Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI - BÁO CÁO 2&4 " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 34 trang )


Ministry of Agriculture & Rural Development



Báo cáo tiến độ
Tên dự án: NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG
MƯƠNG NỔI (062/04VIE)



BÁO CÁO KẾT QUẢ SỐ 2 & 4
Gồm 2 báo cáo kỹ thuật được trình bày chung để tiện lợi cho người đọc



Michael Burke (QDPI&F, Australia)
Tung Hoang (Nha Trang University, Vietnam)

















12/2006
1
Thiết kế và đánh giá hiệu quả của mương nổi sử dụng để
ương giống cá biển ở Việt Nam
Hoàng Tùng
1*
, Lưu Thế Phương
1
,
Huỳnh Kim Khánh
2
, Bành Thị Quyên Quyên
1
, Nguyễn Đình Mão
3
, Michael Burke
4


1
Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Quốc tế, Trường Đại học Nha Trang, Việt Nam
2
Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa, Tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam
3
Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
4
Department of Primary Industries and Fisheries, Bribie Island Aquaculture Research Centre,

Bribie Island, Queensland, Australia


1. GIỚI THIỆU
Sự phát triển của nghề nuôi cá biển ở Việt Nam đòi hỏi một số lượng lớn con giống.
Trong những năm gần đây, con giống nhân tạo của các đối tượng kinh tế như cá Mú
(Epinephelus spp.), cá Giò (Rachycentron canadum), cá Chẽm (Lates calcarifer) và một số
loài khác đã được sản xuất phần nào đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của người nuôi.
Ngoài hạn chế về số lượng thì kích thước của con giống cũng là một khó khăn. Đa số các
đối tượng nuôi biển đều được nuôi trong lồng. Kích thước con giống vì thế phải đủ lớn, cỡ
80÷100 mm hoặc lớn hơn. Ương cá bột đến cỡ này trong trại sản xuất giống rất tốn kém và
khó có thể cung cấp được số lượng lớn do hạn chế về diện tích bể ương. Các thử nghiệm
ương trong ao cho thấy tỉ lệ sống không cao và khó quản lý.
Mương nổi gần đây đã được thử nghiệm khá thành công trên các đối tượng nuôi là cá
nước ngọt ở Mỹ, Úc và Đức. Mặc dù chi phí đầu tư và vận hành tương đối cao nhưng dùng
mương nổi để ương cá biển có nhiều thuận lợi. Đó là: (i) mật độ ương lớn, hạn chế tối đa
địch hại; (ii) dễ dàng trong quản lý thức ăn và bệnh dịch; (iii) vận hành đơn giản và cần ít
nhân công; (iv) tận dụng được thức ăn tự nhiên trong ao.

Ở Việt nam mương nổi được Trường Đại học Nha Trang thiết kế và thử nghiệm vận
hành trong năm 2005 – 2006 với sự tài trợ của Dự án “Nuôi thâm canh cá biển trong ao
bằng mương nổi” – CARD VIE 062/04 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản
lý. Báo cáo này trình bày nguyên lý hoạt động của mương nổi; hướng dẫn lắp đặt và vận
hành phiên bản SMART-1 để ương con giống cá biển; kết quả thử nghiệm trên cá Chẽm
(Lates calcarifer), đánh giá hiệu quả kinh tế và khảo sát động thái của mương. Một số kết
quả ban đầu trên cá Hồng bạc (Lutjanus argentimacus), cá Hồng Mỹ và cá Điêu hồng
(Oreochromis sp.) cũng được thảo luận. Các thử nghiệm tiếp theo sẽ nhằm vào cá Giò và
cá Mú.
2
2. THIẾT KẾ HỆ THỐNG MƯƠNG NỔI

2.1 Nguyên lý hoạt động

Nguyên lý hoạt động của mương nổi khá đơn giản. Mương có thể được chế tạo bởi
nhiều loại vật liệu khác nhau và thực chất là một chiếc bể dài, hẹp tự nổi hoặc được hỗ trợ
bởi dàn bè trong ao chứa. Nước từ ao chứa được bơm liên tục vào một đầu mương và thoát
ra ở đầu đằng kia. Để tiết kiệm chi phí điện năng và kết hợp với việc làm giàu oxy hòa tan
trong nước, người nuôi thường sử dụng hệ thống cột nâng nước (airlifts) vận hành bằng
máy nén khí hoặc máy thổi khí để chuyển nước từ ao chứa vào mương. Cá được ương hoặc
nuôi trong mương với mật độ cao, sử dụng thức ăn công nghiệp. Khi cá ương có kích
thước nhỏ thì sinh vật phù du theo nước ao chứa vào mương sẽ là những nguồn bổ sung
quan trọng. Lưới chắn được gắn ở cửa thoát của mương. Mặt mương cũng được phủ lưới
để đảm bảo cá không nhảy ra ngoài hoặc địch hại xâm nhập vào trong mương. Thiết kế
mương nổi phải đảm bảo sao cho nước luân chuyển đều trong mương, dễ dàng trong việc
thu gom chất thải và tạo khoảng lặng thích hợp để cá bắt mồi. Khi cần thiết phải xử lý hóa
chất, mương sẽ chuyển thành bể “kín” rất tiện lợi nếu ta dừng hoạt động của hệ thống cột
nâng nước và bịt cửa thoát.
Mương nổi có thể được đặt trong các ao chứa có độ sâu tương đối ở các khu vực nước
ngọt, lợ hoặc mặn tuỳ theo yêu cầu sinh thái của đối tượng ương nuôi. Tiềm năng sử dụng
mương nổi ở các hồ chứa nước là rất lớn. Tuy nhiên, cần thiết phải có điện để vận hành
máy móc.
2.2 Ao nuôi
Ao nuôi có diện tích 2.000 m
2
, hình chữ nhật (Hình 1). Ao phải được xây dựng trên
nền đất có khả năng giữ nước tốt hoặc được phủ bạt. Hệ số mái bờ là 1,5. Mặt bờ rộng 1,8
- 2 m để dễ dàng vận chuyển mương và thu hoạch cá. Đáy ao bằng phẳng và nghiêng về
phía cống thoát. Độ sâu của mực nước trong ao càng lớn càng tốt, tối thiểu phải ổn định
trong khoảng 1,6 ÷ 1,7m. Nếu mực nước trong ao thấp thì hệ thống ống nâng nước sẽ hút
các chất bẩn và bùn đáy ao vào mương. Giữa ao có một tường ngăn làm bằng bạt cao hơn
mực nước của ao nhằm tạo dòng chảy tròn trong ao khi sử dụng xe quạt nước để đảo nước.

2.3 Mương nổi
Mương nổi phiên bản SMART-01 là kiểu mương nổi nhỏ, được chế tạo để ương cá
biển từ cỡ hương lên cỡ giống. Mương được làm bằng vật liệu composit. Đây là loại vật
liệu phù hợp nhất tại Việt Nam nhờ ưu điểm dễ tạo hình, tuổi thọ cao, khả năng chống chịu
tốt với điều kiện môi trường nắng nóng nhiều sinh vật bám, dễ vệ sinh. Giá thành tuy có
3
cao hơn các loại vật liệu đơn giản khác nhưng xét về hiệu quả sử dụng thì ưu việt hơn rất
nhiều. Mương có dạng hình thang với thể tích khoảng 3,5 m
3
(3,5×0,8×1,0m) hai đầu vát
30
o
(Hình 2). Một đầu của mương được gắn hệ thống ống nâng nước, đầu còn lại gắn lưới
chắn chống cá ra ngoài và địch hại xâm nhập vào mương. Phía đầu cấp nước của mương
có một tấm chắn để hướng cho nước lùa xuống đáy mương.


a

b
Hình 1: Ao nuôi và hệ thống mương đặt trong ao
(trên: nhìn từ trên xuống; dưới: mặt cắt ngang)
2.4 Hệ ống nâng nước
Hệ thống ống nâng nước bao gồm 04 ống nhựa PVC ∅90. Mỗi ống dài 100 cm, được
gắn kết với nhau một khung chữ nhât làm bằng ống nhựa PVC ∅21, cố định vào mương.
Khung nhựa ∅21 này còn đảm nhận chức năng dẫn khí vào từng ống nâng nước (Hình 3).
Cạnh trên của khung được nối với máy nén hoặc thổi khí bằng ống nhựa mềm. Lượng khí
vào khung được điều chỉnh nhờ một van khí đặt tại đây. Cạnh dưới của khung có khoan lỗ
nhỏ, mỗi ống nâng nước có một lỗ. Đường kính của lỗ thoát khí là 3,0 mm. Độ sâu của lỗ
thoát khí so với mực nước ao là 80 cm. Khả năng nâng nước của ống phụ thuộc vào công

suất của máy nén hoặc thổi khí.

