Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

34 Công Thức Châm Cứu Thường Dùng.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.73 KB, 25 trang )

34 CƠNG THỨC CHÂM CỨU THƯỜNG DÙNG
NHĨM THỨ 1
a) Phối huyệt: bách hội, đại chùy, khúc trì, hợp cốc
b) Hiệu năng: sơ phong, giải biểu, điều hoà doanh
c) Chủ trị:
Các chứng ngoại cảm Phong hàn như: lục dâm tà khí còn ở tại biểu như phát nhiệt
ố hàn, đầu thống, cổ chứng, lưng lạnh, thắt lưng đau, cột sống cứng, đau nhức tồn
thân, khơng có mồ hơi, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn; lại như chứng ngoại
cảm Phong nhiệt như: phát nhiệt mà không ố hàn, đầu thống tự hạn, miệng khát
muốn uống nước, rêu lưỡi màu vàng nhạt hoặc sẫm, mạch phù sác. Các chứng trên
đây nên dùng nhóm huyệt trên rồi tùy nghi gia giảm để trị.
d) Phép châm và cứu:
Trước hết châm bách hội, đến đại chùy, phong trì, sau đó “tả” khúc trì, hợp cốc.
Châm bách hội sâu 2 phân, đại chùy sâu 5 phân, (tả). Phong trì đều sâu 5 phân, bổ
nhiều tả ít. Sau khi châm nếu là thuộc Phong hàn thì nên cứu 3 đến 5 tráng, lưu
kim 15 phút, nếu là thuộc Phong nhiệt đều dùng phép tả, khơng cứu. Ngồi ra
chúng ta còn phải biện chứng cho rõ hư thực. Nếu là thể hư thì tiên bổ hậu tả, hoặc
tà khí, nếu là thể thực thì tiên tả hậu bổ hoặc bình bổ bình tả, đuổi tà khơng làm
cho chính khí bị thương, tà khí ra đi thì chính khí bình phục.
e) Phép gia giảm: sự biến hố của bệnh ngoại cảm rất phiên tạp, chứng lại nhiều, vì
thế nên trị theo phép kiêm, tức là gia giảm.
• Nếu đầu thống cổ cứng khá nặng, gia: phong phủ sâu 3 phân, tiên bổ hậu tả.
• Nếu Tâm bị phiền, nước tiểu vàng hoặc đỏ, gia Nội quan, sâu 5 phân, dùng phép
tả.
• Nếu thêm chứng cuồng ngơn, sàm ngữ, đại tiện khơ táo, đó là chứng thực của
kinh Dương minh, gia Phong long, Túc Tam lý, Dương Lăng tuyền, sâu từ 5 đến 8
phân, dùng phép tả.
• Nếu kèm theo chứng đau hơng sườn, ói mửa, gia Dương Lăng tuyền sâu 1 thốn,
Chi câu sâu 5 phân, tất cả đều dùng phép tả.
• Nếu kiêm chứng ho, đàm màu vàng, ngực bị bức rức, khí suyễn, gia Xích trạch,
sâu 5 phân, tả.


• Nếu kiêm chứng nghẹt mũi, chảy nước mũi trong gia Thương tinh, sâu 5 phân,
Ngư tê sâu 3 phân, dùng phép bổ, Nghênh hương sâu 3 phân, dùng phép tả.
f) Giải phương: Bách hội đứng đầu các Dương khí, là nơi hội huyệt của Đốc mạnh
và Thủ Túc Tam Dương, thuộc Thuần Dương, chủ biểu, châm huyệt này nhằm
thăng Dương ích khí, phù chính khí, đuổi tà khí; Đại chùy là hôi huyệt của Đốc
mạch và Thủ Túc Tam Dương, dùng để giải biểu, sơ tà, dùng phép tả có hàn khí;
Phong trì là giao hội huyệt của Thiếu dương kinh và Dương duy mạch, mạch
Dương duy chủ Dương khí tại biểu, dùng nó để tăng cường sức giả biểu; Khúc trì
là huyệt Hợp của kinh Thủ Dương minh Đại trường, có khả năng đi ra biểu vào lý,
nó có đặc tính là chỉ có “đi” chứ khơng có khả năng gìn giữ, vì thế chúng ta dùng
nó để dẫn tà khí xuất ra ngồi; Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Thủ Dương
minh Đại trường, đóng vai trị thăng giáng cho khí Âm lẫn Dương, là yếu huyệt


thuộc những bệnh nằm ở bán thân trở lên 5 huyệt này phối với nhau có vai trị sơ
Phong, tán tà, điều hòa doanh vệ.
Huyệt gia thêm Phong phủ làm sơ, giải tà khí ở não phủ, làm tiết đi hoả khí, làm
cho bớt đau. Nội quan làm cho thanh Tâm, tả nhiệt; huyệt Phong long Túc Tam lý
theo với Âm Dương để làm nhuận cho bên dưới, có khả năng làm sơ thông Trường
Vị; huyệt Dương lăng tuyền làm sơ can lý khí, giáng nghịch chân đứng chứng ói;
huyệt Xích trạch, Ngư tế tả được hoả tà ở Phế kinh để bình được chứng ho suyễn,
huyệt Thương tinh, Nghênh hương làm thanh não, lợi khiếu làm dứt chảy nước
mũi.
g) Ghi chú:
Nhóm huyệt này cũng thích hợp cho trường hợp tà khí ở tại bán biểu bán lý của
kinh Thiếu dương. Trong chứng sốt rét, tuy rằng phải phân biệt Âm Dương biểu lý
rõ ràng, nhưng vấn đề hàn nhiệt vãng lai thì chỉ có 1 mà thơi. Tất cả chỉ lất việc
điều hồ doanh vệ, phù chính đuổi tà là chủ. Nếu chúng ta tùy chứng mà gia giảm
thì kết quả cũng rất khả quan.
NHÓM THỨ 2

a) Phối huyệt: Hợp cốc, Khúc trì, Ngoại quan
b) Hiệu năng: thanh nhiệt tán Phong, tuyên thông Thượng tiêu
c) Chủ trị: đầu thống, hàm má bị sưng đau nhức, tai kêu, tai điếc, thổ huyết, chảy
máu cam không ngừng, cánh tay và các lóng tay bị nhức, đau ngực…
d) Phép châm và cứu: Hợp cốc, Khúc trì sâu 5 phân; Ngoại quan sâu 3 phân, tất cả
đều theo phép tả, lưu kim 5 phút, khơng cứu.
i) Phép gia giảm: nhóm huyệt này đi lên trên, ra biểu vào lý, nghĩa là đi khắp nơi
khơng có nơi nào cố định. nếu muốn đạt đến nơi bệnh chúng ta còn phải thủ 1 số
huyệt tương ứng với kinh nào đó nhằm hướng dẫn, như vậy kết quả mới nhanh.
• Nếu đầu thống, đầu chống váng, gia thêm Bách hội, Phong phủ, Đầu duy, châm
cạn 3 phân, theo phép bình bổ bình tả.
• Nếu mắt bị đỏ, bị mây che, gia thêm Tình minh, Tốn trúc, Ty trúc không, tất cả
sâu 1 phân, dùng phép tả, châm xuất huyết huyệt Thái dương.
• Nếu bị Ty uyên, Ty dưỡng (ngứa, chảy nước mũi), gia thêm Phương tinh,
Nghênh hương, Hoà liêu, đều sâu 3 phân, tiên bổ hậu tả.
• Tai kêu, tai điếc, gia thêm Ế phong, Nhĩ mơn, Thính cung, đều sâu từ 3 5 phân,
tiền bổ hậu tả, lưu kim 10 phút.
• Miệng hơi, mặt lưỡi bị nứt, gia thêm Thủy câu, Lao cung, đều sâu 3 phân, đắc khí
thì rút kim, bình bổ bình tả.
• Yết hầu bị sưng đau, miệng hôi, lưỡi nứt, gia thêm Ngư tế, Giáp xa, Xích trạch,
đều sâu 3 phân, dùng phép tả, châm thêm Thiếu thương xuất huyết, châm Lao
cung, sâu 2 phân, tả.
• Nếu răng sưng, răng nhức, gia thêm Hạ quan, Thửa tương, sâu 3 phân, dùng phép
tả.
• Mắt và miệng bị méo, gia thêm Địa thương, Giáp xa, Quyền liêu, méo về phải
châm trái, méo về trái châm phải, sâu 5 phân, cứu 3 tráng.


f) Giải phương: huyệt Khúc trì chỉ có chạy đi mà khơng giữ một chố, Hơp cốc có
thể thăng và có thể tán, huyệt Ngoại quan là huyệt lạc của kinh Thủ Thiếu dương,

là 1 trong bát mạch giao hội, nó lại thơng với Dương duy mạch, cùng làm biểu lý,
có thể làm thanh nhiệt, tán tà. Phối cả 3 huyệt này có thể làm thanh Thương tiêu,
khai khiếu. Phàm khi nào ta bẩm thu được khí thanh Dương, nó đều đi lên đến các
khiếu trên đầu và mặt. Nếu một ngày nào đó bị cảm bởi tà khí của Phong Hàn Thử
Thấp, các không khiếu bị uất trệ bế tắc, kinh khí bị trở ngại thì các chứng bệnh sẽ
xảy ra. Vì thế khi châm huyệt Khúc trì, Hợp cốc thì khí sẽ lên trên, châm Ngoại
quan thì thơng kinh lạc, đạt biểu lý, khí sẽ thơng lên đến Thượng tiểu và các khơng
khiếu trên đầu và mặt, nó sẽ làm thanh Phong, tán Nhiệt, quét sạch mọi tà khí.
Khi châm thêm huyệt Bách hội, Phong phủ, Đầu duy là nhằm làm cho thanh tĩnh,
thần khí, tiết tả Hỏa khí, đuổi Phong khí, dứt đau nhức; châm thêm huyệt Tình
minh, Tồn trục, Ty trúc khơng có thể đuổi Phong, tiết tả Hoả khí, làm cho mắt
được sáng; châm huyệt Thái dương xuất huyết sẽ làm tăng thêm việc thanh Nhiệt,
sáng mắt; châm thêm Thượng tinh, Nghênh hương, Hoà liêu sẽ làm thanh Nhiệt,
khai khiếu, thông mũi, làm ngưng chảy nước mũi, châm thêm huyệt Ù phong,
Thính hội, Nhĩ mơn, Thính cung, có thể làm sơ thơng được khí, đuổi Phong Hỏa,
thượng khiếu được khai, tai được thông; châm thêm huyệt Lao cung, Thủy câu là
làm thanh được Tâm Hoả, tiêu được nội nhiệt, an được thần khí, hồ được vị khí;
châm thêm huyệt Ngư tế, Giáp xa, Xích trạch sẽ làm tiết tà được phế khí giáng
được nghịch khí, thông yết hầu; châm thêm huyệt Thiếu thương sẽ làm sơ tả được
khí xung nghịch Hoả độc của 12 kinh, thanh Phế, thông cổ họng; châm thêm huyệt
Hạ quan, Thừa tương là tả được Hoả khí của Đởm và Vị, làm sơ thông Phong tà và
tiêu được việc sưng thũng; châm thêm huyệt Địa thương, Giáp xa, Quyền liêu sẽ
đuổi Phong, lợi khí, khai được quan tiết, thơng được lạc mạch, làm cho miệng và
mắt được ngay trở lại.
g) Ghi chú: nhóm huyệt này nhằm trị đầu và mặt, trị những chứng: “thực” thuộc
ngũ quan rất hay.
NHÓM THỨ 3
a) Phối huyệt: Hợp cốc, Phục lưu
b) Hiệu năng: điều hoà doanh vệ, ôn Dương cổ biểu
c) Chủ trị: tự hạn, đạo hạn (mồ hôi trộm), ra nhiều mồ hôi, bị vong Dương; Bụng

