Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

BƯỚC CHUYỂN TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TỪ HIỆN TƯỢNG HỌC SANG CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------

BÁO CÁO TỔNG KẾT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NĂM 2018

BƯỚC CHUYỂN TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TỪ HIỆN TƯỢNG
HỌC SANG CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Thuộc lĩnh vực: Lịch sử triết học

Hà Nội – 2018

1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của Th.S Hoàng Văn Thắng. Là kết quả nghiên cứu trực tiếp một số
tác phẩm của cố GS.Trần Đức Thảo và nguyên cứu của các học giả về tư tưởng Trần
Đức Thảo. Các tài liệu nghiên cứu là trung thực, khách quan, có nguồn gốc rõ ràng.
Giáo viên hướng dẫn

Sinh viên

Bùi Văn Chung

Trần Minh Hiếu


2


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Th.S Hoàng Văn Thắng, người đã
hướng dẫn tận tình tơi hồn thành nghiên cứu này. Tơi xin tri ân các thầy cô khoa Triết
học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã đồng
hành cùng tôi trong suốt 3 năm Đại Học.
Tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn đến các bạn bè và gia đình đã giúp đỡ tích cực
trong q trình thực hiện nghiên cứu.
Tơi xin dành tặng nghiên cứu khoa học này cho mẹ tôi, người đã hết lịng ủng hộ
và tin tưởng tơi theo đuổi ngành triết học.
Hà nội, ngày... tháng... năm 2018
Sinh viên

Bùi Văn Chung

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 7
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ......................................................................... 9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................11
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................12
6. Đóng góp của nghiên cứu ......................................................................................12
7. Kết cấu của bài nghiên cứu ....................................................................................12
NỘI DUNG ...................................................................................................................13

CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG CHO BƯỚC
CHUYỂN CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TỪ HIỆN TƯỢNG HỌC ĐẾN CHỦ
NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG ...........................................................................13
1.1. Đôi nét về thân thế và sự nghiệp cố Gs. Trần Đức Thảo (không cần ghi cố
GS) .............................................................................................................................13
1.2. Bối cảnh lịch sử dẫn đến bước chuyển trong tư tưởng Trần Đức Thảo từ
Hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng ............................................14
CHƯƠNG 2: BƯỚC CHUYỂN TRONG TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN ĐỨC THẢO
TỪ HIỆN TƯỢNG HỌC SANG CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG (nên
thêm “nội dung” vào đầu tên tít để tránh trùng lặp với tên khóa luận) ................18
2.1. Trần Đức Thảo với Hiện tượng luận Husserl (chỉ cần 2 tiết: một là, nội dung
cơ bản của hiện tượng luận Husserl và hai là, sự ảnh hưởng của hiện tượng luận
Husserl đến TĐT) .......................................................................................................18
2.1.1 Bối cảnh lịch sử cho sự xuất xuất hiện bản thể luận “Hiện tượng luận” .....19
2.1.2. Tiền đề tư tưởng ra đời Hiện tượng học của Husserl ...................................20
4


2.1.2.1 Husserl với triết học R. Descartes ..............................................................20
2.1.2.2 Husserl với triết học tiên nghiệm Kant .......................................................21
2.1.2.3. Husserl với quan niệm “Tính ý hướng” của Brentano .............................22
2.1.3 Một số khái niệm nền tảng của Hiện tượng học Husserl ..............................24
2.2.Tư tưởng triết học cơ bản hiện tượng học Husserl .........................................27
2.3. Tính ý hướng một khái niệm trung tâm của Hiện tượng học..............................31
2.4. Những giá trị và hạn chế của quan niệm Husserl về tính ý hướng .....................36
2.4.1. Những giá trị của quan niệm Husserl về Tính ý hướng ...............................36
2.4.2. Những hạn chế của quan niệm Husserl về Tính ý hướng .............................37
2.2. Trần Đức Thảo với phép biện chứng ..............................................................40
2.2.1.Sự tiếp thu hạt nhân hợp lý triết học Hegel ...................................................41
2.2.2. Trần Đức Thảo với Phép biện chứng của Hegel ..........................................50

2.2.3 Trần Đức Thảo với phép biện chứng duy vật ................................................51
2.2.3.1 Cơ sở thực tế của tư tưởng .....................................................................54
2.2.3.2 Nội dung và phương thức phản ánh của ý thức-tư tưởng ...................56
2.2.3.3 Sự tha hóa của của ý thức ....................................................................60
2.2.4. Trần Đức Thảo với triết học duy vật ............................................................61
KẾT LUẬN ..................................................................................................................77
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................84

5


chương 2: Nội dung bước chuyển trong tư tưởng của TĐT từ hiện tượng học sang
chủ nghĩa duy vật biện chứng

2.1. TĐT với hiện tượng học Husserl
2.1.1. Nội dung cơ bản của hiện tượng học Husserl
2.1.1.1.
2.1.1.2.
……..
2.1.2. Sự ảnh hưởng của hiện tượng học Husserl đến TĐT
2.1.2.1.
2.1.2.2.
…..
2.2. TĐT với PBC và CNDVBC
2.2.1. Sự ảnh hưởng của triết học Hegel đến TĐT
2.2.1.1. TĐT với PBC của Hegel
2.2.1.2. TĐT tiếp thu hạt nhân hợp lý trong triết học Hegel
2.2.2. Sự ảnh hưởng của CNDVBC đến TĐT
2.2.2.1. TĐT tiếp thu triết học duy vật biện chứng

2.2.2.2. TĐT tiếp thu pbcdv

Không nên đi quá sâu vào triết học Husserl cũng như triết học Hegel, Kant… Chỉ
nên bàn nội dung cơ bản của các triết học này và nhất là phân tích sự ảnh hưởng
của chúng đến tư tưởng TĐT cũng như sự chuyển biến tư tưởng của TĐT mà thơi.
Làm về bước chuyển rất khó. Vấn đề là phải nêu bật được bước chuyển chứ khơng
phải là trình bày triết học Husserl, triết học Hegel, triết học Kant.
6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trần Đức Thảo là một nhà triết học, một người tri thức yêu nước, suốt đời tận tụy
với khoa học. Con người ông, những tư tưởng của ơng chính là minh chứng cho tầm
vóc, trí tuệ con người Việt Nam dù ở trong bối cảnh khắc nghiệt nhất vẫn ln giữ
vững một ý trí vươn lên. Những năm tháng học tập và nghiên cứu ở Pháp từ 1936-1951,
7


