Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận thể chế chính trị thế giới đương đại tiểu luận thể chế chính trị thế giới đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.33 KB, 31 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI ĐƯƠNG ĐẠI
Đề tài:
PHÂN TÍCH ĐẶC TRƯNG THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ CỦA CÁC NƯỚC
ASEAN. ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ. (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG
HỢP: ĐẶC TRƯNG THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ CỦA VIỆT NAM)


MỤC LỤC

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI...............................................................................1
II. NỘI DUNG.................................................................................................2
2.1 Cơ sở lý luận...............................................................................................2
2.1.1. Khái niệm Chính trị và chính thể.........................................................2
2.1.2 Hệ thống chính trị và dân chủ xã hội chủ nghĩa...................................6
2.2 Các thể chế chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam..........................12
2.2.1 Tính chất và đặc điểm của thể chế chính trị Việt Nam hiện nay.......12
2.2.2 Các thể chế chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam...................16
2.3 Đánh giá giá trị và hạn chế thể chế chính trị của Việt Nam......................19
2.3.1. Đánh giá giá trị thể chế chính trị của Việt Nam................................19
2.3.2. Hạn chế thể chế chính trị của Việt Nam............................................20
III. KẾT LUẬN.............................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................29


I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thể chế chính trị là sự thể chế hóa hệ thống chính trị thành các chế độ
cụ thể, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng thành tổ trong hệ
thống chính trị, bảo đảm cho hệ thống chính trị vận hành theo một cơ chế
trong đó nhà nước đóng vai trị chủ đạo, quyền lực chính trị thuộc về tay giai
cấp cầm quyền.


Thể chế chính trị là hình thức triển khai hoạt động của một chế độ
chính trị, phụ thuộc chủ yếu vào tính chất, nội dung và mục đích của chế độ
chính trị đó. Thể chế chính trị bị chi phối bởi tương quan các lực lượng trong
đời sống chính trị, bởi sự phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy địi hỏi thể chế
chính trị phải đổi mới, phát triển cho phù hợp.
Thể chế chính trị Việt Nam hiện nay là kết quả của hơn 60 năm đấu
tranh, xây dựng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Ra đời sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, trải qua những giai đoạn kháng chiến chống đế quốc
Pháp, đế quốc Mỹ và giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể chế chính trị
nước ta khơng ngừng đổi mới, hồn thiện, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ
thể. Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 là những văn bản pháp
lý quan trọng nhất quy định mơ hình, cầu trúc và nguyên tắc hoạt động của
thể chế chính trị Việt Nam hiện đại.
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, để đáp ứng yêu cầu phát
triển thể chế kinh tế thị trường dịnh hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vấn đề đổi
mới thể chế chính trị được đặt ra cấp bách, trước hết là phải sửa dổi, bổ sung
liến pháp 1992.
Chính vì lý do đó, tác giả tiến hành lựa chọn đề tài: “Phân tích đặc
trưng thể chế chính trị của các nước ASEAN. Đánh giá giá trị và hạn chế.
(Nghiên cứu trường hợp: Đặc trưng thể chế chính trị của Việt Nam)”
Nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ quá trình hình thành, các giai đoạn phát triển của

1


thế chế chính trị Việt Nam hiện đại, khẳng định các giá trị để kế thừa, phát
huy; chi ra những hạn chế để khắc phục, khơng chỉ có ý nghĩa lý luận, mà cịn
có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
II. NỘI DUNG

2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm Chính trị và chính thể
Tư duy theo các lớp quan hệ – nét đặc sắc, độc đáo trong tư duy triết học,
chính trị học và xã hội học Hồ Chí Minh là điểm tựa lý thuyết và phương
pháp rất quan trọng cho chúng ta nghiên cứu vấn đề thể chế chính trị Việt
Nam. Do đó, cần phải khai thác và vận dụng triệt để tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính trị với đặc trưng dân chủ – pháp quyền – nhân văn để tìm đúng câu trả
lời cho vấn đề đang đặt ra.
Chính trị và chính thể
– Chính trị là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, xét
về mặt hoạt động của con người trong xã hội có Nhà nước, có kết cấu giai
cấp, tầng lớp, các lực lượng (tập đồn, nhóm, giới…) cùng tham gia vào đời
sống chính trị (tham chính), cùng có quan hệ với chủ thể chấp chính, tức là
lãnh đạo và cầm quyền, quản lý và quản trị xã hội (thống quản).
Các lĩnh vực của đời sống xã hội, như Hồ Chí Minh xác định là có bốn
mặt ngang nhau, khơng được xem nhẹ một mặt nào, cũng không tách rời nhau
mà tác động lẫn nhau: kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Mỗi lĩnh vực có
vai trị, vị trí riêng của nó trong cấu trúc xã hội tổng thể. Nịng cốt của cấu
trúc này là kinh tế và chính trị.
– Chính trị cịn được nhìn nhận là một quan hệ đặc trưng bởi quyền lực,
đó là quyền lực nhà nước do một giai cấp nắm quyền, thực thi quyền lực gắn
với bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền (lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị,
lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, nổi bật ở tư tưởng, ý thức hệ) nhưng phải
đáp ứng được lợi ích chung của xã hội, biểu đạt được lợi ích, ý chí chung của
2