bị trướng, thủy thũng, ruột sôi, thân thể nhiệt mà không mồ hôi, 6 mạch đều vi tế
hoặc mạch phục khó ứng tới đầu ngón tay.
d) Phép châm và cứu: châm Hợp cốc làm ngưng mồ hôi, sâu 8 phân, châm tả, hoặc
làm ra mồ hôi, sâu 5 phân, châm bổ, cứu 3 tráng. Châm Phục lưu làm ngưng mồ
hôi sâu 3 phân, châm bổ, hoặc làm ra mồ hôi sâu 5 phân, châm tả.
e) Giải phương: Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Thủ Dương minh, có thể thăng,
có thể giáng, làm điều hồ Âm Dương. Phục lưu là huyệt Kinh của kinh Túc Thiếu
âm, có thể làm sơ thơng và điều hồ huyền phủ (lổ mồ hơi), tư Âm cho Thận và
đuổi được Thấp tà. Hai huyệt này phối nhau sẽ làm cho doanh vệ được hoà làm dứt
được tư hạn, làm cho Âm Dương điều hoà và dứt được đạo hạn. Nếu tà khí xâm


nhập vào khí doanh vệ, đến nỗi là cho khí doanh vệ bị thực, tấu lý không khai để
rồi uất bế phát nhiệt làm cho không ra được mồ hôi và đuổi được tà.
Nói tóm lại, 2 huyệt này có khả năng làm sơ thơng lại có thể làm dừng lại đối với
mồ hôi ta gọi đây là phép “dị bệnh đông trị”.
f) Phụ lục: những người thầy châm cứu đều biết rằng đối với việc dùng châm cứu
để trị mồ hơi là đã được người xưa nói rất nhiều. Tuy nhiên, trong khi dùng 2 huyệt
Phục lưu và Hợp cốc trong việc vừa làm ngưng vừa làm chảy mồ hơi ít được giải
thích cặn kẽ. Do đó, qua thực tiễn lâm sàng, tôi đã suy nghĩ rất nhiều, nay xin trình
bày như dưới đây:
Hạn là chất “dịch” của Tâm, trong lúc đó Thận chủ về ngũ dịch, đó là cái lý thông
thương ai cũng biết. Một vấn đề được đặt ra: tại sao Phục lưu thuộc Thận kinh,
Hợp cốc thuộc Đại trường kinh, cả 2 lại có thể làm ngưng mồ hơi lại có thể làm
chảy mồ hơi?
Nói 1 cách tổng qt thì:
• Tự hạn phần lớn là do Dương khí bị hư tổn, khơng giữ bên ngồi được vững
chắc, doanh vệ bị mất đi sự điều hồ.
• Đạo hạn phần lớn do ở Âm hư nội nhiệt, mất đi khả năng liễm tàng mà ra.
• Hạn bị bế phần lớn do tà khí của Phong Hàn làm bế tắc, trở ngại các mao Thiếu

mà ra. Chúng ta có thể cùng sử dụng 2 huyệt để vừa làm ngưng mồ hội, vừa làm
chảy mồ hôi
h) Chỉ hãn (làm ngưng mồ hôi): châm bổ Phục lưu và châm tả Hợp cốc. Phục lưu
làm ôn và bổ Thận Dương. Thận Dương là nơi lãnh đạo chung Dương khí của tồn
thân con người, nó đóng vai trị bảo vệ bên ngồi để ngăn chặn tà khí. Thận và
bàng quang cũng làm biểu lý nhau, bàng quang thuộc Thái dương Hàn Thuỷ, khi
Thận Dương sung túc, nó sẽ làm ấm và chưng cất Hàn Thuỷ làm cho khí của Bàng
quang hố lên, thăng lên trên, đạt ra đến khắp chu thân, làm Tỳ Thổ vận hành rất
“kiện”, đưa khí “tinh vi” lên để phụng Tâm để hoá thành huyết. Như vậy là Tâm
thần được “phụng dưỡng”, tân dịch sẽ được làm tròn vai trị của mình. Chúng ta lại
châm tả Hợp cốc, huyệt Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Điều trường, có thể
làm “thanh” được nhiệt khí của Dương minh được “thanh sướng”. Vả lại, Phế và
Đại trường cùng làm biểu lý cho nhau, Phế chủ bì mao, chủ về “khí” trong tồn
thân. Vậy, khi nào khí của phủ (Đại trường) của nó được điều hồ thì Phế tự nhiên
được thanh và giáng xuống, trăm mạch được hoà sướng, doanh vệ được điều hồ,
tấu lý sẽ được vững và kín, tà khí không tấn công được nữa, mồ hôi làm sao không
dứt? Đây là trường hợp Dương hư mà thành chứng tự hạn. Riêng huyệt Phục lưu
nếu châm mà thêm cứu nữa đó là bổ Thận Dương, cịn nếu châm mà khơng cứu đó
là “tư” Thận Âm, Thận Âm được sung túc, nó sẽ làm cơng việc tư Âm giáng hoả.
Khi hư Hoả bị hạ và đó là “tư Thận Âm”, Thận Âm được sung túc, nó sẽ “tư Âm
giáng Hoả”. Khi hư Hoả bị hạ và khi phù Dương đã quy về căn, đương nhiên hoả ở
Tâm sẽ được an. Châm Hợp cốc với vai trị “tả”, đó là làm cho khí Dương minh
được sơ sướng, do đó mà Hoả cũng giáng xuống theo. Nội kinh nói: “Âm bình
Dương bí, tinh thần được an”. Trên là cái lý giải thích tại sao châm Phục lưu và
Hợp cốc mà ngưng được đạo hạn.
i) Phát hạn (làm cho ra mồ hôi): châm tả Phục lưu và châm bổ Hợp cốc.


Khi châm bổ Hợp cốc vừa có thể điều hồ bên trong lại vừa có thể khai mở được
bên ngồi. Bên trong nó làm khai thơng kinh khí của Dương minh, Phế khí được

tiêu giáng, Tam tiêu được thơng sướng, tân dịch vận hành, như vậy là Vị khí được
hồ, bên trong sẽ được an và tà khí bị đuổi đi... Đối với bên ngoài, huyệt Hợp cốc
thiên về Dương, mà khí Dương thì nhẹ, trong, đi lên và đi ra ngồi, nó sẽ làm tán
được tà khí đang làm uất ở phần vệ. Trong khi Dương khí ra ngồi, nó sẽ áp bức tà
khí ra ngồi như vậy là tà chinh tranh nhau làm cho mồ hơi phải thốt ra, vì thế
xem việc châm Hợp cốc ở đây đóng vai trò “quân”.
Khi châm tả Phục lưu là nhằm “tả” cho Hợp cốc, nó sẽ làm sơ thơng và điều hồ
huyền phủ (lổ mồ hơi), tăng thêm sức mạnh bên trong, ngồi ra nó cịn làm cơng
việc “tư” cho Âm của Thận, làm sung cho cái “nguồn” của mồ hôi, phù chính khí,
đuổi tà khí. Như vậy là Phục lưu đóng vai trị “thần”,: “qn” và thần hợp sức nhau
làm sao tà khí chống lại nổi? Làm sao mồ hơi khơng ra? Khi mồ hơi ra, tức là tà
khí bị đuổi, bệnh sẽ khỏi. Câu “dị bệnh đồng trị” chứng tỏ sự áo diện của phép
châm cứu trị liệu, mong quý vị học giả để tâm nghiên cứu sâu hơn.
NHÓM THỨ 4
a) Phối huyệt: Bách hội, Nhân trung, Phong phủ
b) Hiệu năng: khai quan tiết, giảm cấm khẩu, thông dương, an thần
c) Chủ trị: mọi chứng thuộc mê man, hôn quyết
d) Phép châm và cứu: châm Nhân trung 5 phân, hướng mũi kim về phía mũi và sau
đó về phía môi, dùng phép bổ; châm Bách hội, sâu 3 phân, bổ, trước hết bổ theo
phép “cửu Dương” (ngón cái hướng về phía trước xoay kim 9 lần), lúc rút kim ra
thì tả nhẹ, tức là xoay kim về phía hữu. Sau khi châm, cứu 3 tráng; châm Phong
thủ, sâu 5 phân, tả, không lưu kim, cấm cứu.
e) Giải phương: Bách hội là hội huyệt của Đốc mạch và các kinh của Thủ, Túc
Tam Dương, nó lại là hội của mạch Túc Quyết âm Can, lại là hội huyệt của Thủ
Túc Dương minh kinh. Châm huyệt này sẽ làm cho thông Dương, an thần, làm
thanh tĩnh đầu nấc.
Nhân trung là giao hội huyệt của Đốc mạch và Thủ Túc Dương minh kinh. Đốc
mạch là biến của các kinh Dương, kinh Dương minh là 1 kinh đa khí vừa đa huyết.
Châm huyệt này theo phép tả là làm thông tiết Đốc mạch, thanh lý tà nhiệt hữu dư
ở nơi kinh Dương minh, nó sẽ làm nhiệm vụ khai chiếu, cứu cấp, điều hoà Âm