4
2.5 Hệ thống máy nén khí
Nước được đẩy vào trong mương nhờ hoạt động của máy nén khí. Công suất của máy
nén khí phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng của người nuôi và số lượng ống nâng nước. Hệ
thống SMART-01 (gồm 6 mương nổi với tổng cộng 24 ống nâng nước) sử dụng máy nén
khí ANLET BSR 40 của Nhật Bản có công suất là 3 HP (2,2 Kw). Lượng khí nén 66 m
3

khí/giờ. Khi hoạt động, mỗi ống nâng nước sẽ đẩy được khoảng 86÷87 L/phút.


Hình 2: Cấu tạo mương nổi phiên bản SMART-01







Hình 3: Cấu tạo hệ thống ống nâng nước

Để đảm bảo an toàn cho cá ương và giảm thiểu rủi ro hỏng hóc, hai máy nén khí được
sử dụng luân phiên. Mỗi máy hoạt động 12 h trong ngày. Hệ thống ống dẫn khí từ máy nén
5
khí đến hệ thống ống nâng nước được thiết kế khép kín chạy xung quanh bè. Thiết kế này
đảm bảo lượng khí và áp suất khí nén ở mọi điểm là như nhau, tránh hiện tượng các ống
nâng nước hoạt động không đều nhau.


2.6 Hệ thống bè nâng đỡ mương
Hệ thống bè được sử dụng làm giá đỡ cho các mương nổi. Vật liệu làm bè là gỗ 6×12
cm và phuy nhựa HDPE 200 L. Đây là những vật liệu dễ tìm và thường được sử dụng để
làm bè nuôi tôm Hùm. Bè có dạng hình chữ nhật. Dài 510 cm m và rộng 750 cm; được
chia làm 06 ngăn. Chiều rộng mỗi ngăn là 95 cm, vừa đủ đảm bảo cho thao tác nâng/hạ
mương nổi được thuận lợi. Xung quanh bè được lát ván phai tạo đường đi lại để chăm sóc
và quản lý cá ương trong mương (Hình 4). Phuy nhựa 200 L được sử dụng làm phao để
nâng bè nổi trên mặt nước. Hệ thống SMART-01 có tất cả 17 phao và được bố trí đều xung
quanh bè, đảm bảo cho các mương nổi ổn định trên mặt nước ngay cả khi có người thực
hiện các công việc cho cá ăn, vệ sinh mương. Mương được treo vào bè bằng bulong ∅14
mm, dài 450 mm. Việc sử dụng bulong để treo mương sẽ giúp ta điều chỉnh độ cao lưu
không và độ sâu khi ngập nước của mương. Độ cao lưu không của mương dao động từ
5÷10 cm so mới mặt nước. Do mương được treo vào bè bằng bulong, cho nên độ nổi của
mương phụ thuộc hoàn toàn vào độ nổi của bè.

a’
c
c’
6
1
2
1
b

b

3
Mặt c

t aa’

N
hìn
t
ừ t
r
ên xu

n
g
a
6 6
5
3
4
Mặt c

t bb’
Mặt c

t cc’
Hình 4: Cấu tạo dàn bè nổi nâng đỡ mương
Ghi chú: 1: Mương nổi
2: Phao
3: Ống nâng nước
4: Cửa lưới thoát nước
5: Bulong treo mương
6: Hệ thống ống dẫn khí


2.7 Lắp đặt và vận hành

Hệ thống bè nổi được lắp đặt và thả xuống ao chứa trước. Sau đó tiến hành kết nối máy
nén khí với dàn bè. Nếu sử dụng ống dẫn khí là nhựa PVC thì nên chôn xuống đất để tránh
6
bị hư hỏng do tác động của tia cực tím và nắng nóng. Không khí mới thoát ra từ máy nén
khí thường có nhiệt độ cao. Vì vậy đoạn ống nối với máy nén khí phải là ống chịu nhiệt
hoặc ống kẽm, có độ dài khoảng 6 m. Tiến hành hạ mương và lắp đặt hệ thống ống nâng
nước, van điều khiển. Công suất của máy nén khí ANLET BSR 40 là đủ để vận hành 6
mương và khoảng 12 vòi sục khí độc lập (khi cần cung cấp thêm oxy vào mương hoặc
phòng trị bệnh cho cá hay thu hoạch).
Khi lắp tấm chắn vào thì nước chảy lùa xuống đáy và lưu tốc dòng chảy mặt gần như
bằng không, tạo khoảng lặng trên bề mặt mương để cá bắt mồi. Ngoài ra, tấm chắn ở đầu
mương có tác dụng tạo dòng chảy ngầm bên dưới, đẩy chất thải của cá và thức ăn thừa về
phía cuối mương. Một phần chất thải đi ra môi trường ngoài qua cửa thoát của mương.
Phần còn lại sẽ lắng đọng ở khu vực cuối mương và được siphon ra hàng ngày. Phiên bản
SMART-02 có gắn bộ thu chất thải, thuận lợi hơn cho việc thu gom và xử lý.
Các thông số môi trường cơ bản như độ mặn, độ pH, NH
4
-N, chất rắn hòa tan (TDS) và
nhiệt độ của nước trong mương tương đương với ngoài ao chứa. Vì thế, chất lượng nước
trong mương sẽ đảm bảo nếu quản lý tốt chất lượng nước ao. Nhờ hoạt động của bộ nâng
nước, hàm lượng oxy hòa tan của nước trong mương sẽ đảm bảo yêu cầu của cá ương. Tuy
nhiên, cần lưu ý thường xuyên vì khi hệ thống này ngừng hoạt động (ví dụ bị mất điện
hoặc sự cố kỹ thuật) nguy cơ cá chết do thiếu oxy là rất cao. Khi ương các đối tượng có
khả năng sử dụng thức ăn tự nhiên, cần sử dụng phân bón để gây màu nước ao.
Trong quá trình vận hành, phải thường xuyên kiểm tra hệ thống khí. Cá được ương
trong mương với mật độ rất cao. Vì thế bất cứ sự cố nào gây mất khí đều nguy hiểm cho
cá. Hệ thống nén khí trung tâm cần thiết phải có 2 máy nén khí chạy luân phiên nhau để
kéo dài tuổi thọ máy và đề phòng khi một máy bị hỏng. Ở những nơi nguồn cung cấp điện
không được ổn định cần có thêm một máy chạy dầu kết nối với máy nén khí bằng dây
curoa để phòng khi mất điện. Người nuôi có thể điều khiển lượng khí và số lượng ống

nâng nước để điều chỉnh lưu lượng nước trao đổi cũng như tốc độ dòng chảy cho phù hợp
với từng đối tượng nuôi.
Hoạt động của các ống nâng nước có thể bị suy giảm nếu chúng bị các sinh vật bám
tấn công. Vì thế hệ thống này cần được vệ sinh định kỳ. Công tác vệ sinh mương có thể
được thực hiện một cách dễ dàng bằng cách dùng bàn chải mềm chà dọc mặt trong và nền
đáy của mương. Tuy nhiên, cần lưu ý không nên vệ sinh mương quá thường xuyên khi
ương những đối tượng nhạy cảm với các xáo trộn ví dụ như cá Chẽm.