được đào tạo trong môi trường giáo dục bài bản và quy củ trường cao đẳng phố d’Ulmmột trong những trường đào tạo học thuật có tiếng, Trần Đức Thảo đã chứng thực năng
lực học thuật của mình trong lĩnh vực triết học cũng như nhiều lĩnh vực khoa học xã
hội khác. Ơng trở thành một con người có sức ảnh hưởng đến giới học thuật Pháp, được
nhiều học giả nổi tiếng ở Pháp biết đến và đánh giá cao với tư duy độc đáo. Các tác
phẩm nổi tiếng của ông như “Phương pháp hiện tượng luận Husserl”, “Hiện tượng luận
và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, “Tìm về cuội nguồn của ngôn ngữ và ý thức” ,.v.v.
như là một sự khẳng định cho khả năng và tầm vóc trí tuệ của ông.
Những tác phẩm không chỉ là lời khẳng định, là tuyên ngôn cho lập trường tư
tưởng vững vàng của Trần Đức Thảo, mà còn ẩn chứa những bước “chuyển mình” về
tư tưởng đầy suy tư, trăn trở, đầy mẫu thuẫn, dằn vặt như con trai tạo ngọc. Nhà triết
học dường như lặn sâu vào thế giới phản tư “tăm tối” của chính mình, tự đặt những câu

hỏi lớn và tự tìm câu trả lời, độc hành, cơ đơn và chấp nhận trả giá. Hành trình ấy đã
đem lại giá trị và bài quý giá cho các thế hệ học trị sau. Các tác phẩm của ơng trở
thành chủ đề hấp dẫn, lơi cuốn, có sức lay động mạnh mẽ tới nhiều thế học trị của
chính ơng, và của nhiều nhà nghiên cứu sau này.
Nổi bật trong sự chuyển mình về tư tưởng của Trần Đức Thảo, được nhiều người
nhắc tới, đó chính là bước chuyển từ lập trường hiện tượng học sang lập trường duy vật
biện chứng. Câu hỏi đặt ra là: liệu đó là bước chuyển đã được lập trình từ trước trong
lịch sử, rằng bất cứ con người nào, trong hồn cảnh đó đều tất yếu có bước chuyển như
vậy hay đó chính là bước chuyển Trần Đức Thảo tự dấn thân, trải nghiệm. Liệu cái gọi
là lập trường duy vật mà ơng lĩnh hội có giống với cái lập trường mà đa số người được
học tập triết học Marx – Lenin luôn dễ dàng tuyên bố rằng họ thuộc về. Việc xác lập
một lập trường triết học là cuộc chuyến biến tự thân mang dấu ấn phản tư mạnh mẽ hay
đơn thuẩn chỉ là việc học thuộc những trang giáo trình khơ cứng? Tiêu chí nào để xác
định ai đó đã mang một lập trường triết học? Là sự dấn thân vào thực tiễn bất chấp phải
trả giá hay vấn đề chỉ luôn dừng trong lĩnh vực lý thuyết hàn lâm. Người viết luôn tự
hỏi như vậy và mong muốn tìm kiềm câu trả lời xác định qua nghiên cứu Trần Đức
8


Thảo. Vì vậy, chúng tơi chọn “Sự chuyển biến tư tưởng Trần Đức Thảo từ Hiện tượng
học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

Tổng quan tình hình nghiên cứu chia thành nghiên cứu trong nước và nghiên cứu
ngoài nước.
ở nghiên cứu trong nước chia các mục theo nội dung triển khai trong khóa luận
VD: 1. Những nghiên cứu liên quan đến tiền đề….
2. Những nghiên cứu liên quan đến sự ảnh hưởng từ hiện tượng học Husserl đến
TĐT
…….

Cuộc đời, sự nghiệp và các tác phẩm của cố GS. Trần Đức Thảo đã được rất nhiều
học giả trong nước và quốc tế tìm hiểu, nguyên cứu trong đó có một số hội thảo lớn có
ý nghĩa quan trọng nhằm làm sáng tỏ những góc khuất về cuộc đời, về sự nghiệp vẻ
vang và cả tinh thần cống hiến cho khoa học, đất nước của cố GS.Trần Đức Thảo.
Tại hội thảo khoa học quốc tế “Về tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức
Thảo” tổ chức tại Đại học Sư phạm Hà Nội 2013, PGS.TS Nguyễn Văn Minh - Hiệu
trưởng Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Trưởng ban chỉ đạo tổ chức Hội thảo nêu rõ:
Hội thảo lần này được tổ chức tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là hoạt động thiết
thực kỷ niệm 95 năm sinh và 20 năm ngày mất của Giáo sư Trần Đức Thảo, được sự
ủng hộ của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hội thảo nhằm mục
đích: Nghiên cứu, đánh giá những cống hiến của Giáo sư Trần Đức Thảo đối với đất
nước, với khoa học Việt Nam và thế giới, đồng thời chỉ ra những giá trị của tư tưởng
Trần Đức Thảo đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay. Hội thảo còn thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và hợp tác trong lĩnh
vực khoa học xã hội và nhân văn, tạo môi trường để các nhà khoa học trong nước, các
giảng viên, học viên và nghiên cứu sinh khoa học xã hội - nhân văn tiếp xúc và giao
lưu học thuật với các nhà nghiên cứu triết học nước ngoài. Một số bài viết nổi bật trong
9


kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế 7/5/2013 về bước chuyển tư tưởng triết học của Trần
Đức Thảo: “Võ Văn Dũng, Từ hiện tượng học đến chủ nghĩa duy vật biện chứng trong
tư tưởng Trần Đức Thảo, trang 257. Lê Duy Hoa, Trần Đức Thảo với tiến trình từ Hiện
tượng học Husserl tới chủ nghĩa duy vật biện chứng Marx và Engel, trang 288. Nguyễn
Thị Thường, Trần Đức Thảo Hành trình từ Hiện tượng luận đến chủ nghĩa duy vật biện
chứng , trang 350,..”
Năm 2017, kỉ niệm 100 năm ngày sinh cố GS. Trần Đức Thảo, Hội thảo quốc tế
của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội. Gần 60
bài viết tham gia hội thảo tập trung làm rõ các chủ đề quan tâm chính của Trần Đức
Thảo và một số vấn đề triết học được quan tâm ở Việt Nam trong nửa sau thế kỷ XX và

những năm gần đây. Thứ nhất là Trần Đức Thảo đối chiếu hiện tượng học của Husserl
với chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ đề lớn thứ hai ở Trần Đức Thảo bao gồm những
cơng trình viết về sự chuyển hố của phép biện chứng duy tâm Hegel thành phép biện
chứng duy vật ở Marx, cùng vai trò của chủ nghĩa Marx trong việc nhận thức và cải tạo
thế giới. Chủ đề thứ ba bao gồm những cơng trình nghiên cứu có thể được xếp vào chủ
nghĩa duy vật biện chứng của Trần Đức Thảo: ý thức, tư tưởng xuất hiện như thế nào
trong cuộc tiến hoá vĩ đại của tự nhiên đi từ vật chất, qua sinh vật, lên nhân loại. Chủ
đề thứ tư liên quan đến bản chất và sự hình thành con người, qua đó ơng nêu lên q
trình tiến hóa của lịch sử lồi người. Các bài viết nổi bật trong kỉ yếu hội thảo đề cập
bước chuyển trong lập trường tư tưởng Trần Đức Thảo: “Trần Thị Điểu, từ Hiện tượng
học Husserl đến hiện tượng học Trần Đức Thảo, trang 47. Nguyễn Thị Liên- Đoàn Thu
Nguyệt, Trần Đức Thảo với sự vượt bỏ Hiện tượng học để đi đến chủ nghĩa duy vật
biện chứng, trang 77. Nguyễn Thị Thường, Tư tưởng triết học Trần Đức Thảo trong
dòng chảy hiện tượng học, chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa Marx, trang 94. Bùi Thị
Tỉnh, Chủ nghĩa duy vật nhân bản- sáng tạo trong hành trình triết học của Trần Đức
Thảo, trang 97....”
Tuy các bài viết đã đề cập tương đối đến vấn đề “Bước chuyển tư tưởng của Trần
Đức Thảo từ hiện tượng học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng”, nhưng chưa thật sự
10