Dương.
Phong phủ là giao hội huyệt của Túc Thái dương kinh, Dương duy mạch, và Đốc
mạch. Châm huyệt này sẽ xua đuổi được Phong tà ở não phủ, điều hoà Âm Dương.
Nếu phối châm 3 huyệt này sẽ làm cho quan tiết và các khiếu khai ra tức khắc,
người bệnh sẽ hồi tỉnh, nói năng như cũ, chuyển nguy thành an. Nhóm huyệt này
trở thành 1 trong những yếu phương của phép châm cứu trị liệu, có khả năng “cải
tử hồi sinh” 1 cách kỳ diệu.
f) Ghi chú: đây là nhóm huyệt có nhiệm vụ cấp cứu, cũng là phương huyệt trị về
“tiêu” mà thổi. Nếu muốn trị bản, phải tùy theo nguyên nhân gây bệnh và tùy
chứng mà gia giảm. Ví dụ gặp bệnh Hàn, nên châm cho ôn, cho thông Dương khí,


nếu gặp Nhiệt, nên tả Hoả, tư Âm, nếu nhiều đàm, phải tiêu đàm giáng khí, nếu khí
bị quyết, nên châm để thanh lý khí và giải uất…
NHĨM THỨ 5
a) Phối huyệt: Kiên ngung, Khúc trì
b) Hiệu năng: sơ thơng khí huyết, khu phong thấp
c) Chủ trị: phàm các chứng thuộc tà khí ở khách tại kinh lạc, khí huyết bị trở trệ
như trung Phong bị bất toại, bị tý, từ nửa người và từ thượng chi trở lên.
d) Phép châm và cứu: châm Kiên ngung hay ở chỗ lưu châm, sâu từ 5 phân đến 1
thốn, bình bổ tả. Khi châm vào nên vê kim, khi nào đắc khí thì áp dụng phép tả,
lưu kim 15 đến 20 phút. Sau khi châm, nên cứu từ 3 đến 5 tráng.
e) Phép gia giảm:
• Nếu tay và cánh tay bị đau buốt nặng, châm thêm Hợp cốc 5 phân, châm Thủ
Tam lý 5 phân, đều châm tả.
• Nếu ngón tay bị co giật, châm thêm Dương cốc 3 phân, Hợp cốc 5 phân, dùng cả
bổ lẫn tả.
• Nếu cánh tay khơng đưa lên cao được, châm thêm Cự cốt 5 phân, châm Tý não 5
phân, đều châm tả.
• Nếu các ngón tay bị liệt không dùng được, châm thêm Bát tà 3 phân, cứu 5 tráng,

bình bổ bình tả.
f) Giải phương: nhóm huyệt này đều thuộc Thủ Dương minh Đại trường kinh Phế
và Đại trường đều là biểu lý nhau, vì thế nó chẳng những trị được những bệnh
thuộc Kinh Dương minh, ngồi ra nó cịn điều lý 1 cách tuyệt vời về Phế khí.
Châm Kiên ngung làm sơ thơng huyết khí, tán Phong, đuổi Thấp, tả được Hoả
trong khí của Dương minh. Châm Khúc trì sẽ tun khí hành huyết, đuổi Phong trừ
Thấp, thông lợi quan tiết. Phối cả hai huyệt sẽ làm hành khí, hồ huyết. Khi khí
huyết được hồ, kinh lạc được thơng, ứ trệ bị đuổi, Phong Thấp sẽ bị trục ra. Kết
quả quý như vàng ngọc, đúng với câu “một khiếu được thơng thì trăm khiếu cũng
sẽ thông”. Huyệt Thủ Tam lý và Hợp cốc tăng cường việc đuổi Phong, thông lạc,
dứt được chứng tý thống. Huyệt Dương cốc làm tan Hàn khí ở Thái dương kinh, sơ
thơng khí huyết. Huyệt Cự cốt là huyệt hội của Thủ Dương minh Đại trường và
Dương kiểu mạch, có khả năng làm thư sướng kinh lạc, thông lợi quan tiết. Huyệt
Tý nao làm tăng cường thư cân hoạt lạc. Huyệt Bát tà la thư sướng lạc mạch, làm
lợi quan tiết, trị được các chứng nuy, phế (tàn phế).
g) Ghi chú: nhóm huyệt này có khả năng trị các chứng đau nhức ở vùng thượng
chi. Đối với các chứng “ngoan cố”, việc châm phải mạnh hơn, nếu không hiệu quả
sẽ kém. Đối với chứng đau yết hầu như có cái gì cứng chặn lại, nó có 1 kết quả
nhất định.
NHĨM THỨ 6
a) Phối huyệt: Hoàn khiêu, Phong thị, Dương Lăng tuyền
b) Hiệu năng: làm sơ thông, tuyên tán, trừ dược Phong, Thấp, tý, thống, thư cân,


lợi tiết.
c) Chủ trị: trúng phong, bán thân bất toại, tê khơng cịn cảm giác, co giật gân, liệt
thuộc vùng hạ chi.
d) Phép châm và cứu: châm Hoàn khiêu, mũi kim hướng xuống dưới, châm thẳng
sâu 1 thốn, 5 phân cho đến 2 thốn, lưu kim 15 phút, châm Phong thị sâu 8 phân;
châm Dương Lăng tuyền hướng vào phía tất nhãn sâu 1 thốn; tất cả đều châm vê

kim, tiên bổ hậu tả. Nếu bệnh thuộc thực chứng trì tiên tả hậu bổ, khi rút kim ra
cứu 3 đến 5 tráng.
e) Giải Phương: Hoàn khiêu là hội huyệt của Túc Thiếu dương Đởm kinh và Túc
Thái dương Bàng quang kinh, có khả năng trừ được chứng tỳ, Phong và Thấp;
huyệt Phong thị cũng đuổi Phong trừ Thấp, cả 2 huyệt đều trị được những chứng
nuy, tý thuộc hạ chi. Dương Lăng tuyền là huyệt Hợp của Túc Thiếu dương Đởm
kinh là nơi hội của “cần trong tồn thân”, vì thế châm nó sẽ làm cho thư cân hoạt
lạc, thơng lợi quan tiết, cũng là huyệt thường dùng để trị bệnh thuộc Can và Đởm.
3 huyệt trên phối nhau sẽ chữa được các chứng bệnh về nuy và tý, nhất là đối với
các bệnh ở thắt lưng, hông sườn và hạ chi.
NHĨM THỨ 7
a) Phối huyệt: Khúc trì, Uỷ trung, Hạ liêm
b) Hiệu năng: thơng Dương khí, tán Thấp khí, đuổi Phong khí, Hàn khí, sơ thơng
kinh lạc, tả Nhiệt khí, dứt đau.
c) Chủ trị: trị các chứng tý thuộc Phong, Hàn, Thấp, Nhiệt.
d) Phép châm và cứu: châm Ủy trung, châm thẳng sâu 1 thốn đến 1 thốn rưỡi, tả;
châm Khúc trì sâu 8 phân đến 1 thốn, tiên tả hậu bổ, cứu từ 3 đến 5 tráng; châm Hạ
liêm, thẳng sâu 5 phân, cả bổ lẫn tả.
Các chứng thống, tý châm tả huyệt Ủy trung là chủ. Các chứng hành tý châm tả
huyệt Khúc trì là chủ, tiên tả hậu bổ, thêm Hạ liêm.
e) Phép gia giảm: nếu thượng chi bị đau nhức nặng châm thêm Kiên ngung, Khúc
trì, Hợp cốc. Nếu hạ chi đau nhức nặng châm thêm Hoàn khiêu, Phong thị, Dương
Lăng tuyền. Nếu đau nhức từ cánh tay đến các đốt ngón tay, châm thêm Bát phong,
Bát tà, đều sâu 3 phân, dùng phép tả.
d) Giải phương: châm 3 huyệt này sẽ làm cho mạch khí đi từ biểu nhập vào lý, làm
thơng được khí bị trệ, bị mãn, thông kinh lạc, đuổi được 4 khí Phong, Nhiệt, Thấp,
Hàn, giải được chứng tý.
NHĨM THỨ 8
a) Phối huyệt: Khúc trì, Dương lăng tuyền.
b) Hiệu năng: hành khí huyết, thơng kinh lạc, thư cân, lợi quan tiết.

c) Chủ trị: ngực và hông sườn bị đau, bụng trướng, tiểu tiện đục do nhiệt kế ở
Trường Vị, chi dưới và chi trên bị tê, bất toại…
d) Phép châm và cứu: châm nhóm huyệt này đều sâu 5 phân, bình bổ tả, lưu kim 15
phút, cứu 3 tráng.
e) Phép gia giảm: nếu tiểu tiện bị đục, châm thêm Quan nguyên sâu 3 phân; nếu


thượng chi bị tê, châm thêm Kiên ngung sâu 5 phân; nếu hạ chi bị tê, châm thêm
Hoàn khiêu sâu 1 thốn 5 phân, tùy theo tình hình mà bổ tả.
f) Giải phương: châm Khúc trì làm hành khí, hồ huyết, thanh Phế giải biểu; châm
Dương Lăng tuyền là để tả Can và Đởm, bình được uất nhiệt. Phế chủ khí của tồn
thân, Can chủ cân của tồn thân. Nếu Phế khí được thanh, khí huyết được lưu
hành, Can khí được thư thả thì cân mạch sẽ được dưỡng, như vậy chứng tê và đau
hông sườn sẽ đứt. Huống chi vị trí của 2 huyệt này lại nằm ở chỗ quan yếu của “tứ
đại quan tiết” thuộc thượng hạ chi, nó có khả năng tun thơng giáng khí, sơ thơng,
tiết cả...
NHĨM THỨ 9
a) Phối huyệt: Khúc trì, Tam Âm giao
b) Hiệu năng: thanh nhiệt, mát huyết, đuổi ứ huyết sinh tân huyết.
c) Chủ trị: phụ nữ bế kinh, băng lậu đái hạ, tích tụ loét độc, các chứng sưng thũng,
đau nhức, co giật...
d) Phép châm và cứu: châm Khúc trì sâu 5 phân đến 1 thốn; châm Tam Âm giao
sâu 5 phân, cả 2 đều tiên tả hậu bổ, lưu kim 10 phút, cứu 3 tráng.
e) Phép gia giảm: nếu bị bế kinh không thông, châm thêm Huyết hải sâu 1 thốn, tả,
sau khi rút kim cứu 3 tráng. Nếu bị tích tụ châm thêm Can du sâu 3 phân, châm
Dương Lăng tuyền sâu 1 thốn, tả. Nếu bị đái hạ, châm thêm Tỳ du sâu 3 phân, bổ,
cứu 3 tráng.
f) Giải phương: nhóm huyệt này gồm 2 huyệt, một thuộc Âm kinh, một thuộc kinh
Dương, thông bên trong, đạt đến bên ngồi, hài hồ Âm Dương; châm Khúc trì là
để thanh nhiệt, giải độc, đuổi Phong, lợi Thấp; châm Tam Âm giao vì huyệt này là