xã hội. Đó là địi hỏi và ràng buộc tất yếu để tồn tại. Do đó, trong chính trị
phải thường xuyên giải quyết mối quan hệ lợi ích và quan hệ quyền lực giữa
các giai cấp, giữa giai cấp với dân tộc, giữa Nhà nước với công dân, giữa

công chức, quan chức trong các tổ chức công quyền1 với công dân. Trong
những xã hội chính trị có nhiều đảng cịn là quan hệ giữa các đảng phái, chính
trị cũng đồng thời có chính trị đối nội (nội trị) và chính trị đối ngoại (ngoại
giao) được thể hiện qua đường lối, chính sách của Đảng cầm quyền, của nhà
nước quản lý.
Hoạt động chính trị là sự kết hợp giữa hoạt động tham chính của số đơng
trong xã hội, đơng đảo nhất là tồn thể các cơng dân, các thành viên trong
cộng đồng (cả dân tộc đa số, thiểu số, cả tôn giáo) với hoạt động chấp chính,
tiêu biểu là các thủ lĩnh, các tổ chức đại biểu cho giới tinh hoa.
Giải quyết các mối quan hệ trong chính trị vừa có mặt thống nhất vừa có
mặt mâu thuẫn, khác biệt, kể cả xung đột mà sâu xa là xung đột lợi ích. Cho
nên trong đời sống chính trị với những không gian và thời gian nhất định, vừa
có ổn định mà cũng vừa có bất định, có cả khủng hoảng. Để giữ vững ổn định
mà phải là ổn định tích cực chứ khơng tiêu cực thì điều quan trọng nhất là
phải phát triển được kinh tế, giữ được đồng thuận xã hội trên nền tảng dân
chủ và đồn kết, đó là một nền chính trị hợp lịng dân, được lịng dân, được
dân ủng hộ.
Chỉ dẫn quan trọng cho vấn đề này, Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh:
“Khơng được làm gì trái ý dân”, “phải làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới
dân”, đó chính là dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ. “Bao nhiêu lợi ích đều
thuộc về dân, bao nhiều quyền cũng là của dân, quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân”2.
– Chính trị, theo Lênin, có lơgic khách quan mà cũng có lơgic nội tại của
nó nữa. Lơgic khách quan nói lên vai trị quyết định của kinh tế đối với chính
trị. Kinh tế, xét đến cùng là nhân tố quyết định chính trị cũng như quyết định
sự phát triển của xã hội nói chung, nhưng chính trị khơng phải là sản phẩm
3


thụ động của kinh tế. Nó có thể tác động trở lại với kinh tế và xã hội theo hai

chiều hướng, hoặc tích cực, nếu chính trị tác động đúng và phù hợp, hoặc tiêu
cực, nếu tác động sai (trái quy luật), khơng phù hợp (chủ quan, duy ý chí, trái
với dân chủ).
Chính trị có thể là lực đẩy mà cũng có thể trở thành lực cản đối với phát
triển kinh tế – xã hội. Biểu hiện rõ nhất của lực đẩy, là động lực phát triển đó
là chính trị dân chủ, hợp hiến, hợp pháp, hợp đạo lý là lịng dân, quyền lực
được kiểm sốt bằng sức mạnh của luật pháp, kỷ cương, có sự tham gia thực
chất của Nhân dân. Biểu hiện rõ nhất của lực cản mà chính trị gây ra là quan
liêu, tham nhũng, quyền lực do dân ủy thác bị biến dạng, tha hóa, đối lập lại
với Nhân dân, gây tổn hại tới lợi ích của người dân và cộng đồng. Tham
nhũng, từ tham nhũng kinh tế đến tham nhũng chính trị (chính sách) là cái
phản cảm xã hội lớn nhất trong sự nhìn nhận, đánh giá của Nhân dân. Giảm
thiểu tới mức thấp nhất những tổn hại do tham nhũng gây ra là dấu hiệu,
thước đo quan trọng nhất về năng lực, hiệu quả điều hành chính sự, là bằng
chứng về “sức khỏe” của nhà nước, của môi trường xã hội lành mạnh mà thể
chế chính trị vận hành. Nó cũng nói lên tác dụng thực của kiểm soát quyền
lực, của dân chủ, sự trong sạch của bộ máy và phẩm chất liêm chính của đội
ngũ công chức, nhất là các quan chức cao cấp, có trọng trách vạch ra và thực
thi chính sách.
Cũng theo Lê Nin, “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”, “chính
trị là kinh tế cơ đọng lại”. Trong chính thể Cộng hịa Xơ Viết (tức XHCN),
chính trị phải đóng vai trị quyết định phương hướng phát triển kinh tế. Dù xét
đến cùng thì kinh tế quyết định chính trị nhưng chính trị phải đóng được vai
trị định hướng phát triển kinh tế, thông qua quan điểm, mục tiêu, phương
hướng và giải pháp chính trị đối với kinh tế. Bởi thế, với Đảng cầm quyền,
trong những thời điểm phát triển bước ngoặt mà mất phương hướng chính
trị (trịng trành, dao động) thì coi như đưa chính trị tới chỗ tự sát. Bài học
phải trả giá đau đớn về sự đổ vỡ thể chế XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, Đảng
4



