tác phẩm mở đầu cuộc
đời sáng tác của Gorky là một khúc ca bi tráng về ý chí tự do, bất


khuất của con người.
1.2. Ca ngợi chiến công, ca ngợi những con người
tràn đầy ý chí bất khuất, chiến đấu và dành chiến thắng
Trong văn học thế giới có lẽ khó có thể tìm thấy một nhà văn
nào lại có những cảm nghĩ sâu sắc, biểu hiện một tình yêu nồng nàn
đối với con người như Gorky: “Tơi khơng cịn biết có gì tốt đẹp hơn,
phức tạp hơn, thú vị hơn con người. Con người là tất cả. Nó sáng tạo
ra cả Thượng đế”...và...“Cái chân lí cao nhất mà tơi biết và tôi yêu
là con người là cả một thế giới, dưới một cái bia đá được chôn cất cả
vũ trụ”. Chính vì lẽ đó mà hình tượng con người dũng cảm, làm chủ
cuộc sống, có khả năng cải tạo hiện thực xung quanh trong văn
chương của “nhà nghệ sĩ vĩ đại” cũng được khắc họa rõ nét.
Cao trào cách mạng Nga đầu thế kỉ XX đã chấp cánh cho cảm
hứng lãng mạn của Gorky bay cao hơn trong truyện Bài ca chim
báo bão (1901). Hình ảnh chim báo bão với những so sánh táo bạo
“tựa hồ như một ánh chớp đen, như một mũi tên chọc thủng các
tầng mây..”, với những tiếng thét chứa đựng lòng căm thù, khát
vọng chiến đấu, hạnh phúc và niềm tin của người chiến sĩ trên nền
của một cơn bão biển đang sôi sục, là tượng trưng cho nghị lực và
lực lượng cách mạng vĩ đại của giai cấp công nhân Nga. Đối lập với
chim báo bão là những loài chim đần độn, nhút nhát, chỉ ưa chuộng

cuộc sống phong lưu an nhàn, sợ hãi mọi sự biến động. Hình ảnh
chúng ám chỉ lớp tiểu thị dân tầm thường, dung tục đang sợ hãi
cách mạng. Chim báo bão bay lượn ngang tàng và tự do. Nó cười
nhạo mây đen, nó nức nở vui mừng và reo hò kêu gọi bão táp “dữ
dội hơn nữa, bão táp háy nổi lên!”. Bài ca chim bão bão thể hiện
bước khải hoàn của phong trào cách mạng Nga và tâm trạng vui
mừng của hàng triệu quần chúng đang đứng lên làm chủ cuộc đời.
Tác phẩm dài khoảng một trang giấy, ngay khi nó mới ra đời đã


được người ta chép tay hoặc in tới hàng triệu bản, phổ biến rộng rãi
khắp nơi, nhằm cổ vũ mãnh liệt khí thế cách mạng của nước Nga.
Trong bài báo mang tên “Trước cơn bão táp” Lênin đã trích dẫn lời
kêu gọi của chim báo bão “Dữ dội hơn nữa, bão táp hãy nổi lên!”.
Không những viết về những người anh hùng, kiêu hãnh, phi
thường…Gorky còn viết về những người lao động bình thường thể
hiện rõ nét những yếu tố lành mạnh, giàu sức sáng tạo đang tiềm
tàng trong nhân dân Nga. Trong truyện Một con người ra
đời (1912) tác giả đã miêu tả sự ra đời của một con người như một
sự kiện thiêng liêng, nó đem lại niềm vui lớn cho người mẹ và cho
cả thiên nhiên hùng vĩ tuyệt đẹp.
Văn học không chỉ miêu tả cuộc sống mà qua cuộc sống đó để
khích lệ lịng dũng cảm và ý chí chiến đấu của con người
nhằm giành lấy tương lai tốt đẹp cho họ. Trong “Về con chim
yến nói dối và con gõ kiến u chân lí”(1893), chim yến đã kêu
gọi mọi loài chim hãy tin tưởng vào bản thân “đã đến lúc các bạn
phải tin tưởng vào mình “và nó khích lệ lịng tự hào, ý chí chiến đấu
của mọi lồi chim để có một tương lai tràn đầy ánh sáng và tự do
“chúng ta không được mệt mỏi, chúng ta phải luôn luôn đấu tranh
và chiến thắng tất cả để tỏ ra xứng đáng với giá trị của mình để có