cái then chốt của Túc Tam Âm kinh, là 1 yếu huyệt trị về huyết chứng. Châm 2
huyệt này sẽ làm cho ứ huyệt tự tán, huyết tự hoà, tà nhiệt tán, chứng băng lậu
ngừng, kinh bế tự thông. Nếu chúng ta “tư” Thân Âm thì thủy sẽ ni được Mộc.
Can chủ về sơ tiết, Tỳ chủ về vân hoá. Nếu Can và Tỳ được hồ thì các chứng tích
tụ, co giật sẽ khỏi. Đối với vấn đề loét độc, sưng thũng đó là huyết phân thọ tà, khi
đã điều được khí, đã thơng được ứ thì nhiệt sẽ tán, việc sưng thũng sẽ tiêu. Huyệt
Huyết hải có khả năng hồ huyết, hố ứ, huyệt Can du và Dương Lăng tuyền tăng
cường cho việc hồ Can khí, huyệt Tỳ du làm kiên Tỳ lợi Thấp, khi mà Tỳ vận
hành được kiện thì đái hạ sẽ tự ngưng.
NHÓM THỨ 10
a) Phối huyệt: Túc Tam lý, Tam Âm giao
b) Hiệu năng: ích khí, dưỡng Âm, kiện Tỳ bổ hư
c) Chủ trị: Tỳ Vị hư hàn, ăn khơng biết ngon, ăn khơng tiêu, hình thể gầy yếu,
thường hay ẩu hoặc tả, hoặc “ngũ canh tiết tả”, chân bị tê khơng có cảm giác, đau
nhức, bụng bị đau...
d) Phép châm và cứu: châm Túc Tam lý sâu 5 phân, sau khi rút kim cứu 7 tráng;
châm Tam Âm giao sâu 5 phân, mũi kim hướng lên trên, sau khi rút kim cứu 3 đến


5 tráng, đều dùng phép tả, sau khi đắc khí lưu kim 10 phút.
e) Giải phương: Túc Tam lý là huyệt Hợp của Túc Dương minh Vị kinh, có thể
thăng Dương ích Vị, ơn trung, tán Hàn. Huyệt Tam Âm giao là hội huyệt của Túc
Thái âm Tỳ kinh, Túc Quyết âm Can kinh và Túc Thiếu âm Thân kinh, nó có khả
năng tư Âm kiện. Tỳ, hoạt huyết khử ứ. Vả lại, Vị chủ về thọ nạp cốc khí, Tỳ chủ
về vận hoá. 2 huyệt này nếu phối nhau sẽ làm khởi phát được Dương khí của
Trung tiêu, kiện Tỳ, tưới thắm Âm dịch, làm sung cho Vị dịch.
Khi mà khí huyết được điều hồ, kinh mạch được thơng sướng, Tỳ Vị được kiện
thì việc ăn uống sẽ tăng lên và khi mà cái nguồn sinh hoá được sung túc thì tà khí
khơng thể tấn cơng được. Nhóm huyệt này chuyên để chữa cho những chứng bệnh
thuộc hư tổn, các nhà dưỡng sinh trân trọng.

Tuy nhiên, bệnh nào đó phải được chữa bằng phương nào đó, gia giảm cho đúng
cách, kết quả sẽ rất tuyệt vời.
NHÓM THỨ 11
a) Phối huyệt: Dương Lăng tuyền, Túc Tam lý
b) Hiệu năng: điều hoà Can và Tỳ, thư Can kiện Tỳ
c) Chủ trị: trị các chứng do Can và Tỳ bất hoà như “trung tiểu”, “đình ẩm”, tích trệ,
nuốt nước chua, miệng đắng, tiêu chảy, ẩu thổ…
d) Phép châm và cứu: Cả 2 huyệt này đều châm tả, không cứu, lưu kim 10 phút.
e) Phép gia giảm: nếu miệng đắng, nuốt nước chua nặng, châm thêm Can du, Đởm
du, sâu 3 phân, tả, nếu ẩu thổ châm thêm Nội quan, sâu 5 phân, tả.
f) Giải phương: Túc Tam lý là Hợp huyệt của kinh Túc Dương minh, thuộc Thổ
trong Thổ. Khi châm tả Túc Tam lý là để làm sơ tiết trọc khí trong Vị, làm thơng
Dương khí trong Vị, làm cho trọc Âm phải giáng xuống và thanh Dương được sinh
ra. Dương Lăng tuyền là huyệt quan trọng của Túc Thiếu dương kinh, châm tả sẽ
làm “thanh” được nhiệt khí của Đởm kinh, sẽ “bình” được hồnh nghịch của Can
Mộc, từ đó giáng được khí đang thượng nghịch. Can thuộc Ất Mộc, đởm thuộc
Giáp Mộc, đây là chúng ta đã làm cho Mộc hố được Thổ. Can và Vị được hồ, Tỳ
và Vị được kiện, bệnh sẽ được khỏi.
NHÓM THỨ 12
a) Phối huyệt: Hợp cốc, Thái xung
b) Hiệu năng: mở rộng và vận hành khí huyết, trấn Can, trừ Phong.
c) Các chứng: cuồng điên, đầu thống, choáng váng, mắt đỏ, sưng thũng đau…
d) Phép châm và cứu: châm Thái xung sâu 3 phân; châm Hợp cốc sâu 5 phân; nếu
thể trạng người bệnh bị hư thì tiên bổ hậu tả; nếu thực thì tiên tả hậu bổ. Khi nhiệt
thịnh thì dùng phép tả, khơng lưu kim, khơng cứu, nếu hàn thì lưu kim.
e) Phép gia giảm: nếu có thêm đàm phối với Phong long, sâu 5 phân, bình bổ bình
tả, Dương Lăng tuyền sâu 5 phân, tả. Nếu bị chứng, “thiên phong” thì châm thêm
Thần mơn, Bách hội, đều sâu 2 phân, tả Thần môn, bổ Hợp cốc.
f) Giải phương: Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Thủ Dương minh. Thái xung là



Du huyệt của kinh Túc Quyết âm, Cả 2 huyệt đều nằm chỗ vùng gối và khuỷ tay,
nơi quan trọng trong người. Tuy nhiên, công năng của chúng lại khác nhau: Hợp
cốc chủ về khí, Thái xung chủ về huyết. Do đó, Hợp cốc có cơng năng điều khí,
phát hạn giải biểu, đuổi Phong trần thống; Thái xung lại có công năng điều huyết,
khai lợi quan tiết, đuổi Phong trấn áp được nỗi lo sợ, trừ đau nhức, dẫn khí hạ
hành. Phối cả 2 huyệt sẽ điều được khí huyết, hồ được Âm Dương, trừ Phong,
bình Can khí. Châm thêm Phong long, Dương Lăng tuyền sẽ trừ đàm, tiết Hoả
châm thêm Bách hội, Thần môn sẽ làm an thần, bớt lo sợ…
g) Ghi chú: nhóm huyệt này trị những chứng điên giản quá thực rất có kết quả, khi
châm thêm Thần môn, Bách hội sẽ trị được chứng ngũ giản. Nhóm này chính là
nhóm mà Châm cứu đại thành gọi là “Tứ quan huyết”…
NHÓM THỨ 13
a) Phối huyệt: Dương Lăng tuyền, Phong long, Chi câu
b) Hiệu năng: Thư Can hoá đàm tả nhiệt thông tiện
c) Phép Châm và cứu: các huyệt trên đều châm sâu từ 5 phân đến 1 thốn, đều tả,
không cứu, lưu kim 5 phút.
d) Phép gia và giảm: nếu là chứng đại tiện bí kết nặng châm thêm Đại hoành, sâu 5
phân tả, châm Đại trường du 3 phân, tả.
e) Giải phương: Phong long là huyệt lạc của Túc dương minh vị kinh, liên lạc đặc
biệt với Túc Thái âm tỳ, có thể giáng tức là đi xuống dưới để hợp với túc thái âm
kinh, khi nó có được khí của Thái âm thấp thổ, nó sẽ làm cho nhuận trường để
thông xuống dưới. Dương Lăng tuyền là huyệt Hợp thuộc Thổ của kinh Túc thiếu
dương, tính của nó là trầm giáng, là thư giải được khí của Can và Đởm, đặc biệt là
châm xuyên qua đến huyệt Túc Tam lý, nó sẽ đóng vai trị dùng Mộc để sơ thông
được Thổ. Huyệt Chi câu là huyệt của kinh Thủ thiếu dương Tam tiêu, nó làm
thanh được khí tam tiêu, tức là thơng được khí ở phủ, làm giáng nghịch hoả đó là ý
nghĩa của câu nói “khí tam tiêu được thơng thì tân dịch được hạ, vị khí nhờ đó mà
được hồ”. Ba huyệt này phối với nhau có sự thừa khí lẫn nhau, là một phối hợp
huyệt làm được hạ khí một cách hồ hỗn. Nếu châm thêm đại hồnh, đại trường

du sẽ tăng thêm cơng năng “Đại thừa khí”.
Ghi chú: ba huyệt này được phối với nhau khơng những có kết quả tốt với thực
chứng của phủ, ngoài ra các bệnh chứng đưa tới do đàm hoả như điên cuồng, lỗi
nghịch, quai bị, cao huyết áp... cũng rất có kết quả. Các học giả nên nghiên cứu
thêm, nhóm huyệt này khơng những có tác dụng của “thừa khí” ngồi ra cịn có
hiệu quả làm thay đổi vai trị của thang “ơn đởm trường” và “cồn đàm hồn”...
NHĨM THỨ 14
a) Phối huyệt: Khí hải, Thiên khu
b) Hiệu năng: bổ thận, tráng dương, sơ thông Đại tiểu trường, làm tiêu trệ khí.
c) Chủ trị: phúc thống, phúc trướng, trường minh, tiết tả quyết nghịch, thoát
dương, khí suyễn, thất tinh, âm súc, tiểu tiện bất lợi, phụ nhân chuyển bảo, nguyệt


