TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------
NGUYỄN LAN ANH
MSSV: B2006438
Hình tượng nhân vật người phụ nữ
trong tập truyện ngắn “Khói trời lộng lẫy”
của Nguyễn Ngọc Tư
Niên luận
Ngành Văn học
Cán bộ hướng dẫn: TS. Bùi Thanh Thảo
Cần Thơ, 2022
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành đến cô – Tiến sĩ. Bùi Thanh Thảo, giảng viên
Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tại trường Đại học Cần Thơ, người hướng dẫn tận
tâm, nhiệt huyết truyền đạt và giảng dạy những tri thức, kinh nghiệm quý giá, mới mẻ
cùng với sự hướng dẫn của cô đã định hướng lối cho tôi, trực tiếp dẫn dắt tơi hồn thành
bài niên ln với đề tài “Hình tượng nhân vật người phụ nữ trong tập truyện ngắn “Khói
trời lộng lẫy” của Nguyễn Ngọc Tư”.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô của trường Đại học Cần Thơ, đặc biệt là quý thầy
cô trực tiếp giảng dạy đã đồng hành giúp tơi trong q trình học tập. Những bậc thầy, cô
đã tâm huyết giảng dạy, củng cố nền kiến thức và tích lũy kinh nghiệm để tơi hồn thành
tốt q trình học cũng như hồn thành tốt cơng trình nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu “Hình tượng nhân vật người phụ nữ trong tập truyện ngắn “Khói trời
lộng lẫy” của Nguyễn Ngọc Tư” là cơng trình nghiên cứu đầu tay của tơi. Ttuy bài
nghiên cứu đã hồn thành nhưng điều tiếp xúc còn hạn chế dẫn đến Niên luận vẫn cịn
nhiều thiếu sót.
Tơi mong muốn có thể nhận thên nhiều ý kiến đóng góp để bài nghiên cứu của học phần
Niên luận được hoàn thiện hơn và những phản hồi góp ý đó sẽ là kinh nghiệm bổ ích để
tơi cố gắng trong cơng trình nghiên cứu và luận văn sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Tác giả niên luận.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.
Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………….....1
Lịch sử vấn đề nghiên cứu ………………………………………………………...2
Mục đích nghiên cứu………………………………………………………………4
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ………………………………………………...5
Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………….5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Vài nét hình tượng nhân vật ………………………………………………………….6
1.1.1 Khái niệm hình tượng nhân vật ………………………………………………...6
1.1.2 Hình tượng nhân vật người phụ nữ trong văn học ……………………………...7
1.2 Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ……………………………………………………………8
1.2.1 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác ………………………………………………...8
1.2.2 Tập truyện “Khói trời lộng lẫy” ……………………………………………….10
CHƯƠNG 2 HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
“KHĨI TRỜI LỘNG LẪY” CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ Ở PHƯƠNG DIỆN
NỘI DUNG
2.1 Người phụ nữ với những phẩm chất tốt đẹp ………………………………………..12
2.1.1 Người phụ nữ cần cù, đảm đang ………………………………………………12
2.1.2 Người phụ nữ có tấm lịng nhân ái ……………………………………………15
2.2 Người phụ nữ với những khung bậc cảm xúc trong cuộc đời ………………………16
2.2.1 Người phụ nữ khao khát tình yêu ……………………………………………..16
2.2.2 Người phụ với những phút giây lầm lỡ, yếu lòng …………………………….18
2.2.3 Người phụ nữ với sự bất hạnh ……………………………………………….. 21
CHƯƠNG 3 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN “KHÓI TRỜI LỘNG LẪY” CỦA NGUYỄN
NGỌC TƯ
3.1 Nghệ thuật miêu tả …………………………………………………………………..26
3.1.1 Miêu tả ngoại hình nhân vật …………………………………………………...26
3.1.2 Miêu tả hành động nhân vật …………………………………………………...28
3.2. Ngôn ngữ …………………………………………………………………………...29
3.2.1 Ngơn ngữ mang tính địa phương ……………………………………………...29
3.2.2 Ngơn ngữ trần thuật …………………………………………………………...31
3.3 Giọng điệu …………………………………………………………………………...32
3.3.1 Giọng điệu trữ tình, đằm thắm ………………………………………………...33
3.3.2 Giọng điệu mộc mạc, bình dị ………………………………………………….34
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở vùng đất Nam Bộ có một nhà văn đương đại mà hiện nay nhiều người biết đến,
mến mộ văn chương của cơ đó là Nguyễn Ngọc Tư. Xuất hiện lần đầu với truyện ngắn
Ngọn đèn không tắt (2000) và đạt giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần II
cho đến nay Nguyễn Ngọc Tư là một trong số ít những nhà văn trẻ được đọc giả nhắc đến
nhiều nhất. Các sáng tác của cô thu hút rất nhiều sự chú ý gây lên tiếng vang với sức hút
diệu kỳ đến giới đọc giả và như một hiện tượng văn học. Một nhà văn với tuổi đời trẻ
nhưng lại viết rất hay, sung sức và luôn tạo ấn tượng với từng tác phẩm mà cô cho ra đời.