tự đánh mất vai trò cầm quyền, hệ thống XHCN thế giới sụp đổ, cách mạng
thoái trào… là một trong những minh chứng điển hình nhất cuối thế kỷ XX.
Thể chế chính trị gắn bó hữu cơ với tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị, trở thành điều kiện, tiền đề của nhau. Bởi vì khơng ai khác, chính bộ máy
hệ thống chính trị là chủ thể xây dựng, hoàn thiện và vận hành thể chế phát
triển mà trước hết là thể chế chính trị. Đến lượt nó, thể chế chính trị trở lại
quy định, thúc đẩy sự phát triển, hồn thiện của tổ chức bộ máy hệ thống
chính trị.
– Chính trị là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, xét
về mặt hoạt động của con người trong xã hội có Nhà nước, có kết cấu giai
cấp, tầng lớp, các lực lượng (tập đoàn, nhóm, giới…) cùng tham gia vào đời
sống chính trị (tham chính), cùng có quan hệ với chủ thể chấp chính, tức là
lãnh đạo và cầm quyền, quản lý và quản trị xã hội (thống quản).
Các lĩnh vực của đời sống xã hội, như Hồ Chí Minh xác định là có bốn
mặt ngang nhau, không được xem nhẹ một mặt nào, cũng không tách rời nhau
mà tác động lẫn nhau: kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Mỗi lĩnh vực có
vai trị, vị trí riêng của nó trong cấu trúc xã hội tổng thể. Nòng cốt của cấu
trúc này là kinh tế và chính trị.
Chính trị cịn được nhìn nhận là một quan hệ đặc trưng bởi quyền lực, đó
là quyền lực nhà nước do một giai cấp nắm quyền, thực thi quyền lực gắn với
bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền (lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị, lợi
ích vật chất và lợi ích tinh thần, nổi bật ở tư tưởng, ý thức hệ) nhưng phải đáp
ứng được lợi ích chung của xã hội, biểu đạt được lợi ích, ý chí chung của xã
hội. Đó là địi hỏi và ràng buộc tất yếu để tồn tại.
Do đó, trong chính trị phải thường xun giải quyết mối quan hệ lợi ích
và quan hệ quyền lực giữa các giai cấp, giữa giai cấp với dân tộc, giữa Nhà
nước với công dân, giữa công chức, quan chức trong các tổ chức công quyền
với công dân. Trong những xã hội chính trị có nhiều đảng cịn là quan hệ giữa
các đảng phái, chính trị cũng đồng thời có chính trị đối nội (nội trị) và chính

5


trị đối ngoại (ngoại giao) được thể hiện qua đường lối, chính sách của Đảng
cầm quyền, của nhà nước quản lý.
– Chế độ chính trị quy định kiểu, mơ hình chế độ của một xã hội, trong
đó bao hàm mục tiêu, lý tưởng chính trị, nền tảng ý thức hệ, tổ chức Nhà
nước, địa vị chính trị – pháp lý của Đảng, bảo đảm tính chính danh được ghi
vào Hiến pháp về việc lãnh đạo, cầm quyền. Nghĩa hẹp và cụ thể, chính thể là
thể chế chính trị. Thể chế chính trị hình thành và được quy định bởi chế độ
chính trị. Chế độ chính trị như thế nào thì thể chế chính trị như thế ấy. Đó là
một hệ thống các quy tắc, quy định, luật lệ bảo đảm cho chính trị vận hành
phù hợp với mục tiêu phát triển xã hội mà chế độ chính trị đã xác định, đã lựa
chọn, phù hợp với chuẩn mực dân chủ của xã hội dân chủ và nhà nước pháp
quyền.
Trong điều kiện của cải cách và đổi mới, theo nghĩa lành mạnh, đổi mới
thể chế chính trị là làm cho chế độ chính trị trở nên vững mạnh, có hiệu quả
hơn trong tổ chức và hoạt động vì lợi ích chung của quốc gia – dân tộc và
cộng đồng xã hội chứ khơng với nghĩa là thay đổi chế độ chính trị, là dẫn tới
những đảo lộn có tác dụng xấu, tới độc lập chủ quyền, tới sự an nguy của chế
độ.
Như vậy, thể chế chính trị được hiểu chính là bộ máy tổ chức của nhà
nước, là hình thức chế độ mà nhà nước lựa chọn để xây dựng thông qua
những quy định, điều luật và thơng qua nó để điều chỉnh, quản lý xã hội. Mỗi
quốc gia sẽ có một thể chế riêng và được quy định trong văn bản pháp luật có
giá trị pháp lý cao nhất ở quốc gia đó.
2.1.2 Hệ thống chính trị và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam, cùng với đổi mới nhận thức lý luận
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng
ta đã có những nhận thức mới về dân chủ và HTCT.