kinh khơng đều, xích bạch đái…
d) Phép châm và cứu: ở người già, huyệt Khí hải khơng nên châm sâu hoặc không
nên châm, nên dùng ngải cứu của phép “Thái ất thần châm cứu” là ổn nhất. Khi
nào khí huyết hư, lấy việc châm bổ khí hải làm chủ, sâu 3 đến 5 phân, cứu 5 đến 7
tráng. Huyệt Thiên xu là nơi ở của hồn phách, thông thường không nên châm, nếu
như cần, có thể dùng hào châm, châm cạn nên cứu nhiều hơn.
e) Giải phương: khí hải là huyệt quan trọng của Nham mạch, là nơi phát ra mạch
khí của Nhâm mạch, là nơi gọi là “biển của sự sinh khí”, là nơi hội của khí huyết,
là gốc rễ của việc hô hấp, là: “phủ tàng tinh” cho nên nó được xem là huyệt quan
yếu của vùng hạ tiêu. Châm nên dùng phép bổ, bổ Mệnh môn, làm “ích” thêm cho
khí Nguyên dương, ví như thêm cũi dưới đáy nồi nước khơng bị suy, ngồi việc có
khả năng trị bệnh, nó cịn làm cho con người sống được lâu, kéo dài tuổi thọ huyệt
Thiên xu có nhiệm vụ làm phân lợi thủy cốc, hấp thu khí tinh vi, truyền hố cặn bã,
làm thanh khiết được các trọc khí…
Tóm lại, châm huyệt Khí hải là để làm phấn chấn Nguyên dương, làm tán được khí
Âm tà, đúng với câu nói: “Làm ích được cái nguồn của Hoả nhẫm đánh tan màn
Âm khí”. Huyệt trên phối với Thiên xu nhằm làm điều hồ khí của Trường Vị, làm

lợi được sự vận hành của nó. Đây là phối huyệt quan trọng trong việc trị các chứng
hư lao, thân thể suy nhược, tạng bị suy, trừ được tích hàn cố lãnh… Nó tương
đương với các phương “Thiên hùng tán, Thận khí hồn”…
NHĨM THỨ 15
a) Phối huyệt: Trung hoãn, Túc Tam lý
b) Hiệu năng: làm táo được Thấp khí, kiện Tỳ, làm thăng Dương và “ích” Vị.
c) Chủ trị: trị chứng hư hàn trong Vị, ăn uống khơng xuống, vùng hỗn phúc bị
trướng và thống bị tích tụ và đình đàm, đình thực, túc ẩm, bĩ khối, hoắc loạn…
d) Phép châm và cứu: châm Trung hoãn sâu 5 phân đến 1 thốn, cách 3 ngày tái
châm, thơng thường nên bình bổ bình tả. Châm Túc Tam lý sâu 5 phân đến 1 thốn,
hư bổ thực tả, sau khi châm xong, nên cứu cả 2 từ 3 đến 5 tráng. Nếu bị ẩu thổ và
phản Vị có thể tùy theo tình hình mà dùng phép tả.
e) Phép gia giảm: nếu vùng Thượng tiêu bị uất nhiệt, châm thêm Thông cốc (tả)
sâu 5 phân. Nếu tạng khí bị hư, châm bổ thêm Chương mơn sâu 3 phân. Trong
Trường Vị bị tích trệ, châm tả Đại trường du, sâu 3 phân, châm Thiên xu cạn, cứu
5 tráng, châm Tiểu trường du sâu 3 phân, tả, hoặc châm Thượng liêm sâu 5 phân,
tả. Nếu vùng Hạ nguyên bị hư hàn, châm bổ thêm Khí hải, sâu 3 phân, cùng cứu
như Thiên xu 5 tráng. Nếu bị nhiệt hoắc loạn, châm Ủy trung, Xích trạch xuất độc
huyết sau đó châm bổ thêm huyệt Trung hỗn.
f) Giải phương: huyệt Trung hoãn là hội huyệt của Nhâm mạch, với Túc Dương
minh Vị kinh, Thủ Thái dương Tiểu Trường kinh, Thủ Thiếu dương Tam tiêu kinh,
nó cũng là hội huyệt của lục phủ, là huyệt mơ của Vị. Vì thế chúng ta thủ huyệt
Trung hoãn làm “Quân” để thống trị các bệnh thuộc lục phủ. Khi gặp chứng hư,
nên dùng phép bổ, đó là làm cho tráng được trung khí. Khi châm tả huyệt Trung
hỗn là nhằm làm sơ thơng trệ khí, khi mà Vị khí giáng Tỳ khí thăng, khí tân dịch


sẽ dâng tràn lên trên, các chứng ẩu thổ… sẽ tự trừ.
Thủ huyệt Túc Tam lý đóng vai “thần và tá” chỉ vì nó có khả năng làm “thăng”
Dương khí, làm “ích” Vị khí, nó sẽ trợ cho Trung hỗn trong việc làm an Vị khí,

“ích” Tỳ khí. Châm tả Túc Tam lý sẽ làm giáng trọc khí, dẫn đạo trệ khí, nó sẽ “tá”
cho Trung hỗn để làm “lợi” cho sự vận hành. Hai huyệt hợp lại thành nhiệm vụ
của “qn thần”, trong lâm sàng, chúng có những cơng dụng xác thực.
Thủ huyệt Ủy trung, Xích trách xuất huyết là nhằm làm trừ khử được tà khí ơ uế
của thử khí, trừ được chứng hoắc loạn. Khi châm bổ Khí hải, Thiên xu là để làm
ấm vùng hạ nguyên, bổ Thận, kiện Tỳ. Châm tả Thông cốc là làm cường Tỳ kiện
Vị, bởi vì huyệt này là huyệt giao hội của kinh Túc thiếu âm Thận và Xung
mạch… Nếu châm tả có thể làm tiêu trướng, chỉ thống, định được ẩu thổ, trợ cho
Trung hoãn, làm lợi được sự vận hành. Khi bổ Chương môn sẽ làm tán được hàn
khí của ngũ tạng, vì nó là nơi hội của ngũ tạng. Châm tả Đại và Tiểu trường du là
để làm sơ điều Đại Tiểu trường, thơng khí, hố trệ.
g) Ghi chú: châm Ủy trung và Xích trạch để trị chứng nhiệt hoắc loạn quả thức co
những kết quả rất cao. Đây là kinh nghiệm mà tôi đã được thầy tơi truyền lại.
Trong 30 năm trời, tơi đã dùng nó để trị không biết bao nhiêu người khỏi bệnh.
Nhất là huyệt Xích trạch, có những trường hợp và châm kim xuống xong đã làm
cho chứng phiền Tâm dễ chịu ngay.
NHÓM THỨ 16
a) Phối huyệt: Nội quan, Tam Âm giao
b) Hiệu năng: làm khoan khối vùng ngực, làm lợi được khí ngăn vùng hoành
cách, tư Âm, dưỡng huyết.
c) Chủ trị: trị các chứng lao tổn, Âm hư, ví dụ như Vị bị chứng phát nhiệt, mồ hôi
trộm (đạo hạn) ho kha, thất huyết, sốt cao, mất ngủ, phụ nữ nguyệt kinh bị bế tắc,
nam tử bị di tinh, muốn ăn nhưng ăn không ngon, ngực đầy bụng trương, Tâm
hung phiền muộn…
d) Phép châm và cứu: châm Nội quan sâu từ 3 đến 5 phân, tiên bổ hậu tả, không
cứu. Châm Tam Âm giao sâu 5 đến 8 phân, tiên bổ hậu tả, sau khi châm, cứu 5
tráng, lưu kim 10 đến 12 phút.
e) Phép gia giảm: khi bị ho khan nặng, châm thêm Thái uyên, sâu 3 phân, bổ. Nếu
bị thất huyết châm thêm Cách du, sâu 2 phân, bổ. Nếu bị đạo hạn nặng châm thêm
Phục lưu sâu 3 phân, bổ. Hợp cốc sâu 8 phân tả. Nếu bị di tinh, châm thêm Thái

khê, sâu 3 phân, bổ, Thận du sâu 3 phân.
f) Giải phương: Nội quan là huyệt lạc của kinh Thủ Quyết âm Tâm bào lạc, tách
biệt đi theo kinh Thủ Thiếu dương Tam tiêu, nó lại là huyệt thuộc Âm duy trong
bát mạch. Âm mạch trong Thủ Túc Tam Âm kinh và Âm mạch trong kỳ kinh bát
mạch, tất cả đều phải lấy Âm duy mạch để làm vai trị quan hệ và duy trì nhau, nó
mang tác dụng trong việc trị liệu một cách chính thể. Các đường kinh của Thủ Tam
Âm đi từ ngực chạy ra đến tay, các đường kinh của Túc Tam Âm chân đến ngực.
Cho nên, Nội quan có thể trị được các tật bệnh thuộc vùng ngực và Tâm, ta gọi nó
là yếu huyệt của vùng Tâm ngực, nó có đặc tính làm thư thái vùng ngực, làm lợi


cho hồnh cách, hành khí tan uất. Phối nó với Tam Âm giao, chúng có thể tư Âm
dưỡng huyết, kiện Tỳ, ích Vị. Nó hợp lại sẽ làm giao tế được Thuỷ Hoả, bình hành
được Âm Dương. Huyệt Thái uyên là huyệt Nguyên của Phế, thuộc Thổ. Châm
Thái uyên là để bồi Thổ sinh Kim. Huyệt Cách du là hội huyệt của huyết, thống trị
mọi chứng về huyết trị về hạn. Các huyệt Thận du và Thái khê làm tư Âm bổ Thận.
g) Ghi chú: phép phối huyệt này có khả năng cao làm cho Thủy Hoả (Khảm Ly)
giao tế (ký tế). Các chứng về lao tổn, đa số là do ở cuộc sống túng dục làm thương
đến tinh khí, làm cho Thận tinh bị hư tổn: Thuỷ khơng cịn hàn (nuôi, sinh) Mộc,
tướng Hoả sẽ vọng động để viêm lên trên. Thế là Quân Hoả và Tướng Hỏa hợp lại
hình (phạt) Phế Kim. Khi Phế Kim bị đốt nóng, nó sẽ mất đi chức năng làm thanh
nhuận cho bên dưới. Thế là Kim khơng sinh được Thủy, do đó Thuỷ mất đi nguồn
cung cấp ở nguồn bên trên, dĩ nhiên vùng hạ lưu sẽ bị khơ kiệt. Nói khác đi, nếu
Khảm và Ly khơng cịn “tương tế” nhau nữa, Thủy Hoả khơng cịn “ký tế” nhau
nữa, tức là Khảm Thủy khơng cịn dâng tràn lên để chế Hoả, Ly Hỏa càng bừng lên
khơng cịn đi xuống để chứng Thủy, Âm Dương khơng cịn duy trì quan hệ với
nhau, như vậy là chứng Âm hư lao tổn sẽ thành.
Do đó, các chứng thượng thịnh, hạ hư, thượng nhiệt hạ hàn, đau nhức xương, thắt
lưng bị đau buốt, di tinh, sốt mất ngủ, mồ hôi trộm, ho khan tăng huyết, con gái bị
bế kinh, Tâm hồi hộp…Thủ Tam Âm giao để tư bổ Thận thủy; thủ Nội quan là để