Viết về người phụ nữ trong văn học từ trung đại đến nay đã khơng cịn là điều xa
lạ. Nhưng mỗi khi nhắc đến ta đều có thể thấy rõ hình tượng người phụ nữ từ xưa đến nay
luôn là biểu tượng của cái đẹp, của những số phận, … Phản ánh những số phận bất hạnh
cũng như sự khao khát hạnh phúc, … "Đó là vấn đề mang tính tồn nhân loại”.
Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư sẽ đem lại thêm tiếng nói cho người phụ nữ, để họ
có thêm những trải nghiệm, nghị lực đấu tranh vì chính hạnh phúc của mình. Với lối văn
chân thật, miền sơng nước những khung cảnh thiên nhiên, con người được Nguyễn Ngọc
Tư khéo léo đưa vào bên trong từng tác phẩm tạo nên một sức hấp dẫn với người đọc.
Với tập truyện Khói trời lộng lẫy của Nguyễn Ngọc Tư đó sẽ là món quà đem đến cho
người đọc cái nhìn sâu rõ hơn về hình tượng người phụ nữ mang những vẻ đẹp phẩm chất
đáng mến, những cuộc đời chịu nhiều tổn thương, khó khăn, … một cách chân thật, nhẹ
nhàng mà đi sâu vào lịng người.
Chính vì vậy, chúng tơi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Hình tượng nhân vật
người phụ nữ trong tập truyện ngắn “Khói trời lộng lẫy” của Nguyễn Ngọc Tư” để tìm
hiểu rõ hơn về hình tượng người phụ nữ trong thời hiện đại ngày nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Tư cây bút trẻ trở thành hiện tượng văn học gây chú với công chúng
từ năm 2000 khi tạo nên ấn tượng, tên tuổi ở tác phẩm Cánh đồng bất tận. Từ đó cho đến
hiện tại Nguyễn Ngọc Tư đã khơng ngừng sáng tác và cho ra nhiều tác phẩm ấn tượng.
Đọc giả quan tâm, nói nhiều và viết nhiều về những sáng tác của cơ.
Tuy có nhiều bài viết về Nguyễn Ngọc Tư nhưng phần lớn là viết về phong cách
sáng tác, nghệ thuật trong truyện ngắn của cơ, ít bài viết mang tính nghiên cứu sâu về đề
tài nghiên cứu chúng tơi lựa chọn. Nhưng ở Tạp chí lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật
-7.2021 chúng tơi tìm thấy bài nghiên cứu liên quan mật thiết đến đề tài niên luận được
trình bày bởi Tiến sĩ Thành Đức Bảo Thắng “Người phụ nữ trong tập truyện “Khói trời
lộng lẫy” của Nguyễn Ngọc Tư” đã đưa ra phát hiện về thế giới nhân vật trong tập truyện
Nguyễn Ngọc Tư “Người phụ nữ xuất hiện nhiều và luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong
độc giả bởi vẻ đẹp vừa quen vừa lạ trong cuộc sống đầy biến động. Đó là cuộc đời và số
phận những con người phải chịu nhiều tổn thương, thiệt thịi hơn cả cái nghèo đói và bất
công, song, bằng cách này hay cách khác, họ cố gắng vượt thoát những bi kịch và thể
hiện khát vọng vươn tới cuộc sống tốt đẹp trên chính mảnh đất của mình.”