khắc họa rõ nét bước chuyển ấy trong những tương quan khác nhau, hoặc mới chỉ làm
rõ bước chuyển ở một phương diện nhất định. Đồng thời, các bài viết cũng chưa giúp
tác giả - mặc dù đang ở trình độ sinh viên tự tìm thấy những câu trả lời thỏa đáng mà
mình đã đặt ra. Vì vậy, đó là mảng trống để người viết tiếp tục suy tư, bổ sung vào
mảng đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ bước chuyển từ lập trường
Hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng của cố GS. Trần Đức Thảo.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:

Nhiệm vụ nghiên cứu ghi theo các chương tiết
VD:
- Thứ nhất, làm rõ bối cảnh lịch sử và tiền đề cho bước chuyển …..
- Thứ hai, làm rõ sự ảnh hưởng của hiện tượng học Husserl đến TĐT
- Thứ ba, làm rõ sự ảnh hưởng của triết học hegel và triết học duy vật biện chứng
đến TĐT
+ Đọc kỹ tác phẩm “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” của Trần
Đức Thảo.
+ Tìm kiếm những minh chứng để khẳng định bước chuyển trong tư tưởng của
ông từ lập trường hiện tượng học sang lập trường duy vật biện chứng.
+ Bước đầu đưa ra những nhận định, đánh giá của người viết.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Sự chuyển biến tư tưởng của Trần Đức Thảo từ lập
trường Hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu về tư tưởng triết học
trong tác phẩm “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” bắt đầu viết năm
1947, xuất bản 1951 của cố GS. Trần Đức Thảo cũng như bước chuyển biến tư tưởng
triết học của ông.
11


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Marx Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước trong
nhận thức, tư duy về GS.Trần Đức Thảo trong thời đại mới.
Để giải quyết nhiệm vụ trên, bài viết áp dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu sau: Phương pháp duy vật biện chứng, phân tích và tổng hợp, so sánh, lịch sử và
logic, diễn dịch và quy nạp, đặt giả định ....
6. Đóng góp của nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ ràng hơn bước chuyển trong tư tưởng Trần
Đức Thảo từ hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bài viết có thể trở

thành tài liệu tham khảo đáng tin cậy cho những ai cùng quan tâm về chủ đề này.
7. Kết cấu của bài nghiên cứu
Để thực hiện được tốt mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên ngoài phần mở
đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bài nghiên cứu gồm 2 chương, 5 tiết.

12


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG CHO BƯỚC
CHUYỂN CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TỪ HIỆN TƯỢNG HỌC ĐẾN CHỦ NGHĨA
DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Từ truyền thống các nhà triết học cổ đại đến những nhà tư tưởng triết học thời
cận-hiện đại, vấn đề thống nhất quan niệm về thế giới luôn là vấn đề được đặt ra hàng
đầu nhằm định hướng cho toàn bộ hệ tư tưởng của người xây dựng nó, nhưng đó cũng
là thách thức và hạn độ cho bất kể nhà triết học thuộc về bất kì nền văn hóa nào. Trong
khơng khí đầy biến động của lịch sử nhân loại thế kỉ XX, việc lựa chọn điều kiện và
văn hóa thuộc về của các nhà Triết học ảnh hưởng rất nhiều đến lập trường tư tưởng
của họ. Trong bối cảnh như vậy, Trần Đức Thảo cũng khơng thốt khỏi sự khủng
hoảng và biến động đó, ơng thực hiện một bước chuyển mang tính bước ngoặt với cuộc
đời mình. Cuối cùng với quyết định đó, chúng ta có lẽ sẽ mãi nhớ đến Trần Đức Thảo
khi tìm hiểu về ơng, cũng như ghi nhớ bài học làm người từ chính cuộc đời của ông.
Trần Đức Thảo biểu hiện như là một tấm gương sáng về người tri thức.
1.1. Đôi nét về thân thế và sự nghiệp cố Gs. Trần Đức Thảo
Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917 tại xã Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh trong một gia đình viên chức nhỏ. Cho đến nay, ông là một trong những người
Việt Nam được các nhà nghiên cứu trong, ngoài nước biết đến trên diễn đàn khoa học
và được cơng nhận có tầm vóc quốc tế ở phương Tây. Nếu tính cả quãng thời gian tu
nghiệp tại Pháp (vào cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ trước) và những tác
phẩm viết bằng tiếng Pháp, được in tại Pháp của ơng, thì “Trần Đức Thảo cịn là một

triết gia Pháp”1. Ơng là người Việt Nam hiếm hoi, ở thế hệ của mình, có con đường học

1

Thierry Marchaisse - Cựu sinh viên sư phạm Cao cấp phố d’Ulm, hiện là giám đốc nhà xuất bản mang tên ông

từ năm 2011, trong thời gian gặp gỡ Trần Đức Thảo , ông làm việc ở Nxb Editions du seuil, Paris.

13


vấn Triết học thực thụ. Trần Đức Thảo là một nhà triết học trầm lặng, ít phơ danh, sự
vinh danh ông đến từ bên ngoài.
Trần Đức Thảo vốn là học sinh xuất sắc của trường trung học Pháp Albert Sarraut
(Hà Nội), từng đạt giải Nhì cuộc thi Triết học các trường trung học toàn quốc Pháp.
Năm 1935, sau khi đỗ xuất sắc tú tài, ông theo học Trường Luật Hà Nội. Năm 1936,
ông được gửi sang Pháp chuẩn bị thi vào Trường cao đẳng sư phạm phố d' Ulm (Thủ
đô Paris) - một trường nổi tiếng ở Pháp về truyền thống tư tưởng tân tiến, văn hoá và
khoa học hiện đại. Trường cũng nổi tiếng là cái nôi đào tạo những nhà tư tưởng và
những chính khách cho nước Pháp. Năm 1939, Trần Đức Thảo thi đỗ vào trường này
với số điểm cao. Đến năm 1945, ông tốt nghiệp thủ khoa, nhận học vị thạc sĩ triết học
qua luận án “Phương pháp hiện tượng luận của Husserl”.
Hồ bình lập lại trên miền Bắc năm 1954, ơng được cử làm Phó Giám đốc Đại
học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, giảng dạy môn Lịch sử triết học ở
Trường Đại học tổng hợp Hà Nội (1956-1957). Những bài giảng của ông về Lịch sử
triết học sau này đã được các cựu sinh viên như Nguyễn Hoàng Gia biên tập lại và xuất
bản thành sách “Lịch sử tư tưởng trước Marx”, (NXB KHXH, 1995). Sau đó, Trần Đức
Thảo thơi giảng dạy ở trường đại học, ông dành nhiều thời gian nghiên cứu các tác
phẩm kinh điển Mác - Lênin, làm chuyên viên Nhà xuất bản Sự thật.
1.2. Bối cảnh lịch sử dẫn đến bước chuyển trong tư tưởng Trần Đức Thảo từ

Hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Trần Đức Thảo là một nhà khoa học, tư tưởng của ông trải rộng đến rất nhiều vấn
đề từ Triết học, Lịch sử triết học, đến Sử học, Nhân học, Sinh học, Ngôn ngữ học, Văn
học và Tôn giáo học… Tuy nhiên, chủ đề mà ông quan tâm hơn cả cũng lại là những
nội dung rất căn cốt của triết học, lịch sử triết học cùng những đề tài nhân sinh liên
quan trực tiếp đến số phận và hoạt động của con người, của xã hội…, vốn là những nội
dung mà không một nghiên cứu triết học cơ bản nào có thể lảng tránh. Nhưng trong
khn khổ của nghiên cứu này, tôi chỉ đề cập đến những chuyển biến về mặt triết học
14


“bước chuyển của Trần Đức Thảo từ Hiện tượng luận Husserl sang Chủ nghĩa duy vật
biện chứng”, qua tác phẩm chính “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng”,
chứ khơng đi sâu vào tồn bộ các tác phẩm mà Trần Đức Thảo nghiên cứu.
Trần Đức Thảo đã đến với Triết học vào thời kỳ rất khó khăn. Cùng với thời đại
của mình, ơng đã thừa hưởng Hiện tượng học từ Husserl cùng với tinh thần duy vật của
Marx, cả khơng khí khủng hoảng, lẫn giấc mơ cải tạo thế giới bằng lý trí của họ. Cho
đến lúc này, Trần Đức Thảo là người Việt Nam hiếm hoi có tư tưởng triết học gắn với
tên tuổi của mình và hiện vẫn đang được nhiều học giả trong và ngoài nước tìm hiểu,
nghiên cứu. Ơng cũng là một nhà triết học Việt Nam đã có những suy tư “riêng” của
mình một thời “ảnh hưởng” trực tiếp đến nền tảng tư duy lý luận nước nhà.
Trước khi đến với chủ nghĩa Marx, Trần Đức Thảo được đào tạo chính quy tại
trường cao đẳng sư phạm phố d’Ulm nổi tiếng ở Paris nên ơng có cơ hội hoạt động
trong một mơi trường trí thức tinh hoa Pháp và có liên hệ gần gũi với nhiều Triết gia có
ảnh hưởng lớn trong sinh hoạt triết học nửa sau thế kỷ XX như Jean-Paul Sartre,
Merleau-Ponty, Alexandre Kojève, Louis Althusser, Jacques Derrida… Đó là những tư
tưởng gia hàng đầu của trào lưu hiện tượng học, của chủ nghĩa hiện sinh. Đồng thời,
những phát kiến và tư tưởng của ông đều được họ công nhận và đánh giá cao như là
“những cống hiến độc đáo cho các lĩnh vực Triết học, Nhân chủng học, Ngôn ngữ học”
(Daniel J. Herman).

Trần Đức Thảo thành nhà Hiện tượng học nổi danh với tư duy đặc sắc có khả
năng soi chiếu tỉnh táo các vấn đề hóc búa của triết học. Từ khi trở thành nhà triết học
theo khuynh hướng duy vật Marx đến khi về cõi vĩnh hằng vào ngày 24/4/1993, thời
gian cách nhau trên 40 năm, ông đã dành tồn bộ thời gian đó để hiện thực hóa phương
pháp luận Mác-xít, làm cho Triết học gắn chặt với đời sống, bám chặt lấy số phận, vận
mệnh con người dân tộc mình. Trần Đức Thảo có niềm tin sâu sắc rằng “Phép biện
chứng duy vật” của Marx không phải là một lý thuyết giáo điều, mà là ngọn đuốc thực
tiễn, một lý luận để “ni dưỡng” lý trí và dẫn đường cho cuộc cách mạng vơ sản. Với
nghĩa đó, hồn tồn có cơ sở để khẳng định, có một triết lý mang tên Trần Đức Thảo và
15


càng có “tư duy và phong cách Trần Đức Thảo” - một đóng góp lớn của trí tuệ Việt
Nam cho nhân loại. Đóng góp lâu dài của Trần Đức Thảo cho học thuật là một tư duy
triết học thuần khiết. Điều này trước hết thể hiện ở một năng lực trừu tượng hố cao, kế
đó là khả năng biết đặt và giải quyết các vấn đề triết học dưới ánh sáng của những phát
kiến khoa học mới bằng các phương pháp nghiên cứu liên ngành.
Sống trong lòng chiến tranh thế giới thứ hai tại Pháp từ 1936-1952, trước hoàn
cảnh của những tù binh Việt Nam và bối cảnh cách mạng trong nước 1939-1945, hội
sinh viên tại Pháp trong đó có Trần Đức Thảo đã sáng lập “Hội liên hiệp những người
Đơng Dương tại Pháp” nhằm kêu gọi chính quyền bảo hộ Pháp phải trao trả nền độc
lập cho Việt Nam. Năm 1945, khi quân đồng minh giành chiến thắng, các lãnh tụ và cả
Trần Đức Thảo bị bắt giam 3 tháng2. Có thể nói rằng vận mệnh dân tộc và sự cố chấp
của thực dân Pháp đã làm cho Trần Đức Thảo có những chuyển biến về mặt tư tưởng
và hướng về những người cộng sản3. Chính điều này có thể đã khiến Trần Đức Thảo có
2

Linh Mục Cao Văn Luận- Bên giịng lịch sử“Chính phủ Pháp lập tức bắt giam một số lãnh tụ sinh viên đồng

thời cũng là lãnh tụ hội Liên Hiệp những người Đông Dương tại Pháp như các anh Trần Đức Thảo, Hoàng

Xuân Mãn, Hoàng Xuân Nhị, Phạm Huy Thông. Nếu không phải là tu sĩ, được sự che chở của tòa Tổng Giám
mục Ba-Lê chắc chắn tơi đã khơng thốt khỏi tù tội. Những sinh viên bắt giam tại khám đường La Santé, nơi đã
từng giam giữ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh ngày trước”.
3