bổ Tâm Âm và làm giáng Hoả. Tâm Thận được tương giao, quan hỏa giáng xuống,
tướng hoả tiềm phục, Phế kim được giải khốn; bệnh sẽ giảm dần. Vì thế 2 huyệt
này có khả năng làm Thuỷ Hoả giao tế, khi lâm sàng gặp bệnh, chúng ta sẽ tuỳ
theo chứng mà phối thêm huyệt khác, hiệu quả trị liệu sẽ rất cao, đặc biệt là các tật
bệnh thuộc phụ khoa.
NHÓM THỨ 17
a) Phối huyệt: Hợp cốc, Tam Âm giao
b) Hiệu năng: tư âm giáng hoả, dưỡng huyết thanh Can.
c) Chủ trị: các chứng Thận khí hư tổn ở người phụ nữ, nguyệt kinh không đều,
kinh bế bất thông huyết lâu, hoặc Âm hư hoả vượng, thương nhiệt hạ hàn, Dương
kháng Âm hư, đầu mắt choáng váng, ho và phát nhiệt, suyễn gấp, chảy mũi, lưng
hàn, chân lạnh. Nó cịn có thể làm hạ thai và bảo thai.
d) Phép châm và cứu: nếu thượng nhiệt hạ hàn châm Hợp cốc sâu 5 phân đến 1
thốn, tả, không lưu kim, không cứu; châm Tam Âm giao, sâu 3 đến 5 phân, bổ, lưu
kim 15 phút, sau khi rút kim cứu 3 đến 5 tráng. Nếu muốn bảo thai, châm tả Hợp
cốc, bổ Tam âm giao, muốn hạ thai châm bổ Hợp cốc, châm tả Tam Âm giao.
e) Phép gia giảm: khi kinh huyết không điều hoà châm Hợp cốc sâu từ 3 đến 5
phân, tiên bổ hậu tả; châm Tam Âm giao sâu 3 phân, bổ; châm thêm Huyết hải, sâu
5 phân, bổ; cứu Thiên xu 7 tráng, không châm. Nếu kinh huyết bế tắc không thông,
châm thêm Quan nguyên, Túc Tam lý, dùng phép châm hạ thai, bổ Hợp cốc, sâu 5
phân, trùng tả Túc Tam lý, sâu 1 thốn, bổ Quan nguyên, sâu 5 phân, tả Tam Âm
giao sâu 1 thốn.
f) Giải phương: Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Thủ Dương minh Đại trường là


nơi tập trung tinh hoa của khí huyết của bản kinh, có khả năng thăng, tán, thanh
nhiệt giải hàn. Tam Âm giao là cái chốt của 3 kinh Can Tỳ Thận, là hội huyệt của
Túc Tam âm kinh, cũng là nơi tụ hội của tạng phủ, khí huyết cân mạch, cốt, tủy…,
nó quan hệ bao trùm cả Âm Dương của Can, Thận, Tỳ. Nó có thể bổ Tỳ, có thể tư
Âm dưỡng huyết, cố Thận, thanh Can.

Vì thế huyệt Hợp cốc có nhiệm vụ thanh thơng vùng thượng, tức là thanh cái nhiệt
của Trung tiêu, Tam Âm giao có nhiệm vụ tư dưỡng vùng trung, tức là tư dương
cho Âm khí của Hạ tiêu. Vì thế nên các chứng Âm hư, Dương kháng, thượng nhiệt
hạ hàn đều có thể dùng phối huyệt này để trị.
g) Ghi chú: Châm tả Hợp cốc, châm bổ Tam Âm giao có khả năng hữu hiệu trong
việc bảo dưỡng an lành cho cái thai. Chủ yếu là dựa vào huyệt tính thanh nhiệt của
huyệt Hợp cốc và bổ Tỳ Thận của Tam Âm giao. Đại phàm những thai phụ trong
lúc sinh bị lậu hạ, hoạt thai vì thân thể suy nhược, đa số đều do Hoả thịnh Âm suy
làm cho huyết không làm nhiệm vụ dưỡng được thai nhi. Cổ nhân nói: “Thai đắc
lương thì an”.
Các nhà y học Đơng Phương phần lớn dùng Hồng cầm là vị thuốc chủ yếu trong
phép “an thai”, chính vì vị này có cơng dụng thanh nhiệt. Ngồi ra Tỳ là cái gốc
của hậu thiên, là cái nguồn của sinh hố, nó cịn có nhiệm vụ thống huyết, người
xưa còn dùng bạch truật là “tá”: Tỳ thổ được “kiện”, nội nhiệt được thanh thì thai
nhi được an. Do đó, tôi tham khảo vào phép này để thủ huyệt Hợp cốc trong vai trò
thanh nhiệt, thủ huyệt Tam Âm giao trong vai trò kiện Tỳ, bổ Thận, dưỡng huyết.
Lý do nào giải thích tại sao châm bổ Hợp cốc, châm tả Tam Âm giao lại là cho trụy
thai?
Vì Hợp cốc thăng được, tán được, chỉ có đi chứ khơng có giữ lại, căn cứ vào câu
nói “Thai đắc lương thì an”, ta biết rằng nếu châm bổ Hợp cốc thì nhiệt khí khơng
tán mà cũng khơng giáng, vì thế Phế mất đi vai trị thanh thơng của mình, Kim
khơng sinh Thủy làm cho Thận bị hư tổn. Riêng Tam Âm giao nếu bị trùng tả làm
cho cả 3 tạng Can, Tỳ, Thận đều hư. Huyết đã hư thì lấy gì để dưỡng thai? Tỳ hư
khơng cịn vận hố được nữa. Như vậy là hậu thiên khơng cịn được tư dưỡng,
Thận hư bị bế tàng, bào cung dĩ nhiên sẽ bị khô cạn, thương thịnh, hạ hư, Âm
Dương nghịch loạn, như vậy cái thai làm sao không “trụy” xuống cho được?
Một điều đáng chú ý là trong lúc lâm sàng trị liệu, phép châm “an thai” hay “trụy
thai” đòi hỏi người châm phải có 1 kỹ thuật điêu luyện, thuần thục, người sơ học,
chớ nên vọng động.
NHÓM THỨ 18

a) Phối huyệt: Hợp cốc, Túc Tam lý
b) Hiệu năng: thăng dương ích khí, kiện Tỳ hồ Vị, tuyển được khí ở phủ, vận
hành trệ khí, tiêu trừ trướng khí.
c) Chủ trị: thanh dương hạ hãm, Vị khí hư nhược, cơm khơng ngon, khí thấp nhiệt
làm ủng tích, khí uế trọc làm trệ ở Trung tiêu, ăn uống không tiêu, phúc trướng,
ợ…
d) Phép châm và cứu: châm Hợp cốc 3 phân, bổ Châm Túc Tam lý sâu 5 phân, tiên


bổ hậu tả, tất cả đều lưu kim 10 phút, sau khi châm cứu 5 tráng. Nếu người bệnh bị
hư, mạch hãm xuống, nên bổ Túc Tam lý, còn muốn giáng trọc khí, châm tả Túc
Tam lý.
e) Giải phương: đây là 2 huyệt quan trọng của 2 kinh Thu và Túc Dương minh.
Hợp cốc là huyệt Nguyễn của kinh Thủ Dương minh Đại trường, tính của nó thăng
và tán, có thể mở được bế tắc, khai được kinh lạc, thuộc về huyệt quan trọng của
Thương tiêu.
Túc Tam lý là huyệt Hợp của kinh Túc Dương minh Vị. Mạch khí của kinh Vị, do
từ nơi này vận chuyển vào nơi quan yếu của tạng phủ. Nó có thể thăng, có thể
giáng, khai thơng được bế tắc, nó là huyệt quan yếu của Vị kinh. Hai huyệt này
phối nhau có thể làm thơng điệu cho Trường Vị, vận hành được trệ khí, làm tiêu
tán được trướng khí. Nếu khi bị khí thanh Dương hãm xuống dưới, sự ăn uống
(nạp cốc) khơng cịn được “thông sướng” nữa, ta châm bổ Túc Tam lý nhằm ứng
với Hợp cốc trong việc làm kiện cho Tỳ. Khi mà Tỳ khí được thăng, Vị khí được
giáng thì việc ăn uống sẽ khá hơn. Nếu bị khí Thấp nhiệt làm ủng tích gây nên việc
ăn uống khơng tiêu, khí trọc trệ đình ở Trung tiêu… ta tả Túc Tam lý nhằm dẫn khí
của Đại nghịch khí, Trung tiêu sẽ thơng sướng và Vị khí sẽ tự điều hồ.
f) Ghi chú: phép phối huyệt này nhằm mục đích điều lý khí ở trung cung. Nếu
chúng ta châm thích nghi thì kết quả rất là to lớn.
NHĨM THỨ 19
a) Phối huyệt: Túc Tam lý

b) Hiệu năng: điều lý Tỳ Vị, điều hồ trung khí, thăng thanh giáng trọc, thơng
Trường, tiêu trệ sơ Phong, hố Thấp, phù trợ chính khí, bồi dưỡng ngun khí,
phịng bệnh...
c) Chủ trị: trị các tật bệnh thuộc vùng Trung tiêu ví dụ như Hàn tà ngưng trệ, bĩ
khối, đái dầm, bệnh ở mắt, sưng thũng, bệnh ung ở vú, Tâm hồi hộp, hư phiền, các
ngón tay bị tê dại...
d) Phép châm và cứu: thông thường người ta châm huyệt này sâu từ 5 phân đến 1
thốn. Nếu hư thì bổ, nếu thực thì tả, hoặc là bình bổ bình tả, lưu kim khoảng 15
phút. Nếu bệnh hư hàn thì sau khi rút kim nên cứu. Căn cứ vào các bệnh khác
nhau, chúng tùy theo chứng mà có thêm huyệt để gia giảm.
e) Giải phương: Túc Tam lý là huyệt thuộc “Thổ trong Thổ” vì Tỳ Vị trong ngũ
hành thuộc về Thổ, trong ngũ du huyệt thì Túc Tam lý cũng thuộc Thổ, vì thế nó
được xem là “Thổ trong Thổ”.
Túc Tam lý là huyệt Hợp của kinh Túc Dương linh Vị, Thổ có thể sinh vạn vật mà
cũng có thể làm hủ nát vạn vật. Vị là biển của ngũ cốc, là cái gốc của hậu thiên.
Ngũ tạng lục phủ của con người đều phải dựa vào sự thịnh vượng của Vị khí để
“doanh dưỡng” cho mình. Nếu có đủ Vị khí thì sinh, khơng đủ Vị khí thì chết. Vì
thế huyệt Túc Tam lý có thể làm kiện Vị khí và bổ sự hư tổn của tạng phủ, nó có
giá trị như thang “Độc sâm” vậy. Vì thế Túc Tam lý là yếu huyệt bảo dưỡng cho
toàn thân...
f) Ghi chú: vị thuộc Mậu Thổ của Trung tiêu lấy hòa và giáng là con đường thuận.