Tác giả Nguyễn Khơi Nguyễn với bài viết Đặc điểm về nội dung và nghệ thuật tập
truyện Khói trời lộng lẫy đã khẳng định “Tập truyện Khói trời lộng lẫy có ý nghĩa quan
trong trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Tác phẩm vừa khẳng định vị trí, vai
trị của nhà văn trên văn đàn, vừa thể hiện quan niệm và cái nhìn tinh tế về những vấn để
mà không phải ai cũng nhận thấy, hoặc nhận thấy nhưng hời hợt. So với Cánh đồng bất
tận hay Gió lẻ và chín câu chuyện khác, tập truyện Khói trời lộng lẫy tuy mỏng về dung
lượng nhưng dày về dụng cơng, Nói như nhà phê bình Phạm Xn Ngun: “sách mỏng
mà hay như thế này ngày nay cực hiếm”. Và cũng cần nói thêm, mỗi câu chuyện trong
tập truyện cịn bâng quơ, mỏng manh nhưng có khả năng gây cay mắt và chống ngợp
như khói”
Tác giả Phan Thiên Di trong bài viết Khói trời lộng lẫy - Cuộc dạo chơi giữa
những khoảng ngưng buông ở báo Văn nghệ công an đã nhận xét “Truyện ngắn là một
thể loại cô đặc, trong đó “cái khơng bình thường hiện ra như một cái gì đó bình thường,
và cái bình thường hiện ra như một cái rất khơng bình thường”. Và Khói trời lộng lẫy
nằm ở giữa dải tần mà một cực là sự bình thường và cực kia là sự bất thường, khác lạ đến
kỳ dị. Với Cánh đồng bất tận, người ta có thể tạo ra cả bộ phim điện ảnh và có tá thứ để
luận bàn về thiên truyện từ năm này qua năm khác. Khói trời lộng lẫy khơng giống vậy,
ta chọn đọc để nghiền ngẫm, chìm trơi, tìm quên trong một thế giới khác.” Và “Tôi
chẳng lấy làm ngạc nhiên vì trước khi bước vào Khói trời lộng lẫy, hình ảnh người phụ
nữ xuất hiện trong truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết đã dày đến nỗi ta những tưởng sẽ
chẳng cịn gì mới mẻ trước đường ray han gỉ của cuộc chơi chữ nghĩa. Khơng ngồi dự
đốn, đó vẫn là chiếc bình cổ với nét chạm khắc của bi kịch, tình yêu nhưng một thứ
rượu tinh mới được Nguyễn Ngọc Tư kháp vào. Chúng thoang thoảng, chếnh choáng,
dẫn ta vào mê cung huyền diệu của văn chương.”
Với những bài báo, tạp chí, bài viết trên dù ít nhiều, đa phần các tác giả đều đề cập
đến vấn đề về người phụ nữ ở các bình diện như: hình tượng, số phận người phụ nữ…
Thông qua nghiên cứu và khảo sát chúng tôi thấy các bài nghiên cứu đều dừng lại ở việc
khảo sát ở một số vấn đề nhỏ, một vài truyện ngắn có tính nhỏ lẻ chưa có tính hệ thống
và được nghiên cứu triệt để ở vấn đề hình tượng nhân vật người phụ nữ. Nhưng đó vẫn là
những đóng góp vơ cùng q giá trong việc giúp chúng tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài
“Hình tượng nhân vật người phụ nữ trong tập truyện ngắn “Khói trời lộng lẫy” của
Nguyễn Ngọc Tư”
Ngồi ra chúng tơi cịn sử dụng thêm một số đề tài nghiên cứu về hình tượng nhân
vật người phụ nữ, nhân vật trong truyện ngắn, đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư làm thước đo khi soi xét vào trong đề tài cụ thể của chúng tơi:
Có thể kể đến những luận văn thạc sĩ ngành Văn học Việt Nam ở trường đại học
Cần Thơ: Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư của Nguyễn Trọng Bình (2009),
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư những đặc điểm nổi bật của Huỳnh Bửu Tuấn (2010), So
sánh nhân vật nữ trong truyện ngắn Dạ Ngân và Nguyễn Ngọc Tư của Lâm Văn Điền
(2017).
Bên cạnh đó một số cơng trình nghiên cứu về nhân vật nữ trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư cũng có những mối quan hệ tương quan với đề tài nghiên cứu niên luận
của chúng tôi như: Luận văn nghiên cứu của tác giả Triệu Thi Chuyên Hình tượng người
phụ nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư và Le Clezio, Luận văn Nhân vật người
phụ nữ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng DIệu bà Phan Thị Vàng Anh của
Trần Thị Thanh Mai.
Nhìn chung những tài liệu chúng tôi quyết định sử dụng để nghiên cứu đề tài niên
luận khơng hồn tồn trùng khớp với đề tài. Nhưng những luận văn đã qua thẩm định
nghiên cứu về Nguyễn Ngọc Tư là cơng trình khoa học nghiêm túc. Trên cơ sở những
nghiên cứu đi trước đạt được, chúng tôi hy vọng đóng góp thêm những phát hiện mới
trong việc thể hiện hình tượng người phụ nữ trong tập truyện ngắn Khói trời lộng lẫy một
cách cụ thể như một cơ hội cho chúng tôi trong công tác nghiên cứu và trình bày một
niên luận văn chương.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu niên luận Hình tượng nhân vật người phụ nữ trong tập truyện
ngắn Khói trời lộng lẫy của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi hướng tới mục đích sau đây:
Tìm hiểu và phát hiện sâu sắc hơn những đặc điểm tính cách, số phận người phụ nữ từ
đó thấy rõ được hình tượng nhân vật người phụ nữ trong tập truyện ngắn Khói trời lộng
lẫy của Nguyễn Ngọc Tư.
Nêu bật lên được những nét đặc sắc trong cách xây dựng hình tượng nhân vật người
phụ nữ. Thấy được những nét độc đáo trong cách sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
góp phần vào tinh hoa văn học nước nhà thời hiện đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu này đối tượng nghiên cứu sẽ được chúng tôi tập trung là nhân
vật nữ trong tập truyện ngắn Khói trời lộng lẫy của Nguyễn Ngọc Tư.