3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CỦA SMART-01 TRÊN CÁ CHẼM
7
3.1 Phương pháp thử nghiệm
Cá Chẽm giống cỡ 15÷20 mm được sản xuất nhân tạo tại địa phương và chuyển đến
địa điểm ương thử nghiệm tại Ninh Lộc của Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa. Mật độ
ương là 10.000 con/mương, tương đương với 3,3 con/L. Mỗi đợt ương sử dụng 3 mương
đã được vệ sinh bằng chlorine 100 ppm với tổng số cá giống là 30.000 con. Chiều dài toàn
thân và khối lượng của cá được xác định trước khi thực hiện thử nghiệm sau 2 ngày nuôi
thuần.
Cá được cho ăn bằng thức ăn viên của INVE và Grobest (cỡ hạt 800÷1200 µm; hàm
lượng protein thô 42÷56%). Thức ăn INVE chính là loại mà trại sản xuất giống sử dụng để
ương cá ở các giai đoạn nhỏ hơn. Ở đợt ương 1, cá được cho ăn thức ăn INVE trong tuần
đầu và chuyển sang thức ăn Grobest từ tuần thứ 2. Nhằm hạ giá thành sản xuất, đợt ương
thứ 2 sử dụng thức ăn Grobest ngay từ đầu. Lượng cho ăn vào khoảng 2÷18% khối lượng
thân; được chia làm 14 lần cho ăn (mỗi giờ một lần từ 06:00 đến 18:00). Căn cứ vào khả
năng sử dụng thức ăn của cá để có điều chỉnh thích hợp ở những lần cho ăn sau.
Hàng ngày theo dõi các thông số môi trường quan trọng như pH, oxy hòa tan (DO)
và nhiệt độ vào lúc 08:00 và 14:00 ở cả trong mương và ngoài ao. Các yếu tố khác bao
gồm chất rắn hòa tan (TDS), hàm lượng amonia tổng cộng (NH
3
-N) và độ mặn được xác
định 5 ngày/lần; tổng lượng chất rắn lơ lửng được xác định 7 ngày/lần. Tiến hành thu mẫu

sinh vật phù du ở mương (đầu và cuối mương) và ngoài ao để theo dõi biến động thành
phần loài và đánh giá khả năng “lọc” sinh vật phù du của mương. Động thái dòng chảy
trong mương cũng được khảo sát bằng cách sử dụng phẩm màu và phao nhỏ.
Định kỳ 5 ngày/lần đo chiều dài toàn thân, cân khối lượng và kiểm tra tình hình bệnh
dịch của 50 cá thể/mương . Tỷ lệ sống của cá ương được xác định khi kết thúc thử nghiệm.
Thử nghiệm kéo dài 3 tuần ở đợt 1 và 5 tuần ở đợt 2 khi cá đạt kích thước khoảng 60÷80
mm và 80÷100 mm. Các thông số sử dụng để đánh giá hiệu quả bao gồm: tỉ lệ sống, tốc độ
tăng trưởng, mức độ phân đàn, tỉ suất lợi nhuận và lợi nhuận/đơn vị đầu tư.
3.2 Hoạt động của mương và khả năng trao đổi nước với môi trường
Lưu lượng nước vào mương khoảng 350 L/phút. Quan sát bằng cách sử dụng phẩm
màu cho thấy nước trong mương được thay mới 100% sau mỗi 15 phút (Hình 5). Điều này
khiến cho chất lượng môi trường giữa ao chứa và mương là tương đối đồng nhất ngoại trừ
DO và TSS (Bảng 1). Nước trong mương luôn có DO cao hơn 4,0 mg/L và cao hơn nước
trong ao nhờ hoạt động hiệu quả của hệ thống nâng nước. Hàm lượng TSS tuy nhiên cao
hơn nước trong ao do chất thải của cá và thức ăn thừa có trong mương (Lưu Thế Phương
2006).
8
Lưu tốc dòng chảy mặt trung bình khi vận hành mương không có tấm chắn ở phía đầu
mương là 35 cm/s. Với sự hiện diện của tấm chắn, nước được hướng xuống phía dưới, quét
trên mặt đáy mương trước tạo dòng chảy ngược từ đáy lên ở phía cuối mương. Điều này
giúp tạo khoảng lặng sau tấm chắn làm nơi cho cá ăn, thức ăn không bị cuốn ra ngoài
mương. Thêm vào đó, các chất rắn lơ lửng được chuyển ra ngoài ao chứa một cách dễ dàng
hơn. Chất thải có kích thước lớn dồn lại ở phía cuối mương, thuận lợi cho việc siphon hàng
ngày để giữ vệ sinh cho mương. Khảo sát thành phần loài và sinh khối của động thực vật
phù du cho thấy mức độ phong phú giữa mương và ao là tương đương nhau. Tuy nhiên,
sinh khối của sinh vật phù du trong mương cao hơn ngoài ao, cho thấy khả năng “lọc” hiệu
quả của mương (Trần Thị Nhật Hưởng 2006).




0 phút 2 - 3 phút
5 - 6 phút 7 - 8 phút
11 - 13 phút 15 - 20 phút
T?m ch?n
? ng nâng nư?c
Lư?i ch?n

tấm chắn
ống nâng nước
lưới chắn








Hình 5: Mức độ trao đổi nước giữa mương và ao (màu xám: nước có phẩm màu)

3.3 Tốc độ tăng trưởng của cá ương
Cá tăng trưởng nhanh khi ương nuôi trong mương. Chúng bắt mồi chủ động, tranh
giành thức ăn và không ăn vào ban đêm. Thời gian cá bắt mồi mạnh nhất là vào sáng sớm
hoặc chiều tối. Giải phẫu dạ dày cá cho thấy cá Chẽm lớn hơn 20 mm gần như không sử
dụng động vật phù du. Ở đợt ương thứ 1, sau 15 ngày ương, khối lượng và chiều dài toàn
thân trung bình của cá lần lượt là 2,36 ± 0,07 g và 5,13
± 0,05 cm. Tỉ lệ sống sống cao, đạt
81,9 ± 1,0%. Tỷ lệ phân đàn trung bình theo khối lượng thân là 23,8 ± 0,83 %, theo chiều
dài toàn thân là 11,7 ± 0,28 %. Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) là 0,83 ± 0,01 (Bảng 2).So với
các kết quả ương nuôi trong ao đất hoặc bể xi măng thì đây là một thành công lớn.

Thử nghiệm độc lập cho thấy tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá Chẽm ương từ cỡ
20 mm lên 80 mm không khác biệt giữa thức ăn INVE và Grobest (Bảng 3) (Đàm Thanh
Ngọc 2006). Tuy nhiên, giá của thức ăn viên do Grobest sản xuất lại chỉ bằng 1/5 so với
INVE. Mục tiêu hạ giá thành sản xuất tuy vậy không thành công ở đợt ương thứ 2 khi tiến
9
hành sử dụng thức ăn Grobest ngay từ đầu. Cá đã quen với thức ăn INVE trong trại sản
xuất giống và bắt mồi kém. Chất lượng nước của đợt 2 cũng kém hơn so với đợt 1 do nước
trong ao đã được lưu giữ khoảng 10 tháng và có độ mặn cao hơn (Bảng 2). Cá lại bị nhiễm
Caligus ký sinh ở mang. H
2
O
2
đã được sử dụng để tắm cho cá ương trong mương với hàm
lượng 150 ppm trong 20 - 30 phút và tỏ ra khá hiệu quả. Đây là cũng chính là một trong
những nguyên nhân gây kìm hãm sinh trưởng và giảm tỷ lệ sống của cá ở đợt ương 2. Hiệu
quả chung của đợt ương 2 vì thế thấp hơn so với đợt 1.