quyền nói rằng: tất cả q khứ, hiện tại và tương lai chính là của
chúng ta “và “con đường chúng ta phải đi… tôi tin chắc rằng…ở đấy
có một xứ sở xứng đáng làm phần thưởng cho những khó khăn nhọc
nhằn mà chúng ta phải chịu đựng ở dọc đường! Ở đấy, ánh sáng
vĩnh viễn không bao giờ tắt, ở đấy những điều kì diệu mà chúng ta
chưa từng biết…Hãy đến đấy – đến nước của hạnh phúc! Nơi chiến
thắng vĩ đại đang chờ đón chúng ta, nơi chúng ta sẽ là người đang
làm ra pháp luật của thế giới và là chúa tể của thế giới, nơi chúng ta
sẽ là chúa tể của vạn vật…Hãy tới đấy! – tới cái tiến lên kì diệu ấy!”.


Giữa lúc trong thực tế đã bắt đầu nổi lên khuynh hướng phát
triển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ
nghĩa do Lênin và Đảng Bônsêvich chủ trương, Gorky bằng nghệ
thuật đã phát biểu về sự cần thiết phải đoàn kết tất cả những người
lao động trong một tổ chức chính trị chặt chẽ để tiến hành một cách
có hiệu quả cuộc đấu tranh vì tự do trong truyện Đồng chí (1906).
Đồng thời, qua tác phẩm Gorky cịn ca ngợi sự đồn kết nhất trí của
giai cấp vô sản Nga trong cuộc cách mạng 1905, nhất là trong cuộc
tổng bãi cơng của cơng nhân tồn nước Nga tháng 10.1905.
Trong tác phẩm Người độc giả (1895) Gorky địi hỏi văn học
phải “nói đến những quay cuồng trong đầu óc con người, đến sự cần
thiết hồi sinh của trí tuệ”, phải lên tiếng “kêu gọi làm cho cuộc đời
thắng lợi”, phải cho con người những bài học dũng cảm những dịng
chữ sơi nổi chấp cánh cho tâm hồn” để khích lệ con người đã bị
cuộc sống dơ bẩn làm nhục chí và đẩy vào cảnh sa đọa”
Chủ đề về sự hình thành tính cách con người là một trong
những

chủ


đề

quan

trọng

trong

sáng

tác

của

M.Gorky.

Truyện Sách (1915), truyện Tôi đã học tập như thế nào (1918)
khơng chỉ nói đến việc hình thành tính cách của tác giả thời thơ ấu,
thời niên thiếu, thời thanh niên mà cịn góp phần giải quyết vấn đề
tính cách dân tộc Nga nói chung. Đối với Gorky, sách vở là người
bạn tri kỉ, là người thân yêu trong cảnh cô đơn, trong cuộc sống địa
ngục chán chường, đơn điệu mà thỉnh thoảng người ta lại khuấy
động lên bằng những trị man rợ. Sách là cái chìa khóa mở cửa cho
ông vào một thế giới mới ”nơi mà mọi cái đều hợp lí hơn”, nhưng
sách cũng khơng làm cho ông trốn tránh cuộc đời thực, xa lánh mọi
người mà ngược lại, nó cịn cho ơng lịng tin vào, kích thích thái độ
của ơng đối với cuộc sống, khát vọng muốn cải tạo hiện thực, và
làm cho con người tốt đẹp hơn. Vì “mỗi cuốn sách là một bậc thang