Tỳ thuộc Kỷ Thổ, lấy thăng và phát làm sở trường. Vị thuộc phủ, thuộc Dương,
tính của nó khéo về làm nhuận mà ghét táo. Tỳ thuộc tạng, thuộc Âm, tính của nó
là ưa táo mà ghét Thấp. Tỳ chủ về thăng thanh khí, Vị chủ về giáng trọc khí. Tỳ và
Vị cùng biểu lý còn kinh mạch của chúng làm lạc và thuộc Tỳ và Vị đồng có
nhiệm vụ làm tiêu hoá, hấp thu và chuyển hoá cái tinh vị. Hai huyệt này phối nhau
sẽ hoàn thành chức năng thu nạp và vận hố. Do đó nếu Tỳ Vị được kiện sẽ ăn
uống được, dinh dưỡng sung túc thì thân thể tráng kiện.

Châm bổ Túc Tam lý sẽ thăng Dương ích Tỳ, châm tả sẽ thơng Dương giáng trọc,
tiêu tích, trừ trướng. Vì nếu khơng, Vị khí bị tuyệt, tạng phủ mất đi nguồn ni
dưỡng, sinh mạng sẽ nguy.
NHĨM THỨ 20
a) Phối huyệt: Túc Tam lý, Thừa sơn.
b) Hiệu năng: làm thơng điều Trường Vị, làm thư cân khí, hố được ứ huyết.
c) Chủ trị: Huyết trĩ, xích ly, hung và phúc bị ứ trệ, đau đớn, hoắc loạn chuyển
cân...
d) Phép châm và cứu: Túc Tam lý sâu 5 phân, Thừa sơn sâu 1 thốn, đều dùng phép
tả, cứu 3 tráng. Khi nào hung và phúc bị đau, châm thêm Cách du sâu 2 phân, bổ,
không cứu.
e) Phép gia giảm: khi nào bị chuyển cân nặng, châm thêm Trung phong sâu 3 phân,
tả, cứu 3 tráng. Khi nào hung và phúc bị đau, châm thêm Cách du sâu 2 phân, bổ,
không cứu.
f) Giải phương: Thừa sơn là huyệt thuộc kinh Túc Thái dương Bàng Quang, đường
kinh này đi từ dọc theo cột sống để đi xuống dưới. Bàng quang và Thận cùng làm
biểu lý nhau cho nên có thể làm điều hồ khí ở Đại Tiểu trường và khí của Hạ tiêu.
Túc Tam lý đi từ ngực đi dọc xuống bụng, cùng làm biểu lý với Tỳ, vì thế nó có
thể làm sơ thơng trệ khí ở vùng ngực và bụng. Hai huyệt phối nhau có thể làm
thơng điều Trưởng Vị. Khi Trường và Vị hoà, nhiệt độc được thanh thì bệnh lỵ và
trĩ sẽ khỏi.
g) Ghi chú: huyệt Thừa sơn trị chứng huyết trĩ rất hay. Phàm châm Tam lý kiêm
Thừa sơn có thể trị ứ huyết trong bụng.
NHÓM THỨ 21
a) Phối huyệt: Túc Tam lý, Lao cung
b) Hiệu năng: thanh tả Hoả khí trong Tâm và Vị, khai được sự nghẽn tắc ở ngực,
giáng được khí nghịch.
c) Chủ trị: trị Tâm và Vị có nhiệt khí, Tâm hoả bốc lên trên đưa đến làm cho Tâm
thống, phản Vị, phiền muộn, muốn ói. Bệnh thương hàn kết ở ngực, bĩ khối làm
cho bứt rứt, trướng mãn, hay ợ không dễ chịu, nuốt nước chua, mệt mỏi.

d) Phép châm và cứu: châm Lao cung sâu từ 3 đến 5 phân. Châm Túc Tam lý sâu 1
thốn, đều dùng phép tả, không cứu, lưu kim 5 phút.
e) Giải phương: lao cung là huyệt huỳnh của kinh Thủ Quyết âm Tâm bào lạc. Chữ


“huỳnh” có nghĩa là nước từ mới trong suối ra cịn chảy rất nhẹ, nó chữa được
huyết khí uất trệ do sự mệt nhọc làm thương tổn, nó làm cho thư làm cho thơng sự
uất kết của thất tình, nó sở trường về vai trị làm nhẹ được nhiệt khí làm bứt rứt và
trướng mãn ở lồng ngực. Nó dẫn Hoả đi xuống, phối với Túc Tam lý, có thể thăng,
có thể giáng, có thể khai có thể bế. Nó sở trường về tả được Hoả tà ở Tâm và Vị,
giảm khí xung nghịch, giáng tà nhiệt mà khơng có hậu quả xấu, kết quả rất thần
tốc.
Khi châm tả Lao cung có thể làm thanh được Tâm hoả, nó chỉ có thể trục được hoả
ra khỏi bên ngồi Bào Lạc mà thơi, nó khơng thể làm cho Hoả giáng xuống và ra
ngoài thân thể. Như vậy Lao cung chỉ thanh tả Hoả ở Thượng tiêu còn Túc Tam lý
làm giáng được Hoả từ Trung Tiêu. Hai huyệt này phối lại nhau có thể chữa bệnh
ngang hàng với “Tả lâm thang”.
NHĨM THỨ 22
a) Phối huyệt: Tam Âm giao
b) Hiệu năng: tư âm, kiện tỳ, bổ huyết, ích tinh.
c) Chủ trị: trị các chứng hư lao, ho, nguyệt kinh không đều, bế kinh, băng lậu, kinh
huyết khô thiếu, phúc thống, sán, hà, trưng, tụ, chuyển bào...
d) Phép châm và cứu: châm Tam Âm giao sâu 3 phân đến 1 thốn. Bệnh hư thì bổ,
bệnh thực thì tả, thơng thường bình bổ bình tả, hoặc tiên bổ hậu tả, hoặc tiên tả hậu
bổ, tất cả đều nên biện chứng cho rõ trước khi châm, châm bổ hư thì sau khi châm
nên cứu 3 đến 5 tráng, lưu kim 15 phút, châm tả thực thì khơng lưu kim, khơng
cứu.
e) Giải phương: Tam Âm giao là hội huyệt của 3 kinh Túc Thái âm Tỳ, Túc Thiếu
âm Thận, Túc Quyết âm Can. Tuy nó thuộc vào kinh Tỳ nhưng cũng là giao hội
huyệt của Túc Tam Âm kinh cho nên nó có thể tư Can Âm, cịn có thể bổ Thận

Dương, là 1 trong những huyệt quan trọng của phụ khoa. Nó làm thơng được khí
trệ, sơ tán khí ở Hạ tiêu, điều hồ huyết thất ở tinh cung, phù chính đuổi tà, ... Các
phương như “Lý trung”, “Kiến trung” và “Bát trân thang” còn kém nó.
f) Ghi chú: huyệt Tam Âm giao cịn có thể dùng để bảo vệ sức khoẻ, xem phần cứu
dưỡng sinh.
NHĨM THỨ 23
a) Phối huyệt: Tam Âm giao, Chí âm
b) Hiệu năng: tun thơng Hạ tiêu, lý khí, vận hành được ứ huyết.
c) Chủ trị: trị các chứng nan sản, tử thai, bào y không ra, chuyển thai vị, kinh bế...
d) Phép châm và cứu: Tam Âm giao, châm sâu từ 5 phân đến 1 thốn, tiên bổ hậu tả.
Châm huyệt Chí âm sâu 1 phân, tả. Sau khi châm cứu 3 đến 5 tráng, lưu kim 5
phút. Nếu muốn chuyển thai vị, không châm chỉ cứu 3 đến 5 tráng là được.
e) Giải phương: Chí âm là Tỉnh huyệt của kinh Túc Thái dương Bàng quang. Tỉnh
là nơi khi khí xuất ra, ví như dịng nước từ nguồn chảy ra. Bàng quang và Thận
cũng làm biểu lý nhau. Nay châm và cứu Chí âm là điều lý khí ở Hạ tiêu, đuổi


được ứ huyết (khí) sinh ra khí mới.
Tam Âm giao là giao hội huyệt của Túc Tam Âm mà cũng là nơi then chốt của
Tam Âm kinh. Khi phối huyệt này có thể lý khí, điều huyết, tun thơng Hạ tiêu,
ích Âm khí để Âm khí hạ hành...
Phó Thanh Chủ nói: “Nam sản là do ở huyết hư”, “nan sản là do ở khí nghịch”.
Khí nghịch mà được điều lý, huyết hư mà được bổ, ích, thai nhi làm sao không
xuống được.
f) Ghi chú: làm hạ thai (bao gồm cả tử thai) nên phối 4 huyệt sau đây sẽ rất hiệu
nghiệm.
Bổ Đơn điền, tả Túc Tam lý, Tam Âm giao, tiên bổ hậu tả, sau đó là tả Chí âm.
Sau khí châm Chí âm dùng cây ngải cứu to bằng hạt lúa mạch cứu 3 tráng.
NHÓM THỨ 24
a) Phối huyệt: Đại chùy, Nội quan