Về phạm vi nghiên cứu với sự giới hạn của đề tài này. Niên luận sẽ nghiên cứu các tác
phẩm trong tập truyện ngắn Khói trời lộng lẫy (2010): Nước như mắt, Có con thuyền đã
bng bờ…, Tình lơ…, Cảm giác trên dây, Mộ Gió, Rượu trắng, Khói trời lộng lẫy.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu “Hình tượng nhân vật người phụ nữ trong tập truyện ngắn
“Khói trời lộng lẫy” của Nguyễn Ngọc Tư” chúng tôi đã vận dụng nhiều phương pháp.
Trong đó có phương pháp tiểu sử giúp cơng trình nghiên cứu niên luận khảo sát
những yếu tố như quê hương, gia đình, đời sống tâm hồn, … để có thể hiểu rõ hơn những
yếu tố đó đã ảnh hưởng đến con người, phong cách, quan niệm nghệ thuật của tác giả.
Phương pháp phân tích – tổng hợp với phương pháp này sẽ giúp bài niên luận đi
sâu vào trong những biểu hiện cụ thể và khái quát về đặc điểm nội dung và hình thức của
các tác phẩm trong tập truyện ngắn Khói trời lộng lẫy của Nguyễn Ngọc Tư để nghiên
cứu hiểu rõ hơn về hình tượng người phụ nữ.
Phương pháp hệ thống tìm kiếm những độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư trong khi
xây dựng hình tượng nhân vật người phụ nữ, tạo nên một tập hợp các yếu tố, từ đó khẳng
định những đặc điểm nổi bật của Nguyễn Ngọc Tư trong cách xây dựng hình tượng nhân
vật người phụ nữ.
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Vài nét hình tượng nhân vật
1.1.1 Khái niệm hình tượng nhân vật
Văn học phản ánh các quan hệ trong hiện thực, đối tượng của văn học là tất cả
những gì con người quan tâm: con người, thiên nhiên, những sự kiện đời sống xã hội,
những mảnh đời… nó góp phần cho sự phong phú, đa dạng trong các tác phẩm văn học.
Mà những cái phản ánh của văn học ít nhiều cũng có bóng dáng, tính cách của con người.
Khi ta đọc một tác phẩm cái thường đọng lại ở chúng ta thường là những số phận, tình
cảm, sự suy tư, … Vì vậy về cơ bản tầm quan trọng của việc xây dựng hình tượng nhân
vật sẽ cho ra chất lượng tác phẩm văn học mang tính quyết định.
Trong một tác phẩm văn học, quan trọng nhất chính là hình tượng con người hay
cịn gọi là hình tượng nhân vật. Nhà văn Nguyễn Minh Châu chia sẻ “Văn học và đời
sống là hai vịng trịn đồng tâm mà tâm điểm của nó chính là con người”. Văn học muốn
phản ánh được đời sống thì phải qua bàn tay nhào nặn của tác giả mà con người chính là
yếu tố quan trọng. “Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ,
khơng thể đồng nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những
nét rất gần với nguyên mẫu có thật” Những nhân vật này sẽ được xây dựng để phản ánh
hiện thực đời sống, qua bàn tay khéo léo của nhà văn nó khơng cịn đơn thuần là sao chép
y bản của đời sống mà cịn là sự thể hiện óc sáng tạo, trí tưởng tượng, tư tưởng của nhà
văn gửi gắm vào trong nhân vật. Đó là sự hài hịa giữa cái riêng và cái chung mà ở hình
tượng nhân vật có, phản ánh hiện thực khách quan cũng phản ánh tư tưởng, ước mơ, ý
tưởng của tác giả vào trong tác phẩm làm cho nhân vật có tầm quan trọng không thể thiếu
ở trong tác phẩm. Và trong cuốn Lý luận văn học của Hà Minh Đức chủ biển đã định
nghĩa nhân vật văn học như sau “Nhân vật trong văn học là một hiện tượng mang tính
ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ của mọi chi tiết biểu hiện của con người mà
chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách…”
Tóm lại, khi đọc bất cứ tác phẩm văn học nào ta cũng đều có thể bắt gặp hình
tượng nhân vật bởi “Đối tượng trung tâm của văn học là các tính cách của con người,
những con người cá thể, suy nghĩ, cảm xúc, hành động mang bản chất xã hội, lịch sử,
mặc dù trong lịch sử văn học không phải giai đoạn nào cũng khắc họa tính cách con
người theo nguyên tắc giống nhau nhưng tâm hồn, tính cách, bản tính, ... của con người
ln là đối tượng được nhắm đến” theo Trần Đình Sử.
1.1.2 Hình tượng nhân vật người phụ nữ trong văn học
Trong những tác phẩm văn học từ cổ điển đến hiện đại hình ảnh người phụ nữ
thường xuyên xuất hiện trong đời sống văn chương.