nhỏ mà khi bước lên tôi tách khỏi con thú để vươn tới gần con
người”.
1.3. Rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên, đất trời
Ngay trong những tác phẩm được coi là “rất hiện thực” của
Gorky, chúng ta vẫn bắt gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp
huyền ảo đến hoang đường. Đó là mùa thu ở Kavkaz với “những cây
dẻ đã nhuộm một màu vàng rực”, với “những người khổng lồ râu dài
tóc bạc, có đơi mắt mở rõ to của những đứa trẻ vui tính, đang xuống
núi để tơ điểm cho đất đai, đến đâu cũng hào phóng tung ra những
châu báu muôn màu, bịt lên các đỉnh núi những tấm bạc dày và phủ
lên chân núi những tấm thảm sinh động...”. Trên bờ lá thu vàng trải
một lớp thảm rực rỡ cho chú bé Oren mới sinh, còn dưới biển không
gian ngập tràn sắc xanh và trắng: “Thế là cả tơi nữa cũng đang
bước trên dải đường mịn hẹp màu xám. Bên phải là biển cả một
màu xanh thẫm đang chập chờn tựa hồ như thể có những người thợ
mộc vơ hình đang đưa hàng ngàn cái bào bào lên mặt biển - những
dãy vỏ bào trắng muốt thi nhau rào rào chạy vào bờ trước làn gió
ướt, ấm và thơm như hơi thở của một người đàn bà khỏe mạnh.”
Còn đây là con đường ven biển thơ mộng và lãng mạn dưới mắt
nhìn của một nhà văn hiện thực: “Con đường dần dần mon men ra
gần biển, nó uốn khúc trườn ra sát dải cát nơi sóng vỗ vào bờ, các
bụi rậm cũng muốn nhìn tận mắt sóng, chúng nó nghiêng mình qua
dải đường mịn như cúi chào bãi sa mạc nước xanh mênh mông.”
Trước thiên nhiên đẹp đẽ ấy con người cảm thấy nhẹ nhõm và
thanh thản: “Đi cứ nhẹ nhõm như bơi trong khơng khí. Những ý nghĩ
thích thú, những kỉ niệm mn màu sặc sỡ đang quay nhau im lặng
nhảy trong vịng kí ức tơi…’

Viết văn đúng vào buổi giao thời: thế giới cũ đang sụp đổ, thế



giới mới đang phôi thai trong bão táp cách mạng đang ùn lên từ
phía chân trời; M.Gorky với những tác phẩm mang đậm nét thi vị và
lãng mạn đã được đón nhận như một “hiện tượng lạ”, như những
bản tuyên ngơn khẳng định lịng tin u vào cuộc sống và con
người, niềm tin vào mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể. Trong
truyện ngắn lãng mạn của mình, nhà văn khơng có ý muốn vẽ ra
cho người ta một cuộc sống xa lạ để lãng quên cuộc sống thực tại,
mà muốn phát hiện ra và phóng đại lên những khả năng hiện có
trong con người nhưng đang cịn bị những điều tầm thường, nhỏ
mọn của cuộc đời che khuất. Qua đó, con người nhìn vào đấy để
thấy được cuộc sống và suy nghĩ hiện tại của mình mà biết cố gắng,
đấu tranh cho tương lai tốt đẹp, loại bỏ những tư tưởng bị quan, tiêu
cực đang tồn tại trong xã hội. Hơn nữa, trong phong trào cách mạng
vô sản đang diễn ra ở Nga, truyện ngắn lãng mạn của Gorky cịn là
vũ khí tinh thần quan trọng, giúp quần chúng nhân dân thức tỉnh kịp
thời.
2.

Truyện ngắn hiện thực

Ngay ở thời kì đầu, Gorky khơng chỉ là cây bút lãng mạn có sức
rung cảm mạnh mẽ mà ơng cịn là cây bút hiện thực lỗi lạc. Trong
những năm tháng tự lực lao động kiếm sống, trước mắt người nghệ
sĩ bày ra một cảnh “hỗn độn hoang dã, sự sôi sục của những mâu
thuẫn nhiều vơ số và khơng sao hịa hỗn được, nhỏ có lớn có, cả
cái khối mâu thuẫn đó tạo thành một tấn bi hài kịch quái gở trong
đó lịng tham của con người đóng vai trị chính”. Chính những mâu
thuẫn đó đã để lại trong tâm trí nhà văn những ấn tượng day dứt

như “một cục trong họng ” không viết, không khắc họa chúng bằng
ngôn từ thì khơng chịu nổi. Đó chính là động cơ giúp Gorky viết
hàng loạt truyện ngắn hiện thực sinh động, độc đáo.
Bức tranh hiện thực được M.Gorky miêu tả nổi bật nhất là hai