6


Trước đổi mới, chúng ta thường nhấn mạnh “làm chủ tập thể”, “xây dựng
chế độ làm chủ tập thể”, coi “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ” là “cơ chế làm chủ tập thể”. Cũng như vậy, Nhà nước được xác định
là “Nhà nước chun chính vơ sản”.
Trong đổi mới, Văn kiện Đại hội VI (12/1986) nhấn mạnh “đẩy mạnh
dân chủ hóa tồn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội để xây dựng nền dân
chủ XHCN ở nước ta”9.
Đến Hội nghị Trung ương 6, khóa VI, 1989, lần đầu tiên, Đảng ta sử
dụng khái niệm “Dân chủ XHCN” thay cho khái niệm “chế độ làm chủ tập
thể” trước đây. Cũng như vậy, lần đầu tiên, “HTCT” như một thuật ngữ khoa
học được sử dụng trong chính trị học Việt Nam với tư cách một khoa học10.
Cần lưu ý rằng, chính trị học và khoa học chính trị ở Việt Nam là những
khoa học rất non trẻ, chỉ đến đổi mới mới được chú trọng nghiên cứu, dù
trong lịch sử, dân tộc Việt Nam là dân tộc có truyền thống chính trị, rất nhạy
cảm với chính trị trong quá trình dựng nước và giữ nước. Trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam, đường lối “thân dân”, “an dân”, “trị quốc”, “quốc thái dân
an”, “trọng dụng nhân tài, hiền tài”… là những dịng tư tưởng chính trị rất đặc
sắc của ông cha ta qua các triều đại, đến nay vẫn có thể kế thừa khi đổi mới
chính trị, HTCT và thể chế chính trị.
Vậy, HTCT được hiểu như thế nào?
Nhận thức chung, phổ biến thường hiểu HTCT là hệ thống tổ chức bộ
máy (các thiết chế) cùng hoạt động trong đời sống chính trị với những chức
năng, nhiệm vụ khác nhau, do đó, cũng có những thẩm quyền, trách nhiệm
khác nhau.
Bằng phương pháp mô tả, chúng ta thường cấu hình hóa HTCT Việt
Nam gồm các tổ chức sau đây:

– Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) có vai trị lãnh đạo, có địa vị cầm
quyền.

7


– Nhà nước (Quốc hội lập pháp, Chính phủ hành pháp, Tòa án, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao làm chức năng tư pháp): Nhà nước làm chức năng
quản lý, điều hành, trước hết là ban hành luật, thể chế hóa đường lối, quan
điểm của Đảng thành luật pháp, chính sách.
– Mặt trận và các đoàn thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh
chính trị – xã hội rộng lớn nhất, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
do Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý (đã có luật về Mặt trận và một số đoàn
thể), bằng phương pháp Hiệp thương dân chủ để liên kết các tổ chức chính trị
– xã hội thành viên, cùng tập hợp và vận động quần chúng nhân dân thực hiện
nhiệm vụ chính trị (xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN),
thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, tham gia xây dựng Đảng và quản lý
nhà nước.
Đáng lưu ý là hai điểm sau đây:
Thứ nhất, Mặt trận chỉ có các thành viên là các tổ chức, về căn bản
khơng có cá nhân, chỉ có một số đại biểu nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ ngồi
Đảng, các chức sắc tơn giáo, các đại biểu cho cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài tham gia vì mục đích nêu cao đại đồn kết và đồng thuận xã hội.
Do đó, về nguyên tắc, quan hệ giữa Mặt trận và các thành viên là quan hệ
hiệp thương chứ không phải tập trung dân chủ như trong Đảng, Nhà nước và
các tổ chức chính trị khác.
Thứ hai, nhiều tổ chức, đoàn thể vừa là thành viên Mặt trận lại vừa là
thành viên tham gia vào HTCT, bởi họ có hệ thống tổ chức ở các cấp (4 cấp:
trung ương – địa phương trực thuộc trung ương: quận, huyện trực thuộc tỉnh
thành và cơ sở: xã – phường – thị trấn), hoạt động độc lập, không phụ thuộc

Mặt trận.
Nhà nước là giường cột của HTCT nhưng Nhà nước không tham gia vào
Mặt trận. Nhà nước phải đứng ngoài Mặt trận để phân biệt rõ hệ thống quyền
lực nhà nước (quyền lực công, công quyền) với hệ thống quyền lực ngoài nhà
nước (quyền lực xã hội mà Mặt trận là đại diện).
8


Đảng khác Nhà nước. Đảng vừa có vai trị lãnh đạo Mặt trận vừa là một
thành viên của Mặt trận, một thành viên đặc biệt là lãnh đạo nhưng có nghĩa
vụ đóng góp, xây dựng Mặt trận. Phương diện “trách nhiệm”, “nghĩa vụ” này
trên thực tế làm chưa tốt, có hạn chế từ Mặt trận mà cũng có khuyết điểm từ
phía Đảng cầm quyền, dù Đảng ln ln có đại diện của mình bên cạnh Mặt
trận.
Trên thực tế, các tổ chức trong HTCT Việt Nam hiện nay gồm:
+ Đảng
+ Nhà nước
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
+ Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (Cơng đồn)
+ Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (tổ chức chính trị – xã hội
của tuổi trẻ, có cả Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội Sinh viên, Đội Thiếu niên
tiền phong, Đội Nhi đồng với thiết chế Hội đồng Đội Trung ương).
+ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
+ Hội Nông dân Việt Nam
+ Hội Cựu chiến binh (đặc thù của Việt Nam vì trải qua chiến tranh,
quân đội, quân nhân, cựu chiến binh có vai trị quan trọng…).
Tóm lại gồm 8 tổ chức, nếu nói gọn là có 3: Đảng – Nhà nước – Mặt
trận (các tổ chức đoàn thể đều nằm trong Mặt trận).
Có một tình huống đặt ra:
Cho đến nay, ta vẫn chưa phân biệt và phân định thật rõ ràng giữa tổ

chức chính trị với tổ chức chính trị – xã hội và tổ chức xã hội – nghề
nghiệp (thường gắn với các hoạt động xã hội từ thiện, thiện nguyện). Vì thế,
tổ chức nào cũng muốn được cơng nhận là thành viên của HTCT. Cơ cấu tổ
chức trong HTCT là có hạn, khơng thể tổ chức nào cũng nhất thiết phải tham
gia vào HTCT. Nhiều và rất nhiều tổ chức (hội, hiệp hội, liên hiệp hội) chỉ
thuộc về hệ thống xã hội có tính dân sự, hoạt động tự nguyện, tự quản, tự
trang trải, cơ động linh hoạt về mơ hình, khơng nhất thiết phải có đủ cả 4 cấp
9