Hình tượng người phụ nữ xuất hiện trong văn học đã từ thuở xa xưa từ những câu
ca dao quen thuộc. Hình ảnh của họ hiện lên với những vẻ đẹp giản dị. Đó là tấm lịng
thủy chung son sắt, đầy ấm áp yêu thương của những người phụ nữ dành cho chồng, cho
tổ ấm của mình.
“Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm, sơng hương mặc người”
Hay đó là những người phụ nữ thủy chung, sống tình nghĩa yêu thương, chất phác,
thật thà.
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy cịn cay
Gạo cương thường chớ đổi đừng thay
Dầu có làm nên danh vọng hay rủi có ăn mày ta cũng theo nhau”
Hay có khi là những hình ảnh đẹp đẽ về sự hồn nhiên trong sáng, đầy ý nhị và dịu dàng
của những người phụ nữ đáng yêu.
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Ta có thể thấy từ những tác phẩm của thi nhân trung đại Việt Nam như Nguyễn
Du, Nguyễn Trãi, … đều có những sáng tác liên quan đến hình ảnh người phụ nữ, lấy câu
chuyện của họ làm trung tâm, miêu tả, đồng cảm, quan tâm đến cuộc đời, số phận và đời
sống nội tâm người phụ nữ. Tiêu biểu là Nguyễn Du, ông viết rất nhiều về phụ nữ mà ta
có thể thấy rõ là tác phẩm Truyện Kiều. Ông đã khắc họa vẻ đẹp tài sắc vẹn tồn nhưng
lại có một số phận bạc bẽo từ đó thể hiện niềm cảm thương đối với họ.
Ta cịn bắt gặp hình ảnh người phụ nữ trong những vần thơ của Hồ Xuân Hương.
Thơ của Hồ Xuân Hương là những lời thơ với tiếng nói tâm tình của người phụ nữ. Hình
ảnh của họ trong xã hội cũ phải gánh chịu bao điều thiệt thịi, bất hạnh khơng có tiếng
nói, khơng dám đấu tranh. Bài viết với những ý thơ rất tinh tế, đem đến cho người phụ nữ
tiếng nói, sự đồng cảm sẻ chia với những số phận nhỏ bé, bất hạnh.
Đến với văn học cách mạng ta cũng thấp thoáng thấy được những hình ảnh của
người phụ nữ hiện lên như một chiến sĩ cách mạng, hy sinh quên mình vì tổ quốc như
trong tác phẩm Truyền thuyết trên đảo Côn Sơn của Phan Thị Thanh Nhàn, hay hình ảnh
của những người con gái kháng chiến vất vả trên Trường Sơn qua bài thơ Lá đỏ của
Phạm Tiến Duật, …Đến hiện nay trong nhiều tác phẩm văn chương ta vẫn còn bắt gặp đề
tài người phụ nữ, hình ảnh của họ thấp thống vào trong dịng chảy văn học.
Đi theo dịng chảy đó người phụ nữ Việt Nam hiện lên trong văn học hiện đại
mang đậm dấu ấn mới đáng khâm phục. Hình ảnh người phụ nữ trong thời kỳ kháng
chiến hiện lên mộc mạc, mạnh mẽ, vẻ đẹp và phẩm chất đáng q. Đến khi hịa bình họ
vẫn mang vẻ đẹp giản dị đó nhưng được đặt trong mối quan hệ mới hơn ở xã hội hiện đại.
Họ được bắt gặp với những phẩm chất tốt đẹp, cũng khao khát yêu thương, hoài bão cũng
mang nhiều nỗi trăn trở.
1.2 Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
1.2.1 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 người con của vùng đất Cà Mau. Hiện cô đang
sống và làm việc tại đó. Cơ là hội viên Hội nhà văn Việt Nam và hiện là biên tập viên
Tạp chí Bán đảo Cà Mau. Trần Hữu Dũng đã viết về Nguyễn Ngọc Tư khi có dịp đến
thăm cơ: “Đó là một người phụ nữ rất trẻ, dung dị, bình thường, nhưng kiên cường và
bản lĩnh. Tư sống gần ba má, anh chị. Từ thế hệ nội, ngoại, cả gia đình của Tư đều là bộ
đội trong chiến tranh chống Mỹ”. Sống trong một gia đình nhà nơng, ba là bộ đội cựu
chiến binh nay đã về hưu làm ruộng. Mẹ cô là người phụ nữ tần tảo, đảm đang hết thảy
công việc nhà. Lớn lên tại vùng đất Nam Bộ yêu mến nó, hiểu sâu về nó nên ở những
bước chập chững của sự nghiệp cầm bút cô đã bộc lộ được tài năng văn chương của mình
từ thuở đi học. Nhưng cũng có lúc cuộc sống vất vả, khó khăn đã đẩy đưa cơ khơng cịn
được đến trường ở những năm cấp ba. Nhưng khơng vì thế mà từ bỏ nhờ vào bản thân và
sự ủng hộ của người ba, cũng là người thầy. Nguyễn Ngọc Tư đã tiến lên với ngòi bút của
mình và xin được một chân làm ở tại cơ quan văn nghệ báo chỉ tỉnh Cà Mau.