lớp người trong xã hội:
Lớp thứ nhất: M. Gorky phê phán, đả kích giới thượng lưu
trưởng giả và phê bình lối sống tiểu tư sản - đó là lối sống sa
hoa, phù phiếm của bọn trường giả. Ngòi bút của ông mang
tính châm biếm sắc sảo. Khi phê phán giai cấp tư sản và lối sống
tiểu tư sản, ngòi bút của Gorky mạnh mẽ đả kích vào tâm lí cá
nhân, tư tưởng vị kỉ thấp hèn của bọn trí thức trưởng giả: Paven
Anđrêvich (truyện Đứa bé ăn xin) được mệnh danh là nhà hùng
biện tài năng, là vị luật gia xuất sắc, tiêu biểu cho nhân sinh quan
theo kiểu Rắn nước (trong “Bài ca chim ưng”). Đó là tư tưởng cầu an
vui vẻ với cuộc sống xám xịt, ảm đạm của thực tại xã hội lúc bây
giờ - không dám mơ ước, hồi bão lớn mà tự đắc mình là thông
minh, sáng suốt. Một vị văn sĩ trong “Một cuộc gặp gỡ” (1896) thể
hiện là một kẻ đầu hàng, buông xuôi, phản bội lại những tư tưởng
tiến bộ mà trước đây hắn từng ấp ủ. Hắn còn tự đắc rằng giờ hắn
mới thực sự là “nghệ sĩ chân chính” vì đã đạt tới nghệ thuật thuần
túy, thanh cao nhưng thật ra đó là thứ “nghệ thuật vị nghệ thuật”…
Góp phần làm nên tên tuổi “nhà văn của những người chân
đất”, M.Gorky còn tập trung miêu tả cuộc sống của những người
cùng khổ, những tầng lớp ở đáy cùng xã hội, đặc biệt là
những người du thủ du thực. Ở họ có những phẩm chất tốt đẹp
nhưng khơng ít hạn chế mà nhà văn đã phê phán vơ cùng thẳng
thắn. Ơng chú ý tới thế giới nội tâm phong phú đa dạng của những
người cùng khổ, nhất là những mầm móng của ý thức xã hội mới

nảy sinh, sự phản kháng tự phát, âm thầm ngày càng mạnh, niềm
mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn đang âm ỉ cháy trong lòng
những con người ở “dưới đáy” xã hội này.
Truyện ngắn Emelian Pilai (1893) cho ta thấy trật tự xã hội bất
công đã đẩy Emelian tới chổ cùng đường, anh khơng thể tìm được


việc làm. Anh cảm thấy rằng chỉ có một lối thoát duy nhất là đi giết
người cướp của để giành lấy một chỗ đứng cho mình trong cuộc đời.
Nhưng khi gặp cảnh đau khổ của một cô gái đáng thương, anh đã
khắc phục được những ý nghĩ tội lỗi nhất thời đó và thể hiện bản
chất tốt đẹp, cao thượng vốn có của người lao động. Truyện đã tố
cáo bọn thống trị dã man, tàn nhẫn đã tước đoạt mọi quyền hành
của người lao động, kể cả quyền tối thiểu đồng thời cũng là phương
tiện duy nhất để sinh sống của họ – quyền được lao động.
Truyện Làm muối (1893) Gorky lại đưa ra một vấn đề khác: đó
là sự áp bức bóc lột, lao động khổ sai, đã làm cho con người phẫn
nộ. Nhưng vì khơng biết trút sự bực tức của mình vào đâu nên giữa
những con người này đã nảy sinh tính tàn nhẫn và độc ác với nhau.
Truyện ngắn Lão Arkhip và bé Lionka (1893) nói lên sự xung
đột trong ý thức của những người nghèo khổ. Trong tâm hồn của
cậu bé Lionka đã bừng dậy những phẩm chất tốt đẹp, nhưng nó cịn
q yếu đuối và non nớt. Nó chưa đủ sức chống lại những thành
kiến lạc hậu của xã hội cũ mà lão Arkhip đã tiếp thu và cố gắng
thực hiện trong đời sống của mình. Sự xung đột đó đã dẫn đến cái
chết đầy bi thảm của hai ông cháu ăn mày bần cùng và bất lực.
Truyện Tsencase (1894) là tác phẩm lớn của Gorky viết về
những người du thủ du thực. Nhân vật chính là Tsencase, một kẻ
cắp khét tiếng ở bến tàu. Xuất thân là nông dân, Tsencase đã từng
là một chàng lính cận vệ đẹp trai, nhưng 11 năm trời đi du đãng đã