từ trung ương tới cơ sở theo mơ hình quản lý hành chính. Nhà nước chỉ tạo
mơi trường và khung khổ pháp lý cho phép hoạt động công khai, hợp pháp mà
thôi. Nhà nước không thể gánh hết trách nhiệm và lo trang trải kinh phí cho
tất cả mọi tổ chức được bởi nền kinh tế không cho phép thỏa mãn điều đó.
Hơn nữa, tình trạng mọi tổ chức đều muốn gắn vào HTCT còn là hệ quả di
tồn của chế độ bao cấp đã bị thực tiễn đổi mới trong nền kinh tế thị trường
vượt qua từ lâu, vẫn cịn bám vào thể chế một cách dai dẳng. Đó còn là tâm lý
hiếu danh và háo danh một cách rất hình thức.
Xu hướng dân chủ địi hỏi phải xã hội hóa, đề cao tính xã hội thì một xu
hướng khác trì kéo lại, đó là chính trị hóa. Xử lý tình huống này cũng khơng
nằm ngồi nội dung đổi mới thể chế chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động
của HTCT. Chú trọng hiệu quả của dân chủ đại diện nhưng phải chủ động mở
rộng dân chủ trực tiếp, phải trở thành một đường hướng tổng quát để xây
dựng thể chế dân chủ, thực hành dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, tăng cường
vai trò, vị thế HTCT từ cơ sở.
– Vậy phải xác định một quan niệm khoa học về HTCT như thế nào cho
đúng? Nó có quan hệ với xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền thơng qua đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội.
HTCT khơng chỉ là hệ thống tổ chức, thiết chế bộ máy trong đời sống
chính trị mà cịn là hệ thống các mối quan hệ theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền, trách nhiệm tương thích với từng tổ chức. Đồng thời, HTCT ở nước ta
còn là hệ thống các cấp độ, phù hợp với hệ thống tổ chức quản lý 4 cấp hành
chính như hiện nay. Đó là các quan hệ dọc từ trên xuống trong từng tổ chức
đan xen các quan hệ ngang giữa các tổ chức trong cùng hệ thống. Rõ nhất là,
quan hệ giữa Đảng – Nhà nước – Mặt trận – các đồn thể. Cả nước chỉ có một
HTCT. Trong hệ thống đó sẽ có các cấp độ chứ không phải mỗi cấp độ là một
HTCT độc lập như có người từng hiểu.
Cơ sở cũng vậy, phải phân biệt cấp cơ sở là cấp thấp nhất, nền tảng, là vi
mô hợp thành cấu trúc vĩ mô của xã hội, với cơ sở (từng đơn vị tổ chức như
10


công sở, trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu, cơ quan…). Cơ sở là những
tế bào của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, cấp cơ sở được gọi chung là cấp
xã (bao gồm xã, phường, thị trấn) bởi xã chiếm số lượng lớn nhất trong tổng
số các đơn vị hành chính của một nước nơng nghiệp.
Xây dựng HTCT để xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện quyền làm
chủ của người dân. Nhân dân là chủ thể gốc của mọi quyền lực. Nhân dân
đồng thời là chủ thể của HTCT.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân nên hệ thống chính trị
cũng phải là hệ thống chính trị của dân. Trong tiến trình đổi mới và phát triển
mạnh mẽ kinh tế thị trường, cấp xã đang có những biến đổi nhanh chóng cả
về cơ cấu kinh tế lẫn cơ cấu xã hội, trong đó có chuyển dịch cơ cấu lao động,
dân cư. Cấp xã và các xã trên địa bàn nông thôn đang chịu tác động đồng thời
các q trình: dân chủ hóa, cơng nghiệp hóa và đơ thị hóa. Những tác động
này dẫn tới những biến đổi mạnh mẽ và phức tạp về mặt xã hội, các quan hệ
xã hội, tâm lý lối sống, văn hóa và mơi trường ở nơng thơn và cộng đồng cư
dân nông thôn từ người nông dân, hộ gia đình nơng dân đến giai cấp nơng dân
nói chung. Trong bối cảnh đó, HTCT cơ sở ở nơng thơn, trong đó có chính
quyền cấp xã (Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân) đứng trước những yêu

cầu mới, đòi hỏi phải đổi mới. Quan hệ giữa xã và thôn, giữa quản lý và tự
quản, giữa hộ nông dân cá thể với các hợp tác xã kiểu mới được tổ chức lại,
khác hẳn với hợp tác xã kiểu cũ trước đây từ những năm 60 thế kỷ XX của
thời bao cấp… đã và đang đặt ra rất nhiều tình huống phải nghiên cứu, tổng
kết và giải quyết.
Quy chế thực hiện đân chủ ở cơ sở, sau đó là pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở cấp xã ra đời từ năm 1998 (quy chế) và năm 2007 (pháp lệnh) đã thể
chế hóa về quyền làm chủ của người dân ở cơ sở (dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra). Những vấn đề về quyền của dân được quyết trực tiếp, những
quy định về lợi ích mà người dân được thụ hưởng, tức là dân quyết và dân
hưởng bảo đảm cho quy chế và pháp lệnh thu hút được sự quan tâm, chú ý
11