Cuộc sống của Nguyễn Ngọc Tư trải qua những tháng ngày ở mảnh đất quê hương
thân yêu, ngòi bút hấp dẫn của cô đã lôi cuốn người đọc vào trong những mảnh ruộng
vườn, sống nước quen thuộc của nơi cô sống. Một đọc giả tên Hồng Thiên Nga đã nhận
xét: “Tơi chưa từng gặp nhưng đã yêu Nguyễn Ngọc Tư qua ngòi bút chị quá đỗi tinh tế,
nhân hậu và trong lành” Thật vậy những tác phẩm mà cô Tư cho ra đời đều mang một
nét đặc trưng quá đỗi “nhân hậu và trong lành” khiến đọc giả yêu mến từng từng trang
từng dịng chữ của cơ viết ra. Cơ đã từng chia sẻ về chính mình với một nét đầy chân
thành, giản dị “viết được, nhưng khơng ngon lành gì lắm”, “viết văn để làm bạn với cuộc
đời”. Nguyễn Ngọc Tư là vậy, cơ ln chân thành, mộc mạc, kín đáo đem đến cho người
đọc những trải nghiệm về chính cuộc sống thường nhật. Một sự đáng quý của cây bút trẻ
đầy tâm huyết với những đóng góp đáng kể cho nền văn học nước nhà.
Nói đến sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Ta sẽ thấy được nhiều tác phẩm
với nhiều thể loại của cô. Theo lời nhà văn Đỗ Ngọc Yên: “Kể từ năm 1996, truyện ngắn
đầu tay Đổi thay của Nguyễn Ngọc Tư được đăng trên tờ báo tỉnh đã tạo cho cô nhân
viên tạp vụ ở Văn phịng Hội Văn nghệ Cà Mau một cú hích như là định mệnh, dẫn dắt
cô bé nông dân Nam Bộ “xịn” này đi theo con đường văn nghiệp lúc nào, mà ngay chính
cơ cũng không hay. Thế rồi, thời gian qua mau, trong 12 năm có lẻ, gia tài văn chương
của Ngọc Tư đã lên đến hơn 200 truyện ngắn, tản văn, bút ký và 10 đầu sách”. Hay lúc
tin nhà bão dữ cấp 5 chứng kiến thảm cảnh Nguyễn Ngọc Tư đã cầm bút ra đời ký sự Nỗi
niềm sua cơn bão và đạt giải ba báo tỉnh năm 1977. Tiếp đến là những truyện ngắn ra
đời: Ngọn đèn không tắt, Nỗi buồn đất lạ, Lý con sáo sang sông, Chuyện của Điệp, Ngổn
ngang nối tiếp nhau ra đời. Đáng chú ý chính là truyện ngắn Đèn không tắt đã xuất sắc
khi nhận giải Nhất cuộc thi Văn học tuổi 20 của Nhà xuất bản trẻ, giải B của hội nhà văn
(2001) và giải Tủ sách Vàng NXB Kim Đồng (2003). Tiếp nối thành công Nguyễn Ngọc
Tư lọt top Mười nhân vật trẻ xuất sắc tiêu biểu của năm (2002). Sau đó đạt Giải thưởng
Hội nhà văn Việt Nam 2006 với tập truyện Cánh đồng bất tận (2006). Tập truyện cũng
nhận giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm (2006) và truyện ngắn cùng tên cũng được
chuyển ảnh năm 2010 và Giải thưởng LiBeraturpreis (2018) do Hiệp hội Quảng bá văn
học Châu á, châu Phi, Mỹ Latin tại Đức (Litprom) bình chọn. Đó quả là một thành tựu
nổi bật với một cây bút trẻ, ngồi ra khơng chỉ được biết đến là một người viết truyện
ngắn, Nguyễn Ngọc Tư cũng thử sức với nhưng thể loại khác: thơ, tùy bút, bút ký, tản
văn… Hiện cô vẫn tiếp tục sáng tác và ra tác phẩm đều tay. Với sự nghiệp viết Nguyễn
Ngọc Tư đã khẳng định vị trí của mình bằng tài năng nổi bật, đóng góp cho nền văn học
Việt Nam đương đại nói chung và Nam Bộ nói riêng một niềm tự hào cho văn
chương.