làm y quên hết những gì thuộc về quá khứ. Bây giờ y là một kẻ cắp,
y cần tiền để được tiêu xài thoải mái và sống một cuộc đời tự do. Y
khinh những kẻ tư hữu tham lam, những kẻ nô lệ của đồng tiền. Đối
lập với Tsencase là Gvarila, gã nông dân trẻ tuổi đi lang thang tìm
cách kiếm tiền sinh sống và về quê xây dựng một cơ ngơi. Vì tiền
Gavrila sẵn sàng phạm tội ác. Gã định giết chết Tsencase, kẻ đã


giúp gã kiếm ăn, để đoạt lấy số tiền 500 rup. Cuộc xung đột giữa
Tsencase và Gavrila ở cuối truyện càng làm nổi bật lên lòng hào
hiệp, phẩm chất cao đẹp của TsenKasơ, một con người đã bị vứt ra
ngoài rìa cuộc đời bên cạnh sự đê tiện, hèn hạ, lòng tham lam của
kẻ đại diện cho tư tưởng tư sản – Gavrila.
Tác phẩm hiện thực tiêu biểu nhất trong sáng tác thời kì đầu
của Gorky là truyện Vợ chồng Orlơp (1897). Tác phẩm nói về
cuộc sống tối tăm, nghèo nàn đơn điệu và khơng mục đích của hai
vợ chồng người thợ đóng giày. Do buồn chán, Orlơp thường xun
uống rượu và đánh vợ. Anh từng nghĩ đến số mệnh nhưng có lần
anh đã cưỡng lại nó. Đó là lúc anh quyết định cùng vợ xin vào làm ở
bệnh viện và anh mơ ước lập chiến công thầm lặng nhưng vẻ vang.
Anh ước mơ “giải phóng nước Nga khỏi nạn dịch tả”. Nhưng cuộc
sống tầm thường hằng ngày đã chặt đứt bao ước mơ của anh. Anh
bế tắc và không có lối thốt. Cuối cùng anh trở lại với rượu chè và
đánh vợ và anh đã rời bỏ bệnh viện để đi du đãng. Cuối tác phẩm là
cuộc gặp gỡ giữa Orlôp và tác giả trong một quán rượu rẻ tiền và
anh đã kể cho tác giả nghe câu chuyện đáng buồn trên. Sự phản
kháng của Orlôp trong phút chốc đã xẹp ngay. Anh khơng bằng lịng
với thực tại tối tăm nhưng anh lại khơng làm được cái gì lớn lao
( chữa bệnh dịch – cải tạo xã hội). Đó chính là tấn bi kịch của anh và
của tất cả người du thủ du thực.

Trong các truyện ngắn hiện thực của Gorky những năm 90, mặc
dù ông chưa xây dựng được hình ảnh hồn chỉnh về người cơng
nhân cách mạng nhưng ông đã miêu tả được sự phản kháng ngày
càng mạnh mẽ của quần chúng. Hơn nữa, Gorky cũng là nhà văn
đầu tiên đưa vào trong sáng tác của mình một khí thế chiến đấu
mới, tinh thần dũng cảm lập chiến công, anh hùng mới và hơi thở
của phong trào quần chúng đang bắt đầu sôi sục khi cơn bão táp