Có điều như trên bởi vì sau chiến tranh thế giới thứ hai, Pháp muốn khôi phục và củng cố địa vị cường quốc

của mình, trong đó quan trọng nhất là việc tái chiếm lại các thuộc địa đã mất bị rơi vào phe phát xít trước đó,
mà mục tiêu hàng đầu là Đơng Dương, một khu vực thuộc địa giàu có và có vị chiến lược quan trọng. Hành
động đó của Pháp đi ngược lại mong muốn hịa bình, độc lập dân tộc Việt Nam. Pháp đã sử dụng những biện
pháp, đường lối quân sự để tái chiếm lại thuộc địa, gây tổn hại đến nền độc lập của Việt nam, khiến cho mối
quan hệ Pháp-Việt trở lên căng thẳng và đi đến bờ vực của cuộc chiến tranh. Nhằm cứu vớt nền hịa bình mong
manh, chính phủ Việt nam dân chủ cộng hịa đã có những hành động ngoại giao, mà cụ thể và quan trọng nhất
là việc Đoàn đại biểu quốc hội Việt nam sang thăm Pháp do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu từ 25-4 đến 165 năm 1946 và 31-5-1946 chủ tịch Hồ Chí Minh đã đáp máy bay từ Hà Nội sang Pháp. Sự đấu tranh của những
người cộng sản vì nền độc lập của dân tộc và uy tín, tầm ảnh hưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tác động rất
lớn tới Việt kiều và sinh viên đang du học ở Pháp lúc bấy giờ trong đó Trần Đức Thảo như Linh mục Cao văn
Luận đã viết trong hồi ký của mình “Từ đây sự chia rẽ vì chính kiến, chủ nghĩa bắt đầu trở nên trầm trọng và lộ
liễu trong hàng ngũ Việt kiều, sinh viên ở Pháp. Trần Đức Thảo ít tới lui với anh em, và hình như đã thiên hẳn
sang phía cộng sản không biết từ lúc nào”.

16


Thái độ bênh vực chủ nghĩa duy vật và trong cuộc bút chiến giữa Trần Đức Thảo và
Jean-Paul Sartre4. Trong khi chấp nhận quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Marx, Sartre
cơng kích quan điểm chính trị và văn hố của nó biểu hiện ở Liên Xơ. Cuộc tranh luận
này giữa hai nhà triết học nổi tiếng châu Âu không kết thúc vì Trần Đức Thảo bị thu
hút bởi các biến cố trong nước, nhưng theo lời của chính Simone de Beauvoir, nữ triết
gia và vợ của Sartre trong “Hồi ký” thì phần đúng là thiên về ơng Thảo.
Năm 1951, Trần Đức Thảo xuất bản “Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện

chứng”, khẳng định bước chuyển lập trường tư tưởng từ Hiện tượng học Husserl sang
Chủ nghĩa duy vật biện chứng Marx. Đến năm 1952 trước bối cảnh tình hình mới trong
nước, ơng trở về chiến khu việt bắc tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và
giành cả cuộc đời sau này lao động, cống hiến cho nền triết học Việt Nam cũng như
đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho triết học thế giới. Cuộc đời của ông đã gắn
liền cả một giai đoạn hào hùng của dân tộc Việt Nam và đầy biến động của lịch sử thế
giới.

4

Jean-Paul Charles Aymard Sartre ( 21 tháng 6 năm 1905 – 15 tháng 4 năm 1980) là nhà triết học hiện sinh,

nhà soạn kịch, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia và là nhà hoạt động chính trị người Pháp. Ơng là một trong những
nhân vật nịng cốt trong hệ thống triết học của chủ nghĩa hiện sinh, và một trong những nhân vật có ảnh hưởng
lớn trong nền triết học Pháp thế kỷ 20 và chủ nghĩa Marx. Tác phẩm của ông cũng đã ảnh hưởng đến xã hội
học, lý thuyết phê bình, lý thuyết hậu thuộc địa, phê bình văn học, và vẫn cịn tiếp tục ảnh hưởng đến các ngành
này. Sartre cũng có mối quan hệ với nhà lý thuyết nữ quyền nổi tiếng là Simone de Beauvoir. Ông được
trao giải Nobel Văn học vào năm 1964 nhưng ơng từ chối, ơng nói rằng ơng ln từ chối những danh hiệu
chính thức và "một nhà văn khơng nên cho phép mình trở thành người của một tổ chức".

17


CHƯƠNG 2: BƯỚC CHUYỂN TRONG TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN ĐỨC THẢO
TỪ HIỆN TƯỢNG HỌC SANG CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
2.1. Trần Đức Thảo với Hiện tượng luận Husserl
Trong một bài viết năm 1971 có nhan đề “Từ hiện tượng học tới phép biện chứng
duy vật về ý thức” đăng trên La Nouvelle Critique, Trần Đức Thảo giải thích lý do ông
không tái bản cuốn sách in năm 1951 của mình: Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Thứ nhất, Trần Đức Thảo cho là Husserl đã lẫn lộn đối tượng thực tồn với

đối tượng ý hướng tính, và cắt xén rồi làm biến dạng mối quan hệ giữa ý thức với đối
tượng của nó. Cặp tương liên “ý thức ý hướng tính” và “đối tượng ý hướng tính” ngăn
cản ơng thừa nhận tính ngoại tại và độc lập của đối tượng thực tồn, được ông thay thế
bằng sự tổng hợp. Thứ hai, giải pháp mà hiện tại sống động có tham vọng mang lại cho
vấn đề quan hệ của ý thức với chính mình, khép kín ý thức trong chính nó và như suy
niệm thứ năm trong “Các suy nghiệm của Descartes” đã cho thấy, giải pháp này tất yếu
dẫn nỗ lực cấu tạo nên người khác đến thuyết duy ngã5. Như đã nói ở trên, Trần Đức
Thảo có thể đã có những chuyển biến về tư tưởng khi “nền độc lập mong manh” của
nước nhà bị Pháp khước từ. Thì ở đây chúng ta lại có một cái nhìn mới trong bước
chuyển tư tưởng của Trần Đức Thảo mà ông đã khẳng định khi nguyên cứu về Hiện
tượng học. Bắt đầu từ tác phẩm “Phương pháp hiện tượng học của Husserl” xuất bản
năm 1942, có thể nói ơng đã tiếp thu Hiện tượng học bằng con mắt tự thân, xuất phát từ
chính thực tiễn học tập, nghiên cứu của mình và bắt đầu viết phần I tác phẩm “Hiện
tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, ở đây là tiếp thu có phê phán. Và để hiểu

5

René Descartes ("Rơ-nê Đề-các", 1596–1650) là triết gia, nhà khoa học, nhà toán học người Pháp, được một

số người xem là cha đẻ của triết học hiện đại.
Descarter phân biệt hai thực thể: Vật hữu tri và vật hữu hình. Thuộc tính của vật hữu tri là tư duy , của vật hữu
hình là quảng tính hay hậu lượng. Vì tất cả tất cả những phẩm chất khác ở mỗi thực thể đều như là thứ yêu gọi
là phẩm chất hàng hai. Từ sau Loke, phẩm chất hàng một chỉ là những thuộc tính khách quan gắn liền với vật
thể(quảng tính, hình thể , vận động), trong khi phẩm chất hàng hai chỉ tồn tại nhờ và cho chủ thể nhận
thức(màu sắc, mùi vị,..).