Bảng 1 : Chất lượng nước trong mương và ao. Số liệu cùng hàng có ký hiệu mũ khác nhau thể
hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0.05)

Đợt ương 1
Yếu tố Ao Mương 3 Mương 4 Mương 5
DO (ppm) Sáng 3,95 ± 0,16
a
4,55 ± 0,14
b
4,54 ± 0,14
b
4,60 ± 0,13
b

Chiều 5,55 ± 0,17
a
5,60 ± 0,16
a
5,61 ± 0,17
a
5,67 ± 0,16
a
Nhiệt độ (
o
C) Sáng 31,6 ± 0,16
a
31,6 ± 0,16
a
31,6 ± 0,16
a
31,6 ± 0,16
a
Chiều 33,4 ± 0,25
a
33,3 ± 0,25
a
33,3 ± 0,25
a
33,3 ± 0,25
a
pH
Sáng 7,6 ± 0,02
a
7,6 ± 0,01

a
7,6 ± 0,02
a
7,6 ± 0,02
a
Chiều 7,6 ± 0,02
a
7,6 ± 0,02
a
7,6 ± 0,02
a
7,6 ± 0,02
a
Độ mặn (ppt) 22 ± 0,12
a
22 ± 0,12
a
22 ± 0,12
a
22 ± 0,1
a
Đợt ương 2
Yếu tố Ao Mương 1 Mương 2 Mương 3
DO (ppm) Sáng 5,85 ± 0,09
a
5,86 ± 0,09
a
5,80 ± 0,12
a
5,80 ± 0,10

a
Chiều 11,02 ± 0,24
a
8,05 ± 0,20
b
8,09 ± 0,21
b
8,22 ± 0,21
b
Nhiệt độ (
o
C) Sáng 30,2 ± 0,10
a
30,10 ± 0,10
a
30,10 ± 0,10
a
30,10 ± 0,10
a
Chiều 32,6 ± 0,30
a
31,10 ± 0,20
b
31,10 ± 0,20
b
31,10 ± 0,20
b
pH Sáng 8,1 ± 0,01
a
8,0 ± 0,02

a
8,0 ± 0,02
a
8,0 ± 0,02
a
Chiều 8,4 ± 0,01
a
8,3 ± 0,02
b
8,3 ± 0,02
b
8,3 ± 0,02
b
Độ mặn (ppt) 29 ± 0,30
a
29 ± 0,30
a
29 ± 0,30
a
29 ± 0,30
a
TSS (ppm) 63,79 ± 8,93
a
111,13 ± 19,77
b
92,54 ± 14,88
a
92,43 ± 13,33
a
TDS (ppm) 1309 ± 48,9

a
1357 ± 57,5
a
1334 ± 59,1
a
1321 ± 71,0
a
NH
4
+
(ppm) 0,13 ± 0,01
a
0,13 ± 0,01
a
0,13 ± 0,01
a
0,13 ± 0,01
a









Hình 6: Động thái của dòng chảy trong mương

10


Tốc độ tăng trưởng của cá không cao. Cá lớn chậm hơn so với đợt ương thứ 1. Tốc độ
sinh trưởng trung bình đặc trưng về khối lượng, chiều dài toàn thân cá lần lượt là 4,66
±
0,05
%/ngày và 1,44 ± 0,03 %/ngày. Khi thu hoạch, chiều dài toàn thân trung bình của cá là
10,03
± 0,23 cm; khối lượng thân trung bình là 16,36 ± 1,28 g. Tỷ lệ sống trung bình ở đợt
ương này không cao bằng đợt 1 (53,43 ± 1,39
%). Tuy nhiên thời gian ương dài gấp 3 lần.
Tỷ lệ phân đàn trung bình theo khối lượng thân của cá cao hơn rất nhiều so với đợt ương I
(109,23 ± 3,36
%). Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) của đợt ương 2 này là 2,8 ± 0,15.

Bảng 2: Các chỉ tiêu về sinh trưởng của cá Chẽm trong hai đợt ương
Đợt I (15 ngày)
Chỉ tiêu Mương 3 Mương 4 Mương 5
Trung bình
L
2
(cm) 5,05 ± 0.09 5,22 ± 0.08 5,12 ± 0.09 5,13 ± 0,05
W
2
(g) 2.4 ± 0.12 2.24 ± 0.09 2.5 ± 0.14 2,36 ± 0,07
SRG
L
(%/ngày) 3,37 ± 2,21 3,81 ± 2,35 3,59 ± 2,06 3,59 ± 0,13
SRG
W
(%/ngày) 9,34 ± 3,08 9,04 ± 3,67 9,40 ± 3,11 9,26 ± 0,11

Tỷ lệ sống (%) 80 82,7 83,1 81,93 ± 0,97
CV
W
(%) 24,80 ± 8,04 22,15 ± 4,46 24,46 ± 9,05 23,8 ± 0,83
CV
L
(%) 11,21 ± 1,38 11,71 ± 0,91 12,19 ± 1,34 11,7 ± 0,28
FCR 0,83 0,81 0,85 0,83 ± 0,01
Đợt II (45 ngày)
Chỉ tiêu Mương 1 Mương 2 Mương 3
Trung bình
L
2
(cm) 9,65 ± 0,16 10,00 ± 0,16 10,45 ± 0,21
10,03 ± 0,23
SRG
L
(%/ngày) 1,40 ± 0,30 1,43 ± 0,29 1,50 ± 0,25
1,44 ± 0,03
W
2
(g) 14,38 ± 0,82 15,95 ± 0,84 18,75 ± 1,46
16,36 ± 1,28
SRG
W
(%/ngày) 4,56 ± 0,78 4,66 ± 0,72 4,75 ± 0,67
4,66 ± 0,05
Tỷ lệ sống (%) 51,1 55,9 53,3
53,43 ± 1,39
CV

W
(%) 105,27 ± 26,21 106,50 ± 26,27 115,92 ± 33,05
109,23 ± 3,36
CV
L
(%) 11,02 ± 0,94 10,70 ± 1,10 10,21 ± 1,01
10,64 ± 0,24
FCR 2,5 3 2,9
2,8 ± 0,15
W
2
, L
2
: Khối lượng và chiều dài toàn thân cá khi kết thúc thí nghiệm
SRG
L
: Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về chiều dài toàn thân cá
SRG
W
: Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về khối lượng cá
CV
W
(%): Tỷ lệ phân đàn theo khối lượng thân
CV
L
(%): Tỷ lệ phân đàn theo chiều dài toàn thân cá

Bảng 3: Sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá Chẽm ương bằng 3 loại thức ăn khác nhau.
Số liệu
cùng hàng có ký hiệu mũ khác

nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0.05)
Chỉ tiêu Inve Grobest Cá tạp
L
2
(mm) 76,9 ± 4,8 74,4 ± 0,4 69,2 ± 2,2
W
2
(g) 5,55 ± 0,48 4,99 ± 0,23 4,33 ± 0,27
SRG
L
(%/ngày) 0,013 ± 0,002 0,012 ± 0,001 0,012 ± 0,001
SRG
W
(%/ngày) 0,039 ± 0,01 0,038 ± 0,01 0,037 ± 0,001
Tỷ lệ sống (%) 97,97 ± 0,63
a
82,03 ± 1,63
b
74,06 ± 1,63
c
CV
W2
(%) 34,0 ± 7,1 39,0 ± 5,3 38,5 ± 1,9
11
CV
L2
(%) 11,1 ± 1,3 12,8 ± 1,0 15,2 ± 0,7
FCR 0,87 0,90 4,85

3.4 Hiệu quả kinh tế

Chi phí sản xuất của đợt ương I là 28.802.500 đ và đợt ương II là 37.040.000đ. Ở thời
điểm thu hoạch, giá bán của đợt ương I là 2.500 đ/con, đợt ương II là 3.000 đ/con. Lợi
nhuận của đợt ương I là 32.947.500 đ và đợt ương II là 10.960.000 đ. Tỷ suất sinh lợi của
hai đợt ương lần lượt là 1,14 và 0,30 (Bảng 4, 5).