b) Hiệu năng: khai hung, lợi khí, ơn Dương hố khí, trừ đàm ẩm
c) Chủ trị: ho, nhiều đàm, khí suyễn, hung cách đầy, phiền muộn, hoặc thở gấp,
đàm kéo khị khè, cách tích thủy...
d) Phép châm và cứu: châm Đại chùy sâu từ 5 đến 8 phân, tiên bổ hậu tả. Châm
Nội quan sâu từ 3 đến 5 phân, tiên tả hậu bổ. Tất cả đều lưu kim 10 phút cứu 3
tráng.
e) Giải phương: đại chùy là hội huyệt của Thủ Tam Dương kinh và Đốc mạch. Nội
quan là huyệt lạc của kinh Thủ Quyết âm Tâm bào lạc, nó vận hành riêng vào với
kinh Thủ Thiếu dương Tam tiểu, tương thông với Âm duy mạch, khởi lên ở giữa
lồng ngực thuộc vào Bào lạc, đi xuống dưới xuyên qua cách đến bụng, thông cả
Thượng tiêu, Trung tiêu và Hạ tiêu. Các đường kinh Âm đi từ tức lên trên đến
bụng, xuyên qua cách đến ngực, vì thế nó trị các tật bệnh thuộc vùng ngực.
Thủ Đại chùy nhằm điều hồ khí của Thái dương khi mà khí được điều hồ thì
thủy sẽ tự nó được lợi Châm phối với Nội quan là nhằm tuyên thông Dương khí ở
Tâm, thơng lợi được các màn mỡ (Tam tiêu) sơ thông được ứ tắc. Khi mà Tam tiêu
được thơng sướng thì nước uống sẽ đi tới Bàng quang, đàm sẽ tự trừ. Phối huyệt có
thể sánh với “Đại Thanh long”, “Tiểu Thanh long thang” và “Linh quế truật cam
thang”...
f) Ghi chú: Kinh Thủ thiếu dương Tam tiêu và Thủ Quyết âm Tâm bào lạc cùng
quan hệ lạc thuộc. Tam tiêu là 1 trong lục phủ, là 1 phủ mà ngoại vi rộng nhất
trong các phủ. Nan kinh nói: “Tam tiêu là con đường thông lộ, con đường chung
thỉ của khí”. Nội kinh nói: “Tam tiêu là quan năng khai thông lạch nước, đường
thủy đạo xuất ra từ đây”. Như vậy là Tam tiêu đã thống lãnh nguồn khí, có tác
dụng sơ thơng thủy đạo. Phàm khi uống nước thành chứng thủy ẩm, đàm tích, khí
trệ, phần lớn có quan hệ với Tam tiêu. Khi thủy nhập vào Vị, từ Vị thẩm thấu ra,
trải qua con đường của Tam tiêu để đạt xuống tới Bàng quang, vì thế Tam tiêu có
vai trị sơ thơng thủy đạo. Nếu thủy đạo được thơng sướng, lạch nước khơng bị bế
tắc thì con đường nước chảy sẽ khơng có lý do “đọng” lại. Giả sử con đường “màu
mỡ” của Tam tiêu bị tắc trệ khơng thơng thì con đường nước chảy cũng sẽ bế tắc,
như vậy là khí hố khơng vận hành gây nên chứng “ẩm” vậy.



Do đó khi thủ huyệt Nội quan để tun thơng Dương khí ở Tâm, để sơ lợi Tam
tiêu, rồi phối thêm Đại chùy để điều hồ khí của Thái dương. Dùng 2 huyệt này sẽ
trừ được chứng “đàm ẩm” rất tuyệt.
NHÓM THỨ 25
a) Phối huyệt: Ngư tế, Thái khê.
b) Hiệu năng: Tuyên Phế khí, thanh nhiệt khí, tư Âm, giáng Hỏa.
c) Chủ trị: các chứng hư lao, cốt chưng, phát nhiệt, ho, khạc ra huyết...
d) Phép châm và cứu: châm Thái khê sâu 3 phân, bổ. Châm Ngư tế, sâu 2 phân, tả,
không cứu, lưu kim 10 phút.
e) Giải phương: huyệt Ngư tế là huyệt huỳnh của kinh Thủ Thái âm Phế, đây thuộc
huyệt Hoả trong ngũ du. Khi châm tả huyệt này là làm thanh Phế Hoả. Thái khê là
du huyệt của kinh Túc Thiếu âm Thận, nó cũng là 1 trong 12 Nguyên huyệt thuộc
Thận kinh. Châm bổ huyệt này là để tư Thận Âm, toái hư nhiệt, thượng thì thanh,
hạ thì tư, làm cho Âm Dương giao nhau theo que Thái. Nó có giá trị như “Thanh
táo cứu Phế thang”. Thủ Ngư tế là làm thanh Phế, nhuận Phế; Châm Thái khê là bổ
Thận Âm nhằm chế Tâm Hoả. Khi Hoả khơng cịn bốc lên thì kim sẽ khơng bị
khắc, các chứng hư lao sẽ được bình...
f) Ghi chú: phối huyệt này còn trị được sự tổn thương do tửu sắc gây ra, điều lý
được ý niệm dục tính. Các chứng bệnh thuộc hư lao như thân thể gầy yếu, ngũ tâm
phiền nhiệt, ho khan, khạc ra huyết, Tâm hồi hộp, khí thở ngắn, cốt chưng lao
nhiệt. Truy ra nguyên nhân gây bệnh, chúng ta thấy nó do ham mêm sắc tửu, tư lự
quá độ, nguyên nhân này đã chiếm đến 8 hoặc 9 phần 10. Sự ham muốn trên làm
thương cả Tỳ lẫn Thận, Âm tinh hao tổn, Vị khơng cịn thọ nạp, cơ nhục bị khơ
cằn. Thận hư tinh tổn, Thủy khơng cịn ni dương Mộc, Mộc lại sinh Hỏa, như
vậy là Mộc Hỏa “hình” kim, bốc lên đến Phế. Phế là 1 tạng mềm, non, khi nó bị
Hoả khắc sẽ mất đi khả năng tiêu giáng gây nên bệnh. Do đó, châm Thái khê làm
“quân” tư bổ Thận Âm, châm huyệt Ngư tế làm “thần” nhằm tả Kim Hoả. Thần
phụ cho quân, quân trợ cho thần, quân và thần hợp lực, đó là phép trị.

NHÓM THỨ 26
a) Phối huyệt: Thiếu thương, Thương dương, Hợp cốc.
b) Hiệu năng: thanh nhiệt giải độc, tuyên Phế, làm lợi cho yết (thực quản).
c) Chủ trị: trị các chứng cổ họng bị sưng to, hầu tý, sưng quai bị, ho nghịch, chứng
nhũ nga của trẻ con, nhức răng, mất tiếng nói, đau mắt…
d) Phép châm và cứu: châm Thiếu thương và Thương dương xuất huyết, châm Hợp
cốc sâu 5 phân đến 1 thốn, tả, không lưu kim, không cứu. Nói chung, căn cứ vào
bệnh tình cụ thể để nhiệt thì thanh, thực thì tả, hư thì bổ, vận dụng 1 cách linh hoạt.
e) Phép gia giảm: nếu là kiêm thêm bệnh ngoại cảm phát nhiệt, yết hầu sưng đau,
Tâm phiền, tiểu màu đỏ, trước hết nên châm xuất huyết các huyệt Tỉnh và Thập
tuyên, sau đó châm các huyệt trên.
• Nếu bị nhiệt độc nặng, châm thêm Quan xung, Trung xung, Thiếu trạch, xuất


huyết.
• Nếu cổ họng đau kéo dài khơng hết, châm thêm Chiếu hải sâu 3 phân, tiên bổ hậu
tả, lưu kim 10 phút.
• Nếu nội thương do ẩm thực đến thành thổ tả, châm thêm Trung hoãn, sâu 5 phân,
Túc Tam lý sâu 5 phân đến 1 thốn, tiên tả hậu bổ, lưu kim 10 phút.
• Nếu nhiệt cực sinh Phong, làm lo sợ, co giật, cắn răng, nghiến răng, mặt tái xanh,
ngó thẳng lên trên..., châm thêm 12 Tỉnh huyệt, Thập tuyên và bát tà. Như bệnh
tình chuyển thành nguy hiểm, châm thêm Thủy câu, Phong phủ. Nếu đã châm như
trên mà chưa thấy hồi chuyển gì thì châm thêm Bách hội, Phong phủ, Phong trì,
Tiền đỉnh, Tố liêu, Mệnh môn.
f) Giải phương: Thiếu dương là huyệt Tỉnh của kinh Thủ Thái âm Phế, huyệt này
thuộc Mộc, mạch khí của Phế kinh xuất ra từ đây, đi theo huyệt huỳnh, du, kinh để
rồi sau đó đến huyệt Hợp là Xích trạch, sau đó, lại tập hợp vào tạng. Châm cho
xuất huyết nơi đây là để tà khí nhiệt độc của nội tạng. Thương dương là huyệt Tỉnh
của kinh Thủ Dương minh Đại trường, huyệt này thuộc Mộc? (Kim), mạch của nó
lạc với Phê châm xuất huyết nó sẽ làm thanh Phế và lợi cho cổ họng (yết), làm sơ

tiết tà nhiệt.
Châm Hợp cốc là để thơng giáng kinh khí của Dương minh, nhiệt đi từ Dương
minh giáng xuống dưới để giả làm thanh được Phế khí.
Phối cả 3 huyệt nhằm thanh nhiệt giải độc, khai phát mao khiếu, thanh Phế lợi yết,
sơ tiết Trường Vị, nhằm chữa các chứng ở yết hầu, đầu mắt.
g) Ghi chú: phối huyệt này trị các chứng ở yết hầu rất hiệu nghiệm, nhất là đối với
1 số bệnh của trẻ con càng hiệu nghiệm hơn. Tất cả lấy việc làm cho thanh tiết khí
nhiệt độc của Thủ Thái ẩm Phế kinh là chính. Đó là vì Phế là cái nắp đậy, là trưởng
của trăm mạch, chỗ ở cao mà vận hành xuống thấp. Nếu kinh Dương minh bị nhiệt
hay là bị tà khí Phong nhiệt ngoại cảm, trước hết tà khí này phạm vào Phế. Khi mà
Phế khí uất bế thì nhiệt độc công lên trên đến yết hầu. Trẻ em là thuộc khí thuần
Dương, phần lớn là có nội nhiệt, tạng phủ lại rất mềm non, Vị khí chưa được sung
vì thế dễ bị ngoại cảm mà cũng dễ bị nội thương. Vì thế ta thấy chúng thường bị
chứng phát nhiệt, ho, nhũ nga, quai bị. Phép châm trên rất kiến hiệu.
NHÓM THỨ 27
a) Phối huyệt: Đại đôn, Quan nguyên
b) Hiệu năng: làm thư Can, ôn kinh, điều lý Hạ tiêu, xua đuổi khí hàn thấp, vãn hội
chứng quyết nghịch.
c) Chủ trị: các loại sản khí, phụ nữ bị Âm đỉnh đau bụng quặn xuống, điên giản,
đái dầm, đại tiện không thông.
d) Phép châm và cứu: châm Quan nguyên sâu 3 phân, châm Đại đôn sâu 1 đến 2
phân, đều châm bổ, lưu kim 15 phút, cứu 3 đến 5 tráng.
e) Phép gia giảm: nếu hàn khí quá thịnh đến nỗi buồng trứng bị co lại dẫn đến tình
trạng thiếu phúc đau, châm thêm Tam Âm giao, sâu 5 phân; châm Ấn bạch sâu 1
phân, đều châm bổ, cứu 3 tráng. Sau đó nếu phương huyệt có kết quả, nên châm
thêm Tam Âm giao, sâu 5 phân, Thái xung sâu 3 phân, Hành gian sâu 3 phân, Lãi




×