của người dân, đi vào cuộc sống, tạo nên sinh khí của dân chủ ở cơ sở, tạo
động lực chính trị – tinh thần để xây dựng nông thôn mới.
Đổi mới thể chế chính trị và HTCT ở Việt Nam phải đặc biệt chú ý tới
HTCT ở cơ sở nông thôn và dân chủ ở cơ sở đối với nông dân. Đây là một
mắt xích xung yếu, nhất là tổ chức Đảng và chính quyền xã cần chú trọng
đồng bộ cả xây dựng lẫn chỉnh đốn và đổi mới để tạo lập ổn định chính trị –
xã hội tích cực, hướng tới phát triển bền vững.
2.2 Các thể chế chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam
2.2.1 Tính chất và đặc điểm của thể chế chính trị Việt Nam hiện nay
Nước ta tiến hành đổi mới đã hơn ba thập kỷ nay nhưng vẫn là nước
nông nghiệp, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường. Phải qua hai, ba thập kỷ nữa
mới có thể trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việt Nam vẫn
đang ở thời kỳ quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ tới
chủ nghĩa xã hội.
Loại hình phát triển của Việt Nam là “phát triển rút ngắn”. Quá độ lên

chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, do đó khơng thể là q độ trực tiếp mà là
“quá độ gián tiếp”.
Lý thuyết cũng như thực tiễn phát triển của Việt Nam cho thấy, thời kỳ
quá độ mà Việt Nam phải trải qua là rất lâu dài, thông qua nhiều bước chuyển
tiếp rất phức tạp mang tính đặc thù. Đó là:
– Chuyển từ chiến tranh sang hịa bình, từ đất nước bị chia cắt sang
thống nhất Tổ quốc, từ sự khác biệt thể chế (do hoàn cảnh lịch sử quy định)
sang thống nhất một chỉnh thể (chế độ chính trị), một thể chế, một hệ thống
chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước quản lý.
– Chuyển từ thế bị bao vây, cấm vận bởi các thế lực thù địch và nền
kinh tế – xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ
XX sang chủ động đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế; thoát ra khỏi khủng

12


hoảng, vượt qua trạng thái lạc hậu, kém phát triển, đi vào quỹ đạo phát triển,
trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, phấn đấu đạt mặt
bằng phát triển chung của các nước trong khu vực và quốc tế. Đây là bằng
chứng cho thấy tính đúng đắn, kịp thời của quyết sách đổi mới, mở cửa và
hội nhập. Đó là con đường tất yếu của phát triển, trước hết là phương thức
giải quyết cuộc khủng hoảng, tạo lập ổn định, đón kịp thời cơ, vượt qua
thách thức trong hội nhập, mở rộng hợp tác song phương và đa phương để
khai thác các ngoại lực, phát huy nội lực phát triển. Thế và Lực của Việt
Nam đạt được như hiện nay là cơ sở bảo đảm cho thể chế chính trị Việt Nam
đổi mới và phát triển, tạo động lực phát triển kinh tế. Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương đổi mới toàn diện, đổi mới đồng bộ giữa kinh tế với chính
trị giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, đổi mới cả mơ hình tăng trưởng
để phát triển nhanh và bền vững.
– Chuyển từ nhận thức cũ, tư duy lý luận cũ về chủ nghĩa xã hội theo

mơ hình “chủ nghĩa xã hội hiện thực Xơ Viết” với kinh tế hiện vật, kế hoạch
hóa tập trung quan liêu, phân phối bình quân, bao cấp, “phát triển đơn trị”,
“tuyến tính” (chỉ trong một hệ thống xã hội chủ nghĩa Xơ Viết), thực chất là
đóng cửa các mối quan hệ với phương Tây tư bản chủ nghĩa… sang nhận
thức mới, tư duy lý luận mới về chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trường, dân
chủ hóa, nhà nước pháp quyền, đa phương hóa, đa dạng hóa trong hợp tác,
cạnh tranh với các loại đối tác trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập. Cùng tồn
tại, cùng hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh, không để những khác biệt ý thức
hệ cản trở hội nhập và hợp tác.
Trong bước chuyển rất quan trọng này, từ tổng kết thực tiễn, Đảng ta từng
bước tìm thấy câu trả lời “Chủ nghĩa xã hội là gì?” và “Xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam như thế nào trong điều kiện mới, bối cảnh mới, yêu cầu mới?”.
Đó là “Chủ nghĩa xã hội hiện thực mới”, “chủ nghĩa xã hội Việt Nam” không
chỉ giữ vững nền tảng lý luận Mác xít (chủ nghĩa xã hội khoa học) mà cịn bổ
sung, phát triển sáng tạo, nhấn mạnh tính dân tộc, tính nhân dân, tính thời đại.
13


Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết, theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thấm
nhuần. Khẳng định phát triển đất nước là lợi ích cốt lõi của quốc gia. Đại đoàn
kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định sức mạnh và thắng lợi.
Mục tiêu của đổi mới, của phát triển đồng thời là đặc trưng bản chất của
chủ nghĩa xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”2. Các giá trị dân chủ, con người, văn hóa… được khẳng định là mục
tiêu, động lực của phát triển Việt Nam trong đổi mới và hội nhập. Giải quyết
thành công những bước chuyển tiếp lịch sử đó, trước hết là nhờ sự kiên định
lập trường có tính ngun tắc “Định hướng xã hội chủ nghĩa”, có bước đi phù
hợp, có giải pháp sáng tạo, thiết thực, đem lại lợi ích thường nhật cho dân
chúng, dân được thụ hưởng trực tiếp lợi ích từ đổi mới để sẵn sàng nhập cuộc
với đổi mới, ủng hộ đổi mới và hành động vì đổi mới.