Bảng 4: Hạch toán kinh tế của đợt thử nghiệm 1 (15 ngày; đơn vị: đồng)
Khoản mục ĐV
Số
lượng
Giá thành Thành tiền
Chi phí con giống con 30.000 800 24.000.000
Chi phí thức ăn kg 35 17.000 595.000
Chi phí nhân công tháng 0,5 1.000.000 500.000
Hao mòn TSCĐ tháng 0,5 970.000 485.000
Chi phí nhiên liệu (Dầu diesen) L 5 4.500 22.500
Chi phí điện (Máy khí) Kw 800 1.500 1.200.000
Chi phí khác 2.000.000
Tổng chi

28.802.500
Tổng thu
con 24.700 2.500
61.750.000
Lãi

32.947.500
Tỷ suất sinh lợi (Lãi/Tổng chi)
1,14

Bảng 5: Hạch toán kinh tế của đợt thử nghiệm 2 (45 ngày; đơn vị: đồng)

Khoản mục ĐV
Số
lượng
Giá thành Thành tiền
Chi phí sản xuất

Chi phí con giống con 30.000 800 24.000.000
Chi phí thức ăn kg 120 17.000 2.040.000
Chi phí nhân công tháng 1,5 1.000.000 1.500.000
Hao mòn TSCĐ tháng 1,5 970.000 1.455.000
Chi phí nhiên liệu (Dầu diesen) L 10 4.500 45.000
Chi phí điện (Máy khí, xe quạt nước) Kw 4.000 1.500 6.000.000
Chi phí khác 2.000.000
Tổng chi

37.040.000
Tổng thu
con 16.000 3.000
48.000.000
Lãi

10.960.000
Tỷ suất sinh lợi (Lãi/Tổng chi)
0,30

Tỉ suất sinh lợi của đợt thử nghiệm thứ 2 thấp do cá bị bệnh và thời gian ương kéo
dài (i.e. chi phí điện năng cao hơn). Chính vì thế cần thiết phải đảm bảo điều kiện ương
nuôi để rút ngắn thời gian ương, tiết kiệm chi phí sản xuất.

4. CÁC HẠN CHẾ CỦA SMART-01 VÀ HƯỚNG KHẮC PHỤC

12
Thử nghiệm vận hành cho thấy phiên bản SMART-01 có một số hạn chế nhất định.
Mương nổi được gắn vào bè vì thế giảm tính cơ động và độ nổi bị ảnh hưởng lớn nếu có
quá nhiều người lên bè. Hệ thống ống nâng nước được gắn cố định vào bè gây khó khăn
cho công tác vệ sinh. Hiệu suất hoạt động của ống nâng cũng thay đổi theo độ nổi của bè.
SMART-01 chưa có hệ thống thu gom chất thải mặc dù việc siphon được thực hiện khá dễ
dàng do chất thải dồn lại ở cuối mương. Tất cả những hạn chế này sẽ được khắc phục trong
phiên bản SMART-02. Mương được chế tạo bằng composit, có thể tích là 6,0 m
3
; tự nổi
mà không cần hệ thống bè hỗ trợ. Hệ thống ống nâng nước của SMART-02 nổi độc lập với
mương, dễ dàng tháo lắp, vệ sinh và được thiết kế để lấy được nước ở tầng mặt của ao.
Nhờ đó có thể sử dụng các ao có độ sâu mực nước thấp và hạn chế tối đa việc cá và chất
bẩn ở đáy có thể theo ống nâng nước vào mương. Cửa cấp và thoát nước cũng được cải
tiến để tăng cường công năng kỹ thuật.

LỜI CẢM ƠN
Báo cáo này sử dụng kết quả của Dự án “Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương
nổi” CARD VIE062/04 do chương trình CARD (Collaborative Agriculture Research &
Development) tài trợ thông qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn của chính phủ
Việt Nam. Công ty GROBEST (Việt Nam) là đơn vị tài trợ thức ăn nuôi cá cho nghiên cứu
này. Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn các cơ quan tài trợ, Trường Đại học Nha
Trang, Viện Nghiên cứu Chế tạo Tàu thủy, Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa; các bạn
sinh viên Lưu Thế Phương, Trần Thị Nhật Hưởng, Trần Văn Quyến, Đàm Thanh Ngọc,
Nguyễn Phi Thắng; và các cán bộ của Khoa Nuôi trồng Thủy sản: TS. Nguyễn Hữu Dũng,
TS. Đỗ Thị Hòa, ThS. Phan Văn Út, KS. Bùi Bá Trung, CN. Mai Thị Bích Hạnh và TS.
Hoàng Thị Bích Mai đã hỗ trợ thực hiện dự án này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Dam T. Ngoc (2006) Effect of some types of feed on growth, survival and size variation of
barramundi (Lates calcarifer Bloch 1790). Thesis. Nha Trang University. (In
Vietnamese).
Lai D. L. Binh (2006) Procedure of nursing barramundi fingerlings from 1 – 45 days after
hatching and determining effect of densities of nursed fingerling on growth, survival
and size variation. Thesis. Nha Trang University. (In Vietnamese).
13
Le Xan (2005) Results of research on reproduction and culture some species of marine and
brackish fish in Vietnam in recent years, orienting for coming researches. In:
Proceedings of the Conference on research and application science and technology in
aquaculture. Agriculture Publishing House, Ho Chi Minh city, pp. 541-549. (In
Vietnamese).
Luu T. Phuong (2006) Application float raceways to nurse barramundi (Lates calcarifer
Bloch, 1790) from 2 – 8 cm total length. Master thesis. University of Agriculture 1,
Ha Noi. (In Vietnamese).
Nguyen V. Su (2005) Developing tendency of marine fish reproduction technology. Tap
chi Thuy san 3: pp. 28-29. (In Vietnamese).
Tran T. N. Huong (2006) Evaluating the plankton exchange efficiency between reservoir
pond and floating raceways at Ninh Loc, Ninh Hoa, Khanh Hoa. Thesis. Nha Trang
University. (In Vietnamese).
Kunvankij P. (1986) Biology and culture of seabass (Lates calcarifer Bloch, 1790). NACA
Training Manual Series No. 3.
Lee C.S. (2003) Biotechnological advances in finfish hatchery production: a review.
Aquaculture 227: pp. 439 – 458.
14











PHẦN 2
Kỹ thuật ương và nuôi cá biển trong ao bằng mương nổi
Kết quả thử nghiệm phía Australia
15
Kỹ thuật ương và nuôi cá biển trong ao bằng mương nổi –
Kết quả thử nghiệm phía Australia

M.J. Burke
1
, B. Chilton
1
, L. Dutney
1
, B. Russell
1
, A. Collins
2
and T. Hoang
3


1
Department of Primary Industries and Fisheries, Bribie Island Aquaculture Research Centre, Bribie
Island, Queensland, Australia.
2

Department of Premier and Cabinet, International Collaborations, Brisbane, Queensland, Australia.
3
Trường Đại học Nha Trang, Trung tâm Nghiên cứu & Đào tạo Quốc tế, Nha Trang, Việt Nam

Địa chỉ liên lạc: Michael Burke, Bribie Island Aquaculture Research Centre, PO Box 2066 Bribie Island,
Queensland, 4507 Australia.



