Lưu ý khi nuôi thâm canh cá tra trong ao đất
Nguồn: vietlinh.com.vn
Cá tra đã trở thành đối tượng cá nước ngọt được nuôi chủ yếu ở ĐBSCL.
Sản lượng cá tra tăng nhanh từ khi nghề nuôi đã chủ động được nguồn giống và
phát triển tốt thị trường xuất khẩu.
Trong năm 2008, sản lượng cá tra ước đạt trên 1 triệu tấn. Trước đây cá tra
được nuôi trong bè, đăng quầng nhưng chi phí đóng bè khá lớn, khó khăn trong
việc quản lý nguồn nước và sản lượng không thể sánh bằng nuôi trong ao đất. Do
vậy, đào ao nuôi cá dọc theo bãi bồi, cù lao sông lớn đã phát triển rất nhanh từ
năm 2004 đến nay với năng suất rất cao, có thể đạt năng suất 400 tấn/ha.
Thời gian gần đây, với phương châm “đồng hành cùng phát triển với nông
dân”, Cty TNHH sản xuất thủy sản Tomboy đã tung đội ngũ hàng trăm kỹ sư
xuống tận các vùng nuôi cá tra tư vấn kỹ thuật cho bà con, đồng thời đúc rút được
thêm nhiều kinh nghiệm trong nghề nuôi cá tra đang phát triển rất mạnh này.
NNVN xin giới thiệu cùng bạn đọc một số kinh nghiệm…
Về con giống: Trong sinh sản nhân tạo cá tra có thể thành thục và đẻ sớm
hơn trong tự nhiên. Cá cái có thể tái phát dục 1 - 3 lần/năm. Mùa sản xuất cá giống
bắt đầu từ tháng 3, lên cao điểm trong tháng 5 - 8 và kéo dài cho đến tận tháng 10.
Tuy nhiên, những tháng trời lạnh, cá tra lên trứng kém nên cá giống trong thời
gian này không tốt. Vì vậy bà con cần lưu ý tránh thả cá vào mùa lạnh để bảo đảm
chất lượng cá giống. Ngoài ra, trước khi thả cá nên tắm cá bằng nước muối 2 – 3%
hay thuốc tím 2ppm nhằm loại bỏ ký sinh trùng và sát khuẩn các vết thương trên
thân. Điều này rất quan trong vì trong quá trình vận chuyển, cá sẽ bị xây xát, dễ
gây bệnh cho cá. Nên thả cá vào buổi sáng (7 - 8h) hoặc chiều mát (17 – 18h), chỉ
thả những con còn khỏe sau khi tắm sát trùng.
Mật độ thả: Hiện nay nhiều hộ nuôi đang thả cá với mật độ cao, trên 45
con/m2. Việc thả cá với mật độ dày tưởng sẽ sinh lợi, tiết kiệm diện tích nuôi
nhưng sẽ làm cho cá bị stress và phát sinh dịch bệnh. Khi đó, người nuôi phải sử
dụng hóa chất, thuốc men rất nhiều trên diện tích ao nuôi làm gia tăng chi phí, gây
ô nhiễm môi trường nuôi, tồn lưu thuốc, hóa chất độc hại trong thịt cá và năng suất
ao nuôi ngày càng thấp. Vì vậy, bà con nuôi cá chỉ nên thả cá với mật độ trung
bình 12 – 20 con/m2.
Ao nuôi: Vị trí ao nuôi nên gần nguồn cấp – thoát nước, thuận lợi nhất là
gần sông lớn. Hiện nay đa số ao nuôi cá tra được xây dựng trên đất bãi ven sông
Tiền và sông Hậu. Tuy nhiên, do nuôi cá tra trong những năm qua đạt lợi nhuận
khá nên người nuôi cũng đào ao tại đất vườn, đất ruộng nằm sâu trong nội đồng và
lấy nước qua hệ thống kênh, rạch nhỏ. Một vài vụ đầu tiên có thể vẫn đạt năng
suất. Nhưng ở những vị trí này, khả năng cấp – thoát nước bị hạn chế, kênh rạch
không được nạo vét thường xuyên dễ tích tụ chất thải từ các ao của vụ nuôi trước
làm cho cá chậm lớn, hay mắc bệnh và chất lượng thịt cá không tốt.
Diện tích ao nuôi cũng là vấn đề cần lưu ý, kinh nghiệm của một số chủ ao
lớn cho biết: Ao quá lớn, sản lượng cá trong ao quá nhiều nên có khi phải thu đến
4 ngày mới hết cá vì khả năng vận chuyển của ghe thu mua cá có hạn. Cá tra lại rất
nhạy cảm nên từ lúc bắt đầu thu hoạch là cá hoàn toàn bỏ ăn.
Vì vậy thời gian thu hoạch cá trong 1 ao càng lâu cá càng bị gầy ốm, đỏ
vây, đỏ kỳ và có thể phát dịch bệnh trong thời gian thu hoạch. Vì vậy diện tích ao
nuôi chỉ nên ở mức trên dưới 500m2 là phù hợp nhất.
Thức ăn: Nên sử dụng thức ăn công nghiệp cho cá. Thức ăn công nghiệp
dạng nổi rất dễ sử dụng và dễ kiểm soát phù hợp với lượng thức ăn cá ăn mỗi cữ
hay mỗi ngày. Cho cá ăn tùy theo giai đoạn phát triển của cá, từ 1 – 5% trọng
lượng thân cá/ngày.
Ví như: Với loại thức ăn hiệu Tomboy, sử dụng loại CAT 180 cho cỡ cá đạt
trọng lượng trên 20g/con, mức 5% trọng lượng của cá; CAT 300 cho cỡ 20 –
100g/con, mức 3-5%; CAT 450 cỡ 100 – 300g/con, mức 2-3%; CAT 650 cỡ 300 –
500g/con, mức 2 -3% và CAT 1.000 cho cá đạt cỡ 500g/con, mức 1-2%. Lưu ý, cá
càng lớn càng giảm lần ăn, cá đã đạt kích cỡ trên 20g, cho ăn 3-4 lần/ngày và khi
đến trên 500g, chỉ cần cho ăn 2 lần/ngày. Nên cho cá ăn vào những vị trí và thời
điểm cố định nhằm tập cho cá có phản xạ tốt với việc bắt mồi. Cho ăn hai cữ lúc 7
– 9h sáng và chiều 4-6h, không cho ăn vào buổi tối vì khi đó khả năng chuyển hóa
thức ăn thành cơ thịt của cá là rất thấp. Và trước khi thu hoạch 1 – 2 ngày ngưng
không cho cá ăn nhằm nâng cao tỷ lệ sống cho cá trong thời gian vận chuyển.
Thay nước: Bản thân cá tra luôn có sự điều chỉnh các trạng thái sinh lý
trong cơ thể cho phù hợp với chất lượng môi trường nước bên ngoài ngay cả khi
cá bị bệnh hay chất lượng nước kém. Vì vậy mọi sự thay đổi nước đều phải diễn ra
từ từ. Không thay đổi đột ngột từ chế độ thay nước ít sang thay nước nhiều hay
ngược lại. Kinh nghiệm, khi cá nhỏ trong hai tháng đầu có thể thay 10 – 30%
nước/lần, khi cá lớn, nhất là gần thu hoạch có thể thay 40 – 50% nước/lần.