2.2.2 Tập truyện ngắn Khói trời lộng lẫy
“Tặng những chuyến vào đời bâng quơ” giống như lời chia sẻ ở đầu trang của
tập truyện. Tập truyện ngắn Khói trời lộng lẫy như là một món quà mà Nguyễn Ngọc Tư
muốn gửi gắm đến đọc giả. Ngược dòng thời gian xưa kỷ niệm ấm áp, xuôi về tương lai
là những ước mong, khát khao. Giữa dịng thời gian đó Nguyễn Ngọc Tư đã cho ta tham
quan đến những chuyển đi rong ruổi, qua những ngóc ngách của làng quê, dù ngắn ngủi
nhưng đã giúp nhà văn viết lên những dòng hiện thực chia sẻ như một kết nối tự nhiên,
kết nối với những tâm hồn “bâng quơ” thèm được thở “những thứ khí trời bên ngồi
cánh cửa”.
Truyện ngắn “Những nét riêng – “có chuyện” và “ngắn” với những đặc điểm thể
tài riêng biệt chỉ sự phát triển ở các nền văn học hiện đại, gắn với sự xuất hiện và phát
triển của báo chí”. Từ thuật ngữ văn học trên ta cũng hiểu rõ hơn phần nào nội dung thể
hiện của những tác phẩm truyện ngắn và tập truyện ngắn Khói trời lộng lẫy cũng vậy.
Tập truyện được sáng tác vào năm 2010 nội dung bên trong là những câu chuyện xoay
quanh về thân phận người phụ nữ. Đó là những lát cắt của những nỗi niềm mà người phụ
nữ ủ ấp: sự cô đơn, khao khát về sự u thương, … có chút gì đó buồn, có chút mỏng
manh yếu đuối. Đó là mối quan tâm, ln được thể hiện trong ngịi bút của Nguyễn
Ngọc Tư tái hiện cuộc sống, số phận của người phụ nữ, tìm ra và khẳng định vẻ đẹp của
họ. Sự phát hiện, sê chia đầy trân trọng, nâng niu đầy ý nghĩa.
CHƯƠNG 2 HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
TRUYỆN NGẮN “KHÓI TRỜI LỘNG LẪY” CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
Ở PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1 Người phụ nữ với những phẩm chất tốt đẹp
Đọc nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư ta thường xun bắt gặp trong sáng tác
của cơ hình tượng trung tâm là người phụ nữ. Những người phụ nữ này đa phần mang
trong mình một nét đẹp rất riêng đó khơng phải là sự hồn hảo mà là những nét đáng quý
của người phụ nữ. Bằng một cách nào đó hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của cô
Tư đều mang một vẻ đẹp rất đặc biệt.
Và như để làm sáng tỏ hơn, trong tập truyện ngắn Khói trời lộng lẫy ta sẽ thấy rõ
hơn điều đó “Đàn bà, hễ mũi xấu thì mắt đẹp, mắt mũi người xấu thì tâm hồn đẹp. Lúc
giận cũng đẹp”. Con người đang quay cuồng với cái guồng quay của xã hội để thích nghi
với những điều mới, con người thay đổi. Nhưng đối người phụ nữ họ vẫn giữ được cho
mình những phẩm chất tốt đẹp. Đó là những phẩm chất đáng quý - người phụ nữ mang
trong mình sự lam lũ, đảm đang và giàu lòng nhân ái.
2.1.1 Người phụ nữ cần cù, đảm đang
Với lối văn giản dị đậm chất Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư đã gửi gắm cho bạn đọc
những hình ảnh đẹp đẽ ấy. Người phụ nữ trong tập truyện ngắn Khói trời lộng lẫy mang
những nét đẹp phẩm chất truyền thống, họ là những người phụ nữ cần cù, đảm đang và
lam lũ.
Người phụ nữ cần cù, đảm đang chăm lo cho gia đình một phẩm chất vô cùng tốt
đẹp được Nguyễn Ngọc Tư nêu bật. Điển hình cho phẩm chất đó ta có thể thấy rõ ở nhân
vật Sáo trong truyện Nước như nước mắt. Sáo nghèo, chồng Sáo cũng vậy Sáo lấy chồng
vì “Năm mười chín tuổi, nghe má ao ước “lúc chết được nằm trên đất của mình”, Sáo lấy
chồng. Lấy người má chọn, lý do “thằng đó có chục cơng đất”. Sáo vì gia đình cắn răng
lấy chồng, lam lũ cùng chồng xây dựng gia đình, có lúc vì chồng Sáo muốn theo cái lẽ
“đúng điệu” mà cả nhà phải rơi vào cảnh trắng tay. Nhưng Sáo vẫn cố gắng chăm chỉ
làm việc cùng chồng mình “Gieo mấy giồng cải, chồng Sáo nói lá cải chưa mướt mà nhổ
bán là khơng đúng điệu, nhưng chờ tới lứa cào cào ở đâu bay lại ăn đám rau rách nát.
Có năm trồng dưa hấu, thấy dưa lớn trái lại đang được giá Sáo địi bán thương lái.