cách mạng sắp nổ ra. Truyện ngắn của M. Gorky giúp chúng ta thấy
rằng ở chính cái nước Nga “nghèo nàn nhưng phong phú”, từ những
tia lửa nhỏ của sự phản kháng tự phát sẽ bùng lên đám cháy lớn
của cuộc đấu tranh cách mạng của hàng triệu quần chúng đoàn kết
xung quanh "những con người dũng cảm" và dưới sự lãnh đạo của
họ. Ở đó, bất chấp những cảnh đời sầu thảm, trong nhân dân vẫn
vươn lên những mầm móng tốt lành, đẩy sức sáng tạo, làm cho
lịng. Hơn nữa, cuộc đời đầy “cay đắng” của ông đã khiến ông có
thể coi những nỗi khổ, những khát vọng, ước mơ của nhân dân như
những nỗi khổ, khát vọng, ước mơ của chính bản thân mình.
Tuy rằng nếu soi xét hết tất cả các tác phẩm truyện
ngắn nói riêng của M.Gorky, ta có thể thấy sự phân chia
thành hai mảng nội dung lãng mạn và hiện thực chỉ mang
tính tương đối. Bởi lẽ các sáng tác của ông không tuân theo
một chủ nghĩa cụ thể, rõ ràng mà chỉ gợi nên cảm hứng chủ
đạo cho tác phẩm. Chất lãng mạn và hiện thực vì thế mà
ln có sự xâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Cũng như nhà
văn Nga nổi tiếng lúc bấy giờ là Kôsôlenkô, người thầy văn học đầu
tiên của Gorky, sau khi đọc những truyện ngắn như “Markar
Tsudra”, “Bà lão Izeghin”, “Bài ca con chim ưng”… đã nhận xét:
"Truyện của anh lạ lùng thế nào ấy! Đây là chủ nghĩa lãng mạn, mà

chủ nghĩa lãng mạn thì đã chết từ lâu rồi! Anh là nhà văn hiện thực
chứ không phải lãng mạn, anh là nhà văn hiện thực!”. Nhưng rồi sau
khi đọc truyện "Tsenkase", ông khen ngợi "Anh biết xây dựng tính
cách nhân vật của anh, nó nói năng hành động là do chính nó, tơi
đã nói anh là nhà văn hiện thực mà !". Suy nghĩ thêm một lát, ơng
nói tiếp: "nhưng đồng thời anh cũng là một nhà văn lãng mạn". Lời
nhận xét này của Kôsôlenkô cũng đã cho ta thấy nét độc đáo đặc
trưng trong truyện ngắn của M.Gorky, đêm đến một “tín hiệu mới”


cho bầu trời ảm đạm của văn học Nga lúc bấy giờ.
II.

Đặc trưng nghệ thuật

Bên cạnh sự chi phối của cảm hứng chủ đạo, truyện ngắn của
M.Gorky còn gây ấn tượng bởi những điểm chung về nghê thuật, tạo
nên đặc trưng riêng biệt của nhà văn so với những tác giả khác
đương thời.
Về mặt thủ pháp, truyện ngắn của Gorky thiên về lối kết cấu
truyện lồng truyện đa tầng. Mỗi tác phẩm là những lớp truyện
đan cài nhau, lớp truyện này mở ra những lớp truyện khác tạo nên
sự hấp dẫn thú vị cho người đọc. Kết cấu truyện lồng truyện xuất
hiện trong các truyện ngắn của Gorky như Bà lão Izecghin, Makar
Sudra... đã tạo nên những tiểu thuyết thu nhỏ với nhiều lát cắt khác
nhau của cuộc sống. Sự đan cài thú vị giữa những câu chuyện làm
tăng thêm màu sắc thần thoại lãng mạn cho tác phẩm của Gorky.
Thủ pháp tương phản cũng được sử dụng trong việc miêu tả
nhân vật, miêu tả xung đột giữa nhân vật và cộng đồng, nhân vật
và chính bản thân mình. Thủ pháp này thể hiện rất rõ trong việc xây

dựng các nhân vật anh hùng trong truyện ngắn của Gorky. Trong
Bài ca Chim Ưng, người đọc càng cảm mến phẩm chất anh hùng
của Chim Ưng bao nhiêu thì càng khinh ghét cái nếp sống, nếp suy
nghĩ của Rắn nước bấy nhiêu: cầu an, vị kỉ, khơng dám có ước mơ
lớn, hồi bão lớn, nhưng lại tự đắc là thông minh, sáng suốt. Từ sự
tương phản đó, những nhân vật lí tưởng hiện ra như trong những
câu chuyện cổ tích, nhưng cũng ẩn giấu màu sắc bi kịch thời hiện
đại. Xét ở một khía cạnh nào đó, sự đối lập, tương phản trong xây
dựng những nhân vật lãng mạn giai đoạn này cũng là một cách để
các nhà văn tôn vinh cái tôi cá nhân của những nhân vật ấy, cái mà
ở những giai đoạn trước đã bị khuất lấp.