GIỚI THIỆU
Nuôi trồng thủy sản đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế ở Việt Nam
và đã được FAO đánh giá là một phương tiện xóa đói giảm nghèo hiệu quả. Mục tiêu đầy
tham vọng của ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam là sản xuất ra 2 triệu tấn sản phẩm chủ
yếu là từ nuôi biển vào năm 2010 đã nhận được sự hỗ trợ to lớn cả về tài chính cũng như
kỹ thuật từ Bộ Thủy sản (Việt Nam) và một số tổ chức quốc tế khác, trong đó có CARD. Ở
Australia, trong 5 năm trở lại đây, nuôi trồng thủy sản đã có những bước phát triển nhanh
chóng và trở thành ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Các đối tượng thủy sản được
ưa chuộng ở nước này như cá Chẽm, cá Viên đuôi vàng (Regificolla grandis) và gần đây là
một số loài như cá mú và cá Bớp.
Tuy nhiên, nghề nuôi trồng thủy sản nói chung và nghề nuôi biển nói riêng ở cả hai
quốc gia hiện nay đang gặp những trở ngại to lớn. Một trong những trở ngại này là thiếu
những công nghệ sản xuất có khả năng sản xuất ra lượng lớn sản phẩm với giá rẻ đồng thời
giảm thiểu tác động đến môi trường tự nhiên. Ở Việt Nam, hình thức nuôi biển phổ biến
hiện nay là nuôi trong các lồng nuôi kích thước nhỏ và trong các ao nuôi ven biển, sử dụng
con giống vớt ngoài tự nhiên. Trong khi đó, tại Queensland, nghề nuôi cá biển trong lồng
từ lâu được coi là một hình thức gây ảnh hưởng xấu cho các rạn san hô và các hệ sinh thái
nhạy cảm tương tự khác. Các qui chế ngặt nghèo áp dụng cho nghề nuôi lồng tại
Queensland cho thấy khả năng phát triển hình thức nuôi này vô cùng hạn chế. Vì thế cần
phải nghiên cứu tìm ra công nghệ nuôi mới, vừa đảm bảo không gây nguy hại cho môi
trường, vừa đem lại lợi nhuận cho người nuôi để có thể tiếp tục phát triển nghề nuôi cá

biển. Nhu cầu này càng trở nên cấp thiết hơn khi ngày càng có nhiều người nuôi tôm ở
Australia muốn tìm kiếm đối tượng nuôi khác do thị trường tôm cung đã vượt quá cầu và
người nuôi luôn phải cạnh tranh với nguồn tôm nhập khẩu có giá rẻ hơn sản xuất trong
16
nước. Hiện nay, tại Australia, chưa hề có một mô hình nuôi thâm canh cá biển nào tái sử
dụng nước 100% (không thay nước). Việc xây dựng các bể nuôi tuần hoàn, tái sử dụng
nước rất đắt tiền và không tận dụng được ưu thế về khí hậu (ôn hoà, thuận lợi cho nghề
NTTS) ở Queensland và hệ thống ao đầm mà người dân hiện có.



Hình 1. Hệ thống mương nổi nuôi cá thương phẩm trong ao/ hồ chứa tại BIARC

Dự án CARD này sẽ giải quyết các khó khăn nêu trên bằng cách xây dựng một hệ
thống nuôi mới, bền vững hơn cho nghề nuôi hải sản. Hệ thống này còn có thể được ứng
dụng vào các thủy vực nước ngọt trong nội địa. Hệ thống nuôi mới mà dự án xây dựng là
sự kết hợp sáng tạo giữa công nghệ nuôi cá bằng mương nổi với nguyên tắc xử lý nước
thải bằng phương pháp sinh học. Các mương nổi, làm bằng plastic hay vật liệu rẻ tiền, đã
được thử nghiệm thành công ở Nhật, Australia và Mỹ. Chúng hoạt động như là một hệ
thống nuôi nước chảy với lưu tốc rất ổn định, vì thế cho phép nâng mật độ nuôi lên rất cao
(tới 100 kg/m
3
) với chi phí đầu tư và vận hành thấp. So với nuôi cá trong lồng lưới, sử
dụng mương nổi đem lại hệ số chuyển đổi thức ăn thấp (tiết kiệm thức ăn), giảm lượng
chất thải đến 30% và giảm 50% nhân công. Việc kết hợp sử dụng mương nổi với xử lý
nước thải bằng phương pháp sinh học sẽ cho phép xây dựng hệ thống nuôi bán mở hoặc
kín hoàn toàn, nhờ vậy làm giảm đáng kể ảnh hưởng có thể của NTTS lên môi trường.
Điểm đặc biệt của hệ thống này chính là ở khả năng ứng dụng cao của nó cho các nông hộ
nuôi ở qui mô nhỏ. Họ có thể sử dụng hệ thống ao đìa đã có sẵn mà không phải sửa đổi hay
17

đầu tư thêm nhiều. Dự án này hy vọng sẽ góp phần nâng cao sản lượng cá biển giống và
tận dụng các ao nuôi tôm hiện đang bị bỏ hoang do dịch bệnh ở vùng duyên hải. Mục tiêu
của dự án hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của chương trình CARD: sử dụng công nghệ
đơn giản có hiệu quả để giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường và phát triển năng lực cán
bộ của quốc gia.
Về phía Việt Nam, dự án này nhắm đến việc xây dựng một mô hình ương nuôi ấu trùng
và cá giống của các đối tượng có giá trị kinh tế cho người nuôi cá biển ở Việt nam với các
đặc tính dễ ứng dụng, có hiệu quả kinh tế và không ảnh hưởng đến môi trường. Thông qua
việc sử dụng các mương nổi trong ao, dự án sẽ giúp người nuôi thiết lập một hệ thống
ương ấu trùng/cá giống mang tính thâm canh, có tuổi thọ cao và dễ quản lý chăm sóc. Nhờ
vậy sẽ góp phần tích cực giảm chi phí sản xuất và gia tăng lượng con giống cá biển hiện
vẫn còn rất hạn chế ở cả Australia và Việt nam. Dự án này cũng sẽ thử nghiệm mương nổi
để nuôi thương phẩm các đối tượng cá biển thông qua việc hợp tác với các nghiên cứu viên
của Australia.
Tại Bribie Island Aquaculture Research Centre (BIARC), các thử nghiệm nuôi thương
phẩm cá Mú nước ngọt (Argyrosomus japonicus) và cá Đục (Sillago ciliata) đã được tiến
hành trong thời gian 18 tháng từ năm 2005 đến 2006. Tại đây, mương nổi được chế tạo với
hai kích thước khác nhau (Hình 3) - Mương ương cá (dùng trong thử nghiệm ương cá Đục)
có thể tích hoạt động là 3.600L và mương nuôi thương phẩm (dùng trong thử nghiệm nuôi
cá Mú nước ngọt) với thể tích 20.000L. Thử nghiệm cho thấy sử dụng mương nổi ở cả hai
kích thước để nuôi hai loài là cá Mú nước ngọt và cá Đục đều có thể đạt đến cỡ thương
phẩm. Tuy nhiên, kích cỡ thương phẩm và tốc độ sinh trưởng của hai loài này rất khác
nhau. Ở Australia, cá Đục có khối lượng từ 60 gram trở lên được xem là đạt cỡ thương
phẩm. Cá Mú nước ngọt có giá loại 1 khi đạt kích cỡ từ 2 – 2,5 kg. Trong thử nghiệm của
Trung tâm, cá hiện nay đã đạt khối lượng trên 1 kg/con và dự tính sẽ đạt kích cỡ thương
phẩm trong 6 tháng nữa.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mương nổi
Mương nổi sử dụng ở BIARC có cấu tạo đơn giản. Phần khung nâng đỡ mương được
lót ván (loại ván đã qua xử lý) và nổi trên mặt nước nhờ những phuy nhựa 200L (Hình 1 &