18


hơn về Hiện tượng học tơi xin trình bày q trình hình thành và nội dung cơ bản của nó,

thơng qua các tài liệu đã được chuẩn hóa, để chúng ta có cái nhìn trực quan về một tư
tưởng triết học đã dẫn đầu các trào lưu triết học phương tây hiện đại bấy giờ.
2.1.1 Bối cảnh lịch sử cho sự xuất xuất hiện bản thể luận “Hiện tượng luận”
Sự phát triển với tốc độ chưa từng thấy của tiến bộ-khoa học kỹ thuật của thời
cận-hiện đại làm quyền lực của bộ máy nhà nước ngày càng được tăng lên- kéo theo
sự xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan như là căn bệnh của thời đại. Cùng với đó
sự xuất hiện của con người đại chúng như hệ quả của văn hóa xã hội tư sản và sự
khủng hoảng kinh tế của xã hội tư bản làm bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.
Husserl là người trải qua cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Cũng chính cuộc chiến
tranh này, đã cướp đi con trai của ơng và quy kết gia đình ơng là kẻ thù của Đức quốc
xã do có nguồn gốc do Thái.
Xã hội phương tây hiện đại, đặt ra hàng loạt vấn đề thách thức với con người, đó
là hồn tồn là điều không thể làm ngơ. Con người ta giường như khơng cịn có thời
gian suy nghĩ cho bản thân mình mà bị cuốn vào vịng xốy thị phi và dối trá của xã
hội. Xã hội phương tây hiện đại đẩy con người vào vịng xốy của các sự kiện mà mục
đích, ý nghĩa, của nó ln ln mập mờ. Nhiệm vụ của khoa học nói chung và triết
học phương tây hiện đại nói riêng là phải tìm mọi cách để có thể thấu hiểu tồn bộ sự
phức tạp đó và điều chỉnh nó. Tuy vậy khoa học và triết học phương tây hiện đại
không những không thể làm sáng tỏ những nguyên nhân đứng đằng sau các sự kiện xã
hội đáng báo động đó, mà ngược lại trở thành một phần của sự hỗn độn đó, và vơ hình
chung trở thành công cụ của truyền thông nhằm khai thác những ý đồ chính trị hèn
kém. Chính ngơn ngữ do phương tiện truyền thông đại chúng đã nồi nhét vào ý thức
con người, nó đã xuyên tạc các quy tắc đúng đắn, làm ngơ trước thế giới tinh thần
phức tạp, biến con người trở thành phương tiễn lĩnh hội và thực hiện chân lý tối hậu.

19


Husserl nhận ra nguyên nhân của tình trạng như vậy là do sự tha hóa tinh thần
của con người Phương tây hiện đại, cuội nguồn của mọi vấn đề sâu xa chủ yếu bắt

nguồn trong bản thân con người, trong cái thế giới bên trong mỗi con người. Chính các
vấn đề bản thân mỗi cá nhân, làm cho họ đau khổ và ngược lại chúng ta mất đi sự
kiểm soát với những suy nghĩ nhỏ nhen của mình, cũng khiến cho chúng ta khó có thể
giải quyết các vấn đề bên ngoài. Ngoài ra sự thiếu hiểu biết lẫn nhau, làm cho xung
đột ngôn ngữ càng trở lên gay gắt, dẫn đến những tổn thương về mặt tinh thần cho cả
hai phía. Như vậy, động cơ mà Husserl muốn tìm tòi là làm sao tẩy rửa “ý thức” khỏi
những lớp “mặt lạ” che đậy, những bình diện làm cho nó nhạt đi, rắc rối, khó hiểu.
Chính vì cuộc sống xã hội phương tây hiện đại, khơng góp phần làm sáng tỏ ý thức,
nên cần phải có nỗ lực đặc biệt và phương pháp đặc biệt để nhận thức nó. Husserl đề
xuất xây dựng Hiện tượng học như một khoa học triết học chặt chẽ, có khả năng tháo
gỡ những đầu mối mâu thuẫn mà theo ông, tư duy châu Âu hiện bị sa vào.
Ngày nay, hai trung tâm lý luận lớn nhất của khuynh hướng hiện tượng học là
phòng lưu trữ Husserl ở trường đại học Thiên chúa giáo Lu-Vanh nước Bỉ và Hội hiện
tượng học quốc tế xuất bản tạp trí “Triết học và nghiên cứu Hiện tượng học Búp-phalơ, Niu c nước Mỹ.
2.1.2. Tiền đề tư tưởng ra đời Hiện tượng học của Husserl
2.1.2.1 Husserl với triết học R. Descartes
Những tiền đề tư tưởng cơ bản của Husserl về sự tha hóa tinh thần của con
người Phương tây hiện đại chính là luận điểm “Tơi tư duy, vậy Tôi tồn tại” của nhà
triết học R. Descartes. Luận điểm của Descartes đề cập đến chính là “cái Tơi” theo
nghĩa đen(bản năng) là trung tâm tri phối mọi biểu hiện phục tùng nó ở con người.
“Cái tơi” nơi R. Descartes được kiểm nghiệm bằng hành vi tư duy, bằng ý thức về
hành vi tư duy và vấn đề là ở chỗ, nếu như vậy trả khác nói “cái tơi”=ý thức. Husserl
đã không chấp nhận điều này và hiện tượng học của ơng địi hỏi phải khước từ sự
thống nhất của “cái tơi” với “ý thức”, địi hỏi phải chỉ ra “cái tôi” đặc sắc của hiện
20


thực con người. Đối với R. Descartes cái đáng tin nhất là Trực giác=tư duy, tơi khơng
thể hồi nghi tư duy của mình, ngồi ra mọi thứ đều khơng đáng tin cậy. Tư duy đối
với R. Descartes là tồn tại người đích thực, từ đây có thể hiểu rằng chỉ có những cảm

nghiệm của chủ thể là chân thực, hay chân thực là tất cả những gì tơi lĩnh hội rất dõ
ràng và rành mạch. Việc phát hiện ra cơ sở tối hậu của chân lý mà R. Descartes đưa ra
là những chỉ dẫn Husserl khai thác triết học cổ điển và phát triển triết học của mình.
Trong tác phẩm “Những mặc tưởng về Descartes, 1931” Husserl đã gọi Hiện tượng
học là thuyết “Descartes mới” như một sự kế tụng truyền thống R. Descartes. Tuy vậy
Husserl đặt ra vấn đề rằng, triết học phương tây hiện đại đã mất đi sự thống nhất, thay
vào đó là một lượng tư liệu triết học tản mản và không thống nhất. Thay cho những
cuộc tranh luận nghiêm túc giữa các học thuyết khác nhau, là xu hướng phê phán giả
danh, chỉ thể hiện các bình diện bề ngồi của triết học. Từ đó ông chủ trương không
vay mượn nội dung lý luận thuyết Descartes, mà đổi mới tinh thần của nó.
2.1.2.2 Husserl với triết học tiên nghiệm Kant
Husserl nhận định rằng, triết học tiên nghiệm Kant6 cho thấy rõ những dự định
của cả chủ nghĩa duy lý, lẫn chủ nghĩa duy nghiệm hướng đến xây dựng một hệ thống
tri thức khoa học đều là vơ nghĩa, vơ căn cứ vì đã bỏ qua tính chủ quan trong nhận
thức. Kant đã thay thế bản thể luận tư biện bằng triết học tiên nghiệm, ông chỉ ra rằng
chủ nghĩa duy lý đã không đếm xỉa đến kinh nghiệm, tuy vậy chân lý theo Kant không
nằm bên ngoài “kinh nghiệm chủ quan”. Ngược lại chủ nghĩa duy nghiệm cũng đánh
giá thấp “lý tính”, thành thử ra khơng có chủ nghĩa kinh nghiệm nào, hay chủ nghĩa
duy lý nào đạt tới “vật tự thân”. Tuy vậy Kant chỉ ra rằng, như thế khơng có nghĩa là
6