Thành quả của đổi mới được đánh giá là to lớn, có ý nghĩa lịch sử là
thành quả do dân tạo ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhân dân trở thành đồng
chủ thể kiến tạo đổi mới. Nhân dân cũng là đồng tác giả của cơng trình đổi
mới hơn 30 năm qua ở Việt Nam. Đổi mới là sự cộng hưởng đặc sắc giữa Ý
Đảng với Lòng dân và Phép nước.
Điểm nhấn đặc biệt trong những thành tựu đó là gì? Đó là:
– Đổi mới trên tiền đề giữ vững ổn định chính trị và ổn định xã hội một
cách tích cực, bằng cách đem lại lợi ích cho người dân, tạo được đồn kết và
đồng thuận xã hội và dân ủng hộ đổi mới. Cơ sở xã hội quan trọng nhất để
bảo đảm ổn định và phát triển là lịng dân. Nhờ đó đã làm sáng tỏ một trong
những mối quan hệ lớn, cơ bản, có tính quy luật trong đổi mới và phát triển
của Việt Nam là quan hệ giữa ổn định với đổi mới và phát triển. Ổn định là
tiền đề, đổi mới là điều kiện và phương thức, phát triển là mục tiêu4.
– Đi vào cải cách chính trị, thể chế chính trị là một vấn đề rất phức tạp,
đụng chạm tới các quan hệ quyền lực, nhiều nước rơi vào rối loạn bởi những
xung đột, thậm chí đổ vỡ khi chìm ngập trong những khủng hoảng chính trị,
xuất hiện “những khoảng trống nguy hiểm”, khoảng trống ý thức hệ và
khoảng trống quyền lực. Sự kiện Liên Xô và Đông Âu là một minh chứng
14


điển hình. Vậy mà, ở Việt Nam, Đảng ta đã giải quyết thành công cuộc khủng
hoảng kinh tế – xã hội, khơng để xảy ra khủng hoảng chính trị. Thành cơng
này rất đặc sắc, nói lên bản lĩnh của Đảng trong điều kiện một Đảng duy nhất
cầm quyền, đồng thời là sức mạnh của đoàn kết, đồng thuận trong cộng đồng
dân tộc và nhân dân.
– Nhờ phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường mà tạo ra xung lực kinh tế
để phát triển dân chủ. Nhờ xây dựng nhà nước pháp quyền mà tạo ra bảo
đảm pháp lý quan trọng để phát triển kinh tế thị trường và quản lý phát triển
xã hội.

Trong mơ hình phát triển của Việt Nam, kinh tế thị trường, nhà nước
pháp quyền và dân chủ là những trụ cột ngày một định hình. Tạo ra những
điểm nhấn đó, có vai trị ngày càng rõ nét của thể chế chính trị Việt Nam, vừa
xây dựng, vừa đổi mới, vừa phát triển.
Thứ nhất, thể chế chính trị Việt Nam là thể chế chính trị xã hội chủ
nghĩa. Đó là một thể chế xét về tính chất, bản chất là xã hội chủ nghĩa nhưng
về mặt lịch sử và trình độ phát triển thì đó là một thể chế quá độ, đang trong
thời kỳ quá độ tới chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà chủ nghĩa xã hội cịn đang trong q trình
phát sinh và hình thành, các nhân tố xã hội chủ nghĩa, từ kinh tế đến chính trị,
từ văn hóa đến con người và xã hội mới chỉ là xu hướng, khuynh hướng phát
triển chứ chưa định hình. Do đó, xét về mặt lý luận, Đảng ta dùng khái niệm
“Định hướng xã hội chủ nghĩa” là tương thích với khái niệm “thời kỳ quá độ”,
cả nội dung lẫn hình thức. Cũng do đó, thể chế chính trị Việt Nam trong đổi
mới, hội nhập hiện nay là thể chế chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở kinh tế của thể chế
chính trị Việt Nam đang xây dựng, đổi mới và phát triển.
Thứ hai, thể chế chính trị Việt Nam là sự phát triển hợp lơgic từ chính
thể cộng hịa dân chủ của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đến chính thể
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ

15


năm 1945 -1976 và hiện nay). Đó là thể chế vừa có tính kế thừa vừa có phát
triển, thơng qua phương thức đổi mới.
Thể chế chính trị đó đã thực hiện những bước chuyển tiếp từ cách mạng
giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, từ chế độ dân chủ nhân
dân với mơ hình nhà nước chun chính vơ sản sang chế độ xã hội chủ nghĩa,
xác lập nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,