2). Phần mương nổi được chế tạo từ một loại nhựa tổng hợp là HDPE, dày 2mm. Mương
được treo vào phần khung/bè nâng đỡ. Hai đầu cấp và thoát nước của mương có gắn một
tấm lưới cho phép nước ra vào mương thông qua một khung lưới. Khung lưới này còn có
18
tác dụng giữ cá trong mương nuôi và nếu muốn có thể giữ cả thực vật phù du. Kích thước
của mắt lưới phụ thuộc vào đối tượng nuôi và giai đoạn nuôi. Tấm lưới chắn được lắp vào
khung nhôm theo dạng trượt (Hình 4). Khung nhôm này được gắn chặt vào hai đầu mương
nhờ các đinh vít (làm bằng thép không rỉ 316) và các ron đệm hình chữ C. Hai đầu mương
được ghép vuông góc với phần thân mương (bằng các bu-lông thép không rỉ 316 và các
ron đệm). Phần mối ghép được gia cố bằng các mảnh nhựa tái chế 20mm x 20mm với
chiều dài phù hợp (Hình 4). Sơ đồ cấu tạo chi tiết mương nổi sẽ được trình bày cụ thể ở
phần sau (Hình 7&8).

Hình 2. Cấu trúc phần khung nâng đỡ mương

Hệ thống ống nâng nước và hệ thống cung cấp khí
Hệ thống ống nâng nước dùng trong mương nuôi thương phẩm có thể tích 20.000L
gồm 18 ống nhựa PVC Ø90 mm. Hệ thống này có khả năng tạo dòng chảy từ ngoài vào
mương với lưu tốc >1500L/phút. Như vậy, thời gian để thay hoàn toàn lượng nước trong
mương ít dướia15 phút (12,7 phút). Đối với mương ương cá, hệ thống ống nâng nước chỉ
gồm 4 ống nhựa PVC Ø90 mm, do đó lưu lượng nước trao đổi giữa mương và ao giảm
xuống chỉ còn 350L/phút và thời gian để thay toàn bộ nước trong mương là 14,5 phút
(Hình 5). Các số liệu này được tính toán dựa trên áp suất tiêu chuẩn (36Kpa) và công suất
máy sử dụng ở BIARC. Do vậy, lưu lượng trao đổi nước giữa mương và ao chứa sẽ phụ
thuộc vào sự thay đổi của các thông số này cũng như các quá trình sinh học. Chẳng hạn
như khi ống nâng nước hay một đầu của mương bị tắc nghẽn sẽ làm giảm lưu lượng trao
đổi nước giữa mương và ao.
19

Mương nổi 20,000 L

Mương nổi 20,000 L



Mương n?i 3600 L



Mương n?i 3,600 L



3,600 litre Raceway


3,600 litre Raceway
Hình 3. Sơ đồ hệ thống mương nổi dùng để ương và nuôi thương phẩm. Các đường
màu xanh biểu thị ống dẫn khí đến hệ thống ống nâng nước

Hình 4. Mương nổi ở tư thế úp ngược. Khung nhôm để lắp tấm lưới chắn. Cận cảnh là mối
liên kết giữa mặt cuối của mương và phần thân dọc của mương
Lượng khí để vận hành hệ thống ống nâng nước được phân phối từ hệ thống cung cấp
khí chung của trạm nghiên cứu thông qua một đường ống dẫn khí Ø50 mm có khả năng
giãn nở. Hệ thống cung cấp khí chung cho cả trại gồm ba máy nén khí, trong đó có 2 máy
loại Wade SR 113 và 1 máy Robushi SRB. Máy Wade SR 113 có khả năng cung cấp 202 L
khí/ giây còn công suất của máy Robushi SRB là 100 L khí/giây. Như vậy, khi vận hành,
20
công suất tối đa của cả hệ thống là 502 L khí/ giây. Các máy nén khí được điều khiển độc
lập nhau thông qua các thiết bị điều chỉnh tốc độ (Variable Speed Drive Units-VSD) ABB.
Các thiết bị này lại được liên kết với Hệ thống quản lý trung tâm (CMS). Hệ thống CMS

có chức năng quản lý các yếu tố như nhiệt độ, áp suất và tốc độ. Các dữ liệu này được
chuyển sang dạng tín hiệu để điều khiển hoạt động của các thiết bị điều chỉnh tốc độ
(VSD), từ đó điều khiển hoạt động của các máy nén khí. Máy nén khí được điều chỉnh hoạt
động trong một phạm vi áp suất nhất định (có thể điều chỉnh được - hiện nay là 36Kpa).
Máy sẽ ngừng hoạt động ở áp suất 50Kpa và truyền tín hiệu báo động. Nhiệt độ khí do hệ
thống CMS quản lý và hệ thống này sẽ phát tín hiệu báo động khi nhiệt độ khí lên đến
100°C. Khi đó, khí sẽ được làm nguội đến 21,6°C khi nhiệt độ nước là 16,6°C. Khí sau khi
được làm nguội đến nhiệt độ thích hợp sẽ được dẫn qua hệ thống ABS, đưa vào các ống
dẫn khí làm bằng chất liệu UPVC để cung cấp khí cho hệ thống mương nổi và các hệ thống
khác của trạm nghiên cứu. Máy nén khí sử dụng trong hệ thống này không phải là loại máy
thông thường mà là loại đã được cải tiến.

Hình 5. Hệ thống ống nâng nước làm bằng ống nhựa PVC dùng trong mương ương
Cấu tạo của ao/hồ chứa để nuôi thương phẩm - Biện pháp quản lý
Ao/hồ chứa nuôi thương phẩm có diện tích 1600m
2
(40m x 40m), được lót bạt HDPE
2mm. Bố trí một cống tháo cạn (Ø150 mm) ở giữa ao và hệ thống cống thoát nước nối với
một khu vực thu hoạch. Độ sâu ao ở phía cống thoát là 2,4m và ở các vùng còn lại là 2,0m.
Nước được cấp vào ao thông qua ống nhựa PVC Ø150 mm và được khuấy đảo và chảy
thành vòng tròn trong ao nhờ hai máy quạt nước, công suất mỗi máy là 2hp. Nước chảy
tròn trong ao tạo điều kiện để thu gom chất thải từ mương nổi tích tụ lại ở giữa ao, tạo điều
kiện để tháo chất thải ra khỏi ao một cách dễ dàng và tránh chất thải theo hệ thống ống
nâng nước để vào mương. Các thông số chất lượng nước trong mương nổi và ao chứa như
21
pH, độ mặn, DO, độ trong và nhiệt độ nước được xác định mỗi ngày hai lần bằng máy đo
YSI. Chỉ có sự khác nhau giữa hàm lượng oxy hòa tan trong mương nổi và trong ao/ hồ
chứa nuôi thương phẩm. Hàng ngày đều tiến hành thay 10% lượng nước ao. Thực hiện các
biện pháp quản lý tảo trong ao chứa, đảm bảo cho độ trong của nước ao dao động trong
khoảng 30 – 60 cm, tránh hiện tượng nở hoa của tảo và bón phân vô cơ khi độ trong của

nước cao. Có thể sử dụng loại phân vô cơ được phối trộn từ urê, MAP (nhôm phosphat -
AlPO
4
) và kali nitrat (KNO
3
) với các tỷ lệ khác nhau.
Feeding Activity
0
1
2
3
4
5
6
10:00:01 PM
10:25:34 PM
10:51:07 PM
11:16:40 PM
11:42:13 PM
12:07:46 AM
12:33:19 AM
12:58:52 AM
1:24:25 AM
1:49:58 AM
2:15:31 AM
2:41:04 AM
3:06:37 AM
3:32:10 AM
3:57:43 AM
Feeding Activity