Immanuel Kant (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Königsberg; mất ngày 12 tháng 2 năm 1804 tại

Königsberg), được xem là một trong những triết gia quan trọng nhất của nước Đức, hơn nữa là một trong
những triết gia lớn nhất của thời kỳ cận đại (Neuzeit), của nền văn hóa tân tiến và của nhiều lĩnh vực nhân
văn khác. Sự nghiệp triết học của ông được biết đến qua hai giai đoạn: "tiền phê phán" và sau năm 1770 là "phê
phán". Học thuyết "Triết học siêu nghiệm" (Transzendentalphilosophie) của Kant đã đưa triết học Đức bước
vào một kỉ nguyên mới. "Danh tiếng của ơng đã đẩy lùi những gì đi trước vào bóng tối và toả sáng lên trên
những gì đi sau", như nhận xét của triết sử gia J. Hirschberger.


21


khơng có bản thể luận, tuy vậy bản thể luận của như Kant đưa ra phải đồng nhất với
nhận thức luận. Husserl cho rằng đóng góp của Chủ nghĩa tiên nghiệm Kant là ở chỗ,
Kant trước sau chỉ xem xét thế giới thơng qua các hành vi và các hình thức của tính
chủ quan của con người. Cái chủ quan này theo Husserl chính là cái mà ở đó thế giới
mới được đem lại cho ta. Triết học như Husserl luận giải, trước hết cần phải làm sáng
tỏ tính đem lại, tính hiện diện của thế giới trong ý thức và hành vi của ý thức[tâm lý
học tập trung]. Triết học không giành lấy một bộ phận nhất định của thế giới để nghiên
cứu, mà nó có một lập trường, một nhãn quan, một góc nhìn đặc biệt của mình về thế
giới. Đối với triết học, tư tưởng và tính chủ quan không phải là một bộ phận của thế
giới, tư tưởng là một thực tại mà dưới các hình thức và mục đích của nó, thế giới được
đem lại cho con người. Sự kế thừa học thuyết Kant trong cách đặt vấn đề là điều
Husserl không thể chối từ, tuy vậy vẫn có những điều khác biệt khơng nhỏ giữa hai
nhà triết học. Kant đã đồng nhất bản thể luận vào nhận thức luận và tìm mọi cách để
tìm ra các phương tiện nhận thức tính chủ quan[vì giới hạn của nhận thức là “vật tự
thân”], thì Husserl lại muốn làm sáng tỏ và tạo dựng, mơ tả tính chủ quan như một
thực tại đặc biệt. Tức là cùng đề cập đến tính chủ quan, nhưng lập trường của Kant là
lập trường nhận thực luận, đến Husserl nó đã trở thành bản thể luận7. Xuất phát từ
Kant, tính chủ quan được thể hiện với tính cách là cái tuyệt đối, triết học cần phải lấy
nó làm điểm xuất phát để giải thích về vạn vật, đặc biệt là giải thích về bản thân mình
với nghĩa là “u mến sự thơng thái “.
2.1.2.3. Husserl với quan niệm “Tính ý hướng” của Brentano
Husserl cũng từng làm trợ giảng cho nhà toán học lỗi lạc K.Veierstrass. Tốn
học có ảnh hưởng đến cả đời ơng. Sau đó từ năm 1884, mối quan tâm lớn dành cho tôn
giáo đã thôi thúc Husserl theo học triết học với Franz Brentano ở Vienne. Brentano
không chỉ là người truyền nguồn cảm hứng triết học cho Husserl, mà cịn là người có
ảnh hưởng mang tính quyết định đến hiện tượng học Husserl sau này. Husserl đã học
tập với Brentano đến năm 1886, cho đến khi Brentano khuyên ông đến Halle, nơi mà

7

Nguyễn Vũ Hảo, Giáo trình Triết học phương tây hiện đại, Nxb Đại học quốc gia, 2016, tr 121.

22


một trong những học trò của Brentano là Carl Stumpf 8 đang dạy triết học và tâm lý
học. Husserl cho rằng R. Descartes không phủ định sự định hướng của ý thức vào đối
tượng, nhưng không nhận ra rằng, điều đó có liên quan đến khách thể được “cái tơi”
đem lại một cách ý hướng, chứ khơng liên quan gì đến khách thể bên ngoài ý thức, tức
là R. Descartes không phân biệt hành vi tư duy và khách thể của nó. Đối với Husserl,
tính hiển nhiên của cái “tơi-Cogito” kéo theo sự hiển nhiên của các dữ liệu ý hướng
của ý thức, bác bỏ mọi giả thuyết siêu hình học với tư cách là các định kiến. Chính vì
vậy Husserl đã tiếp nhận thuật ngữ “Tính ý hướng” từ Brentano, nhưng đưa một nội
dung mới vào nó; ơng khơng muốn nói về quan hệ ý hướng, mà nói về tính ý hướng
của ý thức, hơn nữa là tính ý hướng hiểu theo nghĩa tri thức luận và bản thể luận tiên
nghiệm. Sự phân tích ý hướng về ý thức sẽ kéo theo sự phân tích các câu trúc thời gian
của Cogito. Phân tích kinh nghiệm về tính chủ quan tiên nghiệm như là dịng chảy liên
tục “tơi tư duy”, Husserl chỉ ra rằng nội dung các viễn cảnh thời gian trong quá khứ và
tương lai không đem lại cho chúng ta một cách phù hợp, hay bị khuấy đảo. Cái tôi tiên
nghiệm và kinh nghiệm sống trải bao giờ cũng là sự thống nhất không xác định trong
viễn cảnh mở, do vậy, nó khơng bao giờ được đem lại toàn bộ, mà bao giờ cũng chỉ
được phác họa ra trong tính sống động của cái “tơi đang tồn tại”. Tức là tất cả những
gì được tơi lĩnh hội có thể xuất phát từ khách thể bên ngoài, nhưng đối với hiện tượng
học thì mọi cái có ý nghĩa với tôi đều nằm ở bên trong ý thức của tôi, chứ khơng phải
nằm ngồi nó. Tính chủ quan theo quan niệm Hiện tượng học đã bao hàm mọi ý nghĩa,
vì vậy việc đặt ra vấn đề về sự phù hợp giữa tri thức với đối tượng bên ngồi là vơ
nghĩa. Husserl đã khám phá ra “Thế giới siêu việt của ý thức”, nhận ra sự hiện hữu đặc
biệt của tha nhân và gọi “xã hội bên trong ý thức” là tính liên chủ tiên nghiệm. Như

vậy tính liên chủ tiên nghiệm trở thành con đường dẫn đến các quan hệ xã hội thực tại
khách quan bên ngoài, thế giới biểu hiện ra như tính chủ ý đích thực và có mục đích.
Đối với Husserl, ý thức mãi mãi và hồn tồn mang tính ý hướng, do vậy ý thức
8