do Nhân dân, vì Nhân dân.
Thể chế trong quá trình xây dựng và vận hành có những biến đổi nhưng
ngun tắc chính trị cơ bản thì khơng thay đổi. Đó là lý tưởng, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là các giá trị dân chủ, cơng bằng, bình đẳng,
là độc lập – tự do – hạnh phúc.
Đó là địa vị, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Thứ ba, thể chế chính trị Việt Nam là thể chế chính trị nhất nguyên và
một Đảng. Nhà nước pháp quyền nhưng không tam quyền phân lập mà thực
hiện quyền lực tập trung thống nhất không phân chia thuộc về nhân dân. Nhân
dân là chủ thể ủy quyền, trao quyền lực cho nhà nước do Nhân dân xây dựng
và kiểm soát. Trong các thực thể của cấu trúc nhà nước có sự phân công, phối
hợp theo chức năng và nhiệm vụ để thực thi quyền lực của Nhân dân, vì Nhân
dân. Nhà nước là chủ thể thực hiện sự ủy quyền của Nhân dân, bảo đảm dân
chủ theo phương thức dân chủ đại diện và ngày càng mở rộng dân chủ trực
tiếp để Nhân dân tham gia quản lý nhà nước và kiểm sốt quyền lực, phịng
tránh và ngăn chặn sự tha hóa quyền lực. Thể chế chính trị đó ln đứng
trước yêu cầu đổi mới và tự đổi mới để chủ động hội nhập quốc tế. Rõ nhất là,
phải đổi mới thể chế luật pháp sao cho phù hợp với hệ thống chuẩn mực luật
pháp quốc tế, tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập quốc tế
của Việt Nam thành công.

16


2.2.2 Các thể chế chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị của chúng ta gồm ba “tiểu hệ thống” là Đảng Cộng
sản, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc tập hợp các đoàn thể, tổ chức nhân dân.
Ba “tiểu hệ thống” chính trị gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng chung mục đích
xây dựng, phát triển đất nước, tiến lên CNXH, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Ba “tiểu hệ thống” ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, hợp thành một hệ thống

chính trị thống nhất, vận hành theo quan hệ chức năng có tính ngun tắc:
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị nước ta nắm giữ tồn bộ hệ thống các quyền lực xã
hội trên thực tế, từ quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đến các quyền lực
khác trong xã hội, trong đó có các quyền lực về xây dựng, hoàn thiện, tổ chức
thực thi, kiểm sát việc thực thi hệ thống thể chế phát triển. Chính vì thế, việc
hồn thiện và thực thi có hiệu quả thể chế phát triển chỉ có thể xảy ra khi có
một tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tốt, hợp lý, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả.
Bằng phương pháp mơ tả, chúng ta thường cấu hình hóa hệ thống chính
trị của Việt Nam gồm các tổ chức sau đây:
– Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) có vai trị lãnh đạo, có địa vị cầm
quyền.
– Nhà nước (Quốc hội lập pháp, Chính phủ hành pháp, Tịa án, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao làm chức năng tư pháp): Nhà nước làm chức năng
quản lý, điều hành, trước hết là ban hành luật, thể chế hóa đường lối, quan
điểm của Đảng thành luật pháp, chính sách.
– Mặt trận và các đồn thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh
chính trị – xã hội rộng lớn nhất, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
do Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý (đã có luật về Mặt trận và một số đoàn
thể), bằng phương pháp Hiệp thương dân chủ để liên kết các tổ chức chính trị
– xã hội thành viên, cùng tập hợp và vận động quần chúng nhân dân thực hiện

17


nhiệm vụ chính trị (xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN),
thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, tham gia xây dựng Đảng và quản lý
nhà nước.
Đáng lưu ý là hai điểm sau đây:

Thứ nhất, Mặt trận chỉ có các thành viên là các tổ chức, về căn bản
khơng có cá nhân, chỉ có một số đại biểu nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ ngồi
Đảng, các chức sắc tơn giáo, các đại biểu cho cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngồi tham gia vì mục đích nêu cao đại đồn kết và đồng thuận xã hội.
Do đó, về nguyên tắc, quan hệ giữa Mặt trận và các thành viên là quan hệ
hiệp thương chứ không phải tập trung dân chủ như trong Đảng, Nhà nước và
các tổ chức chính trị khác.
Thứ hai, nhiều tổ chức, đoàn thể vừa là thành viên Mặt trận lại vừa là
thành viên tham gia vào hệ thống chính trị, bởi họ có hệ thống tổ chức ở các
cấp (4 cấp: trung ương – địa phương trực thuộc trung ương: quận, huyện trực
thuộc tỉnh thành và cơ sở: xã – phường – thị trấn), hoạt động độc lập, không
phụ thuộc Mặt trận.
Nhà nước là giường cột của hệ thống chính trị nhưng Nhà nước không
tham gia vào Mặt trận. Nhà nước phải đứng ngoài Mặt trận để phân biệt rõ hệ
thống quyền lực nhà nước (quyền lực công, công quyền) với hệ thống quyền
lực ngoài nhà nước (quyền lực xã hội mà Mặt trận là đại diện).
Đảng khác Nhà nước. Đảng vừa có vai trị lãnh đạo Mặt trận vừa là một
thành viên của Mặt trận, một thành viên đặc biệt là lãnh đạo nhưng có nghĩa
vụ đóng góp, xây dựng Mặt trận. Phương diện “trách nhiệm”, “nghĩa vụ”
này trên thực tế làm chưa tốt, có hạn chế từ Mặt trận mà cũng có khuyết
điểm từ phía Đảng cầm quyền, dù Đảng ln ln có đại diện của mình bên
cạnh Mặt trận.
Trên thực tế, các tổ chức trong HTCT Việt Nam hiện nay gồm:
+ Đảng
+ Nhà nước
18




×