Hình 6. Đồ thị biểu diễn những thời điểm cá tập trung bắt mồi mạnh (theo hoạt động của
máy cho ăn tự động)
Sau khi tính toán khẩu phần thức ăn, một phần lượng thức ăn này sẽ được rải cho cá
đến khi no (hai lần trong ngày). Phần còn lại sẽ được cho vào máy cho ăn tự động, điều
chỉnh tốc độ của máy để máy cung cấp thức ăn cho cá trong thời gian ban đêm và sáng
sớm khi cá tập trung bắt mồi mạnh nhất (Hình 6). Hoạt động bắt mồi của cá sẽ tác động tới
con lắc được gắn với máy cho ăn tự động, làm cho các viên thức ăn trong máy rơi xuống.
Thức ăn sử dụng trong các thử nghiệm nuôi cá Đục là Ridley’s Aqua-Feed Native Fish
Diet (có tốc độ chìm chậm) cỡ 52:12 (Kích thước hạt 3mm) và cỡ 45:10 (4 – 6mm). Thử
nghiệm nuôi cá Mú nước ngọt sử dụng thức ăn Ridley’s Aqua-Feed Barramundi Diet (nổi
và chìm) với các kích cỡ 50:12 và 43:20 (4 – 10 mm). Lượng thức ăn cung cấp cho cá
được điều chỉnh hàng ngày phụ thuộc vào hoạt động bắt mồi của cá, điều kiện thời tiết và
các thông số về chất lượng nước nuôi.
22
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG MƯƠNG NỔI
Cá Đục
Cá Đục giống được sản xuất nhân tạo bằng cách sử dụng hormone tại BIARC. Thả cá
Đục con còn mang noãn hoàng xuống ao đã được chuẩn bị và được gây màu nước. Khi cá
đến giai đoạn chuyển đổi thức ăn, sử dụng một loại thiết bị có tên là VAKI Bioscanner
Fish CounterIM để thu hoạch cá trong ao. Đợt nuôi cá Đục thử nghiệm trong mương nổi
lần thứ nhất bắt đầu vào ngày 8 tháng 7 năm 2005. Lượng cá sử dụng cho đợt thử nghiệm
này là 17.502 con với kích thước trung bình là 5,52g. Cá được nuôi trong một mương với
mật độ nuôi là 26,84 kg/m
3
. Kết quả cho thấy (đồ thị 1) cá lớn nhanh và kích thước trung
bình khi thu hoạch (ngày 4 tháng 10 năm 2005) là 12,62g và sinh khối trong mương lúc
này là 51,46 kg/m
3
. Tốc độ sinh trưởng đặc trưng (SGR) là 0,940 và tỷ lệ sống đạt 86%.

Ngày 4 tháng 10 năm 2005, khi sinh khối trong mương đạt mức 51,46 kg/m
3
, tiến hành
thu hoạch toàn bộ cá trong mương và chuyển sang nuôi trong hai mương ương (Thử
nghiệm 2). Như vậy, sinh khối trong mỗi mương giảm xuống chỉ còn 26,5 kg/m3. Trong
vòng 11 tuần (từ 4/10/2005 đến 15/12/2005), sinh khối của cá trong mương tăng từ 26
kg/m
3
lên đến 69,24 kg/m
3
và SGR đạt 1,391.
Thử nghiệm 3 được tiến hành vào ngày 6 tháng 1 năm 2006. Lúc này, sinh khối của cá
nuôi trong mương đạt tới đỉnh điểm là 69,24 kg/m
3
và cá có dấu hiện bị stress. Nồng độ
oxy hòa tan trong ao giảm và không thể duy trì ở mức trên 4 ppm. Do vậy, tiến hành thu
hoạch cá trong cả hai mương ương và phân cỡ cá. 50% lượng cá thu hoạch được có khối
lượng lớn hơn lại được tiếp tục nuôi trong mương nổi (Thử nghiệm 3). Như vậy, sinh khối
trong mương được giảm xuống chỉ còn 45 kg/m
3
. Lúc này, khối lượng trung bình của cá
Đục trong thử nghiệm là 33,12g. Sau đó, lượng cá này lại tiếp tục được nuôi và sinh trưởng
trong hai mương. Sau 5 tháng, sinh khối của cá trong mương lại đạt giá trị 77,65 kg/m
3
.
Các thông số môi trường nước trong ao lúc này không còn đảm bảo cho sức khỏe cá, do
vậy, lượng cá trong mươg được san thành 3 mương và sinh khối trong mỗi mương giảm
xuống còn khoảng 55 kg/m3.
23


Hình 7. Bản vẽ chi tiết cấu tạo mương nổi
Hình 8. Bản vẽ phối cảnh cấu tạo mương nổi
24
Phương pháp nuôi bằng cách điều chỉnh sinh khối/mật độ và các thông số như tốc độ
sinh trưởng, lượng cho ăn, các biểu hiện về sức khoẻ cá nuôi, cá thông số môi trường quan
trọng đã giúp cho các nghiên cứu viên dự đoán được năng suất nuôi của mương ương có
thể lên tới 70 kg/m3. Đội ngũ nghiên cứu của chúng tôi cũng đã tìm cách lập hàm phân
tích hồi quy tất cả các yếu tố tác động đến việc chăm sóc quản lý mương. Tuy nhiên, nỗ
lực này vẫn chưa thực hiện được do các số liệu thu thập chưa được tập trung.
Trong các thử nghiệm nuôi cá Đục trong mương ương, cá sinh trưởng tốt ở các mật độ
(cao và thấp) nuôi. Tốc độ sinh trưởng của cá chỉ giảm khi ‘khả năng tải’ của mương ương
đạt tới mức giới hạn. Đợt thử nghiệm 3 sử dụng một nửa đàn cá (lấy theo khối lượng thân
giảm dần) của thử nghiệm 2 có SGR thấp nhất. Như vậy, đồ thị biểu diễn sinh trưởng của
cá trong thử nghiệm 3 có thể được xem là đường cong sinh trưởng điển hình cho loài này.
Một số cá thể trong đàn đạt đến kích thước thành thục sinh sản. Điều này sẽ được kiểm
nghiệm trong thử nghiệm tiếp theo. Việc thu thập các số liệu về chiều dài toàn thân, khối
lượng thân cá và kiểm tra sức khỏe cá được thực hiện định kỳ nửa tháng một lần cho đến
khi xảy ra hiện tượng cá chết lúc đang thao tác cá vào tháng 5/2006 (mùa thu). Nguyên
nhân cá chết được xác định là do nhiễm khuẩn thứ cấp vi khuẩn Flexibacter columnaris
(do thao tác quá nhiều) và nhiệt độ nước giảm đột ngột. Sau khi tiến hành giảm hoặc
ngừng hẳn các thao tác cơ học với cá thì hiện tượng cá chết hàng loạt không còn xảy ra. Cá
hồi phục sức khỏe trở lại mà không cần chữa trị. Cá Đục có thể bán trên thị trường ở dạng
nguyên con (Hình 9) hay ở dạng phi lê. Giá bán lẻ thịt cá đông lạnh vào khoảng hơn
20$/kg.
Những kết quả chính đạt được:
1. Thử nghiệm thành công nuôi thương phẩm cá whiting trong mương ương với mật
độ lên tới 70 kg/m3, tương đương với tổng sinh khối vào khoảng 250 kg trên mỗi
đơn vị.
2. Trng thử nghiệm này, khối lượng trung bình của cá Đục nuôi trong mương ương
tăng từ 5,52g lên 88,87g trong thời gian 9,5 tháng.

3. FCR vào khoảng 1,8:1.
4. Sinh khối cá Đục nuôi trong mương có giai đoạn tăng từ 26 kg/m
3
lên đến 70
kg/m
3
trong vòng chưa đầy 11 tuần.
5. SGR trong đợt thử nghiệm thứ 2 là 1,391 và trong tlần thử nghiệm thứ 3 là 0,520.
25

×