Carl Stumpf ( 21 tháng 4 năm 1848 - 25 tháng 12 năm 1936) là một nhà triết học và nhà tâm lý học người

Đức . Ông đã nghiên cứu với Franz Brentano tại Đại học Würzburg trước khi nhận bằng tiến sĩ tại Đại học
Göttingen năm 1868.

23


hướng vào bản thân mình bao giờ cũng hướng vào các trạng thái ý hướng của mình.
Chính tính ý hướng có thể nói là đã càng ngày, càng làm cho Hiện tượng học thoát ra
khỏi thoát ra khỏi “kinh nghiệm sống trải-tư tưởng”, đi từ chủ thể trừu tượng đến chủ
thể cụ thể của thế giới sống, xa rời dần với thuyết R. Descartes. Và đến đây cũng phải
nói rằng, những nhận định của Trần Đức Thảo về sự vận động của Hiện tượng học là
hồn tồn có cơ sở, tuy rằng cách diễn giải của ông về Hiện tượng học, có xu hướng
nghiêng về chủ nghĩa Marx.
Nếu theo Brentano, trong trường hợp “trực giác” về những cái bên ngoài với tư
cách là hiện thực tất yếu, hiển nhiên, thì chân lý khơng đạt tới được, vì con đường
nhận thức này không khắc phục mâu thuẫn “bản chất-hiện tượng” mà ngược lại làm
lầm lạc vào các sự kiện không dõ ràng, thiếu tính mục đích. Chân lý chỉ có thể đạt tới
được trong trường hợp thừa nhận xuất phát điểm là trực giác bên trong, vì bản thân
trực giác là chân lý tự nó, cịn tính hiện nhiên lại dựa vào chính sự thật này. Ưu thế của
cách tiếp cận như vậy là ở chỗ, nó hướng vào cái vốn có trong mỗi chúng ta, cho phép
chúng ta nhìn nhật ý thức từ bên trong. Đây chính quan niệm mà Husserl sẽ tiếp tục
phát triển học thuyết Hiện tượng học của mình.
2.1.3 Một số khái niệm nền tảng của Hiện tượng học Husserl

Husserl chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Kant mới như: F.A. Lange, H.L.F
Helmholtz, Những người ủng hộ chủ nghĩa tâm lý đang thịnh hành thời đó. Nhưng,
người có ảnh hưởng lớn nhất đến con đường chuyển từ toán học sang triết học của
Husserl là nhà tâm lý học và triết học, F.Bretano. Với ý tưởng đầu tiên trong luận án
tiến sĩ triết học của ông “Các vấn đề triết học của số học”, nhằm thâm nhập vào “bản
chất tốn học” thơng qua các định hướng của chủ nghĩa tâm lý. Tuy vậy, ông nhận ra
rằng việc nghiên cứu tốn học thơng qua chủ nghĩa tâm lý sẽ khơng đem lại hiệu quả,
vì vậy ơng đã phê phán và bác bỏ nó. Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ 1887, và làm phó
giáo sư đại học tổng hợp Halla. Năm 1900-1916 ông trở thành giáo sư giảng dạy tại

24


Goettingen9 và ở đây ông đã cho xuất bản tác phẩm “Những nghiên cứu logic” gồm 2
tập. Giai đoạn này cũng là giai đoạn Husserl phát triển tư tưởng triết học của mình, và
đặc biệt quan tâm sâu sắc đến các khái niệm “Hiện tượng”, “hiện tượng học” ,“thời
gian”, “ý thức”, “tồn tại”, phép quy giản hiện tượng học. Trong đó khái niệm
“Phenomena- Hiện tượng hay các hiện tượng” là một trong những quan trọng nhất ở
thời kì này. “Phenomena-các hiện tượng” là những cái đem lại cho ta, là phức hệ của
các đơn vị ý thức. Toàn bộ quá trình tìm tịi của Husserl được phản ánh qua các bài
giảng, như “Hiện tượng học của ý thức bên trong về thời gian, Năm bài giảng về hiện
tượng học, Triết học như là một khoa học chặt chẽ, tư tưởng về triết học thuần túy và
hiện tượng học,..v.v. Tiếp đến là khái niệm “Tính ý hướng”, một trong những khái
niệm trung tâm làm nên học thuyết Hiện tượng học. “Tính ý hướng” tiếng La tinh là
intentino, có nghĩa là hướng tới, khái niệm của một loạt các học thuyết triết học, được
sử dụng để ghi nhận tính đặc thù của ý thức con người thể hiện sự định hướng của nó
vào một đối tượng nào đó, ở sự quy định một cách lý tưởng ở trong tư duy, qua đó đối
tượng trở thành đối tượng lý tưởng. Tính ý hướng có thể hiểu là phương thức vận động
của tinh thần, hay cơng cụ thực tại hóa các tiềm năng của trí tuệ nhờ nắm bắt khách
thể bằng ý thức. Tính ý hướng là một đặc trưng của ý thức. Bằng việc tiếp thu quan

niệm “Tính ý hướng” của Brentano, Husserl cùng các môn đệ của ông và các nhà tâm
lý học đã tạo nên trường phái Hiện tượng học Muenchen10, tích cực xuất bản “Niên
giám trết học và nghiên cứu hiện tượng học”.
Đối với hoạt động nghiên cứu các hiện tượng(Phenomena), Husserl địi hỏi nhà
nghiên cứu phải có phương pháp và chính ơng đã xây dựng một hệ phương pháp đặc
thù riêng, đưa ra một khái niệm đó chính là “Quy giản hiện tượng học” để hướng dẫn
cách thức trở về với tâm thế tự thân. Phương pháp quy giảm hiện tượng học là phương
pháp loại bỏ dần dần các cái “tâm thế tự nhiên”, chiêm nghiệm tự nhiên để tâm chung
9

Goettingen là một đô thị thuộc trong bang Niedersachsen, Đức.

10

Muenchen, thủ phủ của tiểu bang Bayern, là thành phố lớn của Đức sau Berlin và Hamburg và là một trong

những trung tâm kinh tế, giao thơng và văn hóa quan trọng nhất của Cộng hòa Liên bang Đức.

25


×