Dưới ngòi bút ẩn dụ và so sánh của Gorky, phong cảnh thiên
nhiên trở nên sống động, có linh hồn và tỏ ra thái độ của mình trước
những biến cố xảy ra trong đời sống. Thiên nhiên biến động theo sự
biến động trong tâm hồn nhân vật, tâm hồn nhà văn. Bước vào thế
giới thiên nhiên trong truyện ngắn “Makar Sudra”, ta thấy trải rộng
ra đến tận chân trời là hình ảnh của biển: “Từ biển khơi thổi về một
làn gió ướt và lạnh truyền đi khắp thảo nguyên điệu nhạc trầm
ngâm của tiếng sóng xơ vào bờ và tiếng thì thầm của cây cỏ miền
dun hải…”. Có khi, ơng lại thả vào biển linh hồn của một nhà hiền
triết, một cụ già am hiểu mọi chuyện đời: Bằng âm thanh của chính
mình, biển “sẽ kể về những điều bí ẩn của vũ trụ, sẽ giảng dạy cho
trí tuệ hiểu nó, rồi sẽ làm cho trí tuệ tắt đi như đóm lửa ảo huyền…”
Ngồi ra, lời nhân vật đối thoại và độc thoại cùng sự kết hợp
đan xen hợp lí lời tác giả đã góp phần để các nhân vật có thể tự bộc
lộ tính cách rất sinh động, đồng thời đem lại cho truyện của ông
dáng dấp những “truyện – kịch”. Gorky cũng tạo ra một hình thức
người kể chuyện đặc sắc thơng qua nhân vật Tơi. Với hình thức này,

Gorky đã rút ngắn khoảng cách giữa nhân vật và độc giả, tạo cho
tác phẩm một chất trữ tình đậm đà, kết hợp được cả hai yếu tố thực
hiện và lãng mạn trong thế giới nghệ thuật của ông.
Ngôn ngữ truyện ngắn của Gorky rất phong phú, vừa rất gần gũi
với ngôn ngữ quần chúng nhân dân lại vừa in đậm dấu ấn sáng tạo
của tác giả. Tsencase (truyện Tsencase) trở thành một tên cướp
ngang tàng và thản nhiên ăn cắp để sống ở trên bến cảng cũng là
một hành động phản kháng. Anh bình thản, giễu cợt trước mặt tên
lính đoan khi hắn hăm he cho anh vào cịng vì tội “xốy hai kiện
vải“. Lúc tên lính chửi mắng thậm tệ thì anh lại tỏ ra như khơng có
chuyện gì, thậm chí cịn bỡn cợt, ra vẻ vui hẳn lên và thản nhiên
“khẽ huýt sáo qua kẽ răng và thọc hai tay vào túi quần, vừa đi vừa


ném sang hai bên những tiếng cười và những câu bơng đùa, châm
chọc”… Bình dị là thế, nhưng ngơn từ của Gorky cũng khơng kém
phần triết lí: Ý nghĩ về sự tự do được thể hiện khi nhân vật Tsencase
nói với Gavrila về những suy nghĩ của mình: “Người anh em ạ, cái
chính trong đời sống nơng dân là tự do! Anh là chủ bản thân anh:
Anh có nhà của anh, túp nhà tồi tàn, nhưng là nhà của anh. Anh có
đất của anh, dù là miếng đất con con đi nữa, nhưng là đất của anh!
Anh là ông vua trên mảnh đất của anh!…Anh có bộ mặt của anh…
Anh có thể địi hỏi mọi người phải tơn trọng anh...”
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI CỦA M. GORKY QUA
TÁC PHẨM “MỘT CON NGƯỜI RA ĐỜI”
I.

Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

Một con người ra đời (1912) là truyện được viết trong bối cảnh
nước Nga đang trải qua thời kì "đêm trước của cách mạng tháng
Mười". Trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó khơng ít những nhà văn sa
vào bi quan, mất lịng tin, Gorki thơng qua tác phẩm này lại biểu lộ
một niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Cơ sở của truyện dựa trên sự
việc có thật xảy ra với chính tác giải vào cuối mùa hè năm 1892 (1
năm đói kém). Với tài năng của mình, ơng đã khiến tác phẩm "Một
con người ra đời" vượt ra khỏi giới hạn của một truyện ngắn, trở
thành " một mẩu", " một mảnh", " một lát cắt" của hiện thực Nga
đương thời và mang dáng dấp của 1 bản trường ca.
2.

Tóm tắt tác phẩm

Năm 1892 năm đối kém của nước Nga, thiên nhiên kiệt quệ, con
người đói khổ bỏ vùng Oren tha phương cầu thực trong đám người
đi đó có 1 sản phụ gần đến kì sinh đẻ, chồng chết do ăn nhiều quả
Trám rừng, và có cả nhân vật tơi. Họ ra đi nhưng luôn hồi tưởng hối


tiếc về quê hương, ra đi với tinh thần lạc quan, hướng đến tương lai.
Trên đường đi người sản phụ chuyển dạ. Trước sự đau đớn vật
vã và lòng nhân ái, nhân vật tôi đã trở thành người đở đẻ bất đắc dĩ
họ cùng vượt qua tình cảnh khốn khổ, thiếu thốn vật chất lẫn tinh
thần. Nhưng rồi đứa trẻ cũng ra đời, nó như một sức mạnh kỳ diệu
khơi dậy niềm tin trong họ. Người mẹ vô cùng sung sướng, tạ ơn
chúa trời. Câu truyện kết thúc bằng cả hình ảnh hân hoan, họ kề vai
nhau đi đến chân trời tương lai, họ đặt niềm tin hy vọng, ước mơ
cho đứa con yêu.
3. Lí luận quan niệm về con người trong văn học

* Khái niệm con người:
Theo triết học Mac- Lenin: "Con người là một thực thể tự nhiên
mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chững giữa hai phương
diện tự nhiên và xã hội"
*Quan niệm về con người trong văn học:
- Quan niệm về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể
hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện
con người của nhà văn. Có thể nói, nó giống như là một chiếc chìa
khóa vàng góp phần gợi mở cho chúng ta tất cả những gì bí ẩn
trong sáng tạo nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ nói chung và từng
thời đại nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, song khái niệm nghệ thuật về con
người vẫn còn nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau.
- Ví dụ:
+ Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về
con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá,
tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể
hiện trong tác phẩm của mình”. Tức, quan niệm nghệ thuật về con


người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con người đã được hóa
thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con
người trong văn học của tác giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và
thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó. Vì vậy, chúng ta sẽ
thấy được giá trị của hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm.
+ Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng nói của mình bằng
một cách nhìn khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người
thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm”.
+ Cũng với vấn đề về quan niệm nghệ thuật về con người, Từ
điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật

về con người là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong
hình thức tác phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương
pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm thành thước đo của
hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật.”
+ Macxim Gorki đã từng khẳng định: “Văn học là nhân học”. Đó
là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Do vậy, con người chính
là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ
vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học đều nhằm mục
đích miêu tả và thể hiện vào con người.
=> Thực tế cho thấy, khơng có một tác phẩm, một tác giả hay
một nền văn học nào lại chỉ đơn thuần nói về thiên nhiên mà khơng
liên quan đến con người. Nói cách khác, mục đích miêu tả của nhà
văn là nhằm hướng đến thể hiện con người
- Tư tưởng của M.GORKI:
+ "Chỉ có hai hình thức sống: thối rữa và cháy bùng. Bọn hèn
nhát và tham lam chọn lối sống thứ nhất, những người dũng cảm và
rộng lượng chọn lối thứ hai" (Bài thơ ĐỒNG HỒ).
+ "Tất cả ở trong con người, tất cả vì con người!(...) Con Người!



×