Chồng bảo chờ cho dưa chín thêm ít nữa, cho da trái dưa căng bóng mới đúng điệu. Ai
ngờ trời trở mưa một trận, không kịp cắt dây dưa nổ lụp bụp như pháo, nứt vỏ hết. Trắng
tay.”. Sáo luôn chăm chỉ cùng chồng làm lụng trên những cơng việc để kiếm về từng
đồng cho gia đình và cũng cam chịu luôn cái số phải nghe theo chồng trong khi thấy rõ
đó có thể là quyết định sai. Ấy vậy mà Sáo vẫn luôn miệt mài với những cơng việc đó
đến lúc chồng Sáo mất vì bị người ta đánh chết vì mấy cọng ngị gai. Sáo vẫn chăm chút
lo cho xác chồng “Lúc lau rửa cho chồng, men tay theo từng tấc thịt da dường như đang
tan chảy Sáo thấy buồn quá. Không thể chôn xuống đất, người ta bày cách dìm hịm
xuống nước rút mới đem âm thổ”. Sáo ngậm ngùi lo chôn cất cho chồng mình. Đơi khi vẻ
đẹp của người phụ nữ nằm trong cách họ chăm chút, miệt mài lo cho gia đình họ. Sáo
cũng vậy Sáo vì gia đình, vì chồng mà cần cù làm lụng, đảm đang lo cho chồng ngay cả
tới lúc chồng mất.
Sự đảm đang của người phụ nữ còn thể hiện ở cách họ chăm chút cho gia đình của
mình, giữ gìn những vẻ đẹp giá trị truyền thống của người phụ nữ dù hồn cảnh có éo le.
ta cịn thấy được ở truyện Tình lơ…. Dượng Bảy trong một lần xem phim đã yêu thầm
một người con gái, dượng đi đến nhà cô gái để ngỏ lời đến khi “đám ăn trầu uống rượu
mới hay dì Bảy có người chị sinh đơi”, “Bẽ bàng. Lỡ làng”. Dượng Bảy phũ phàng nói
ra một câu trong lúc say “Cơ khơng phải người tơi thương” và dì Bảy vẫn cười, nhỏ nhẻ.
Dù đó là hiểu lầm, dù người chồng mình thương khơng phải là mình mà là chị mình, dì
Bảy vẫn chăm sóc chồng mình như một người phụ nữ trong gia đình, dì đem tình cảm
của mình qua sự quan tâm cho chồng. Dượng Bảy vơ tình “xắn lưỡi dá vơ chân, máu
chảy đầm đìa. Dì Bảy bứt lá chuối non nhai nghiến ngấu đắp lên vết thương của dượng,
mau trơi bả chuối này dì đắp lên bả chuối khác, miệng khơng hay chát”. Vẫn nhận được
câu nói quen thuộc “cơ khơng phải người tơi thương”, nhưng dì Bảy vẫn luôn ở bên
dượng chăm lo, vun vén tùng chút cho gia đình mà dì Bảy. “Hơm gặt, dì đẩy xuồng lúa
bó trên mương ruộng cạn, mồ hơi này chưa khơ mồ hôi kia lại tươm bê bết, lúc ăn cơm
dượng ngồi gần nhăn mặt, cô không phải người tôi thương”. Dì Bảy vẫn ở đó, cùng
chồng mình sinh con, hy sinh nhan sắc thời gian của bản thân để xây mái ấm của chính
mình, mặc dầu vẫn hay nghe câu “cơ khơng phải người tơi thương”, “mà dượng cịn
nhắc đi nhắc lại cây này, mỗi khi say”. Dì Bảy dùng cả một đời cần cù đảm đang vun vén
cho gia đình đến ba mươi năm sau dượng bị tai biến dượng vẫn nói câu nói quen thuộc đó
với dì Bảy dì hớt hải mời chị mình qua thăm an ủi. Nhưng cuối cùng khi thấy người trong
mộng năm xưa dượng Bảy lại nói ra câu nói quen thuộc “Chị khơng phải người tơi
thương...” và tìm kiếm hình bóng của dì Bảy. Đến cuối cùng người phụ nữ chăm lo cho
gia đình, đảm đang vun vén cho chồng con đã biết được tình cảm thật lịng của chồng
mình. Thì ra dượng Bảy thương dì Bảy, câu chuyện bình dị nhẹ nhàng đậm chất vùng
Nam Bộ. Được Nguyễn Ngọc Tư xây dựng với nét đẹp của người phụ nữ. Vẻ đẹp cần cù,
đảm đang chăm lo cho gia đình chồng con, khơng mong cầu đền đáp. Một phẩm chất tốt
đẹp, giản dị mà đáng quý của người phụ nữ.
Sự cần cù, đảm đang chịu thương của người phụ nữ hiện lên trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư mỗi người một nét riêng. Cơ Sáo thương gia đình vì họ mà lấy chồng,
cũng thương chồng nên bám trụ lam lũ, làm lụng cùng chồng mình trong những tháng
ngày khó khăn vất vả, ngay cả khi chồng mất người phụ nữ ấy vẫn chăm lo cho chồng
mình dù cho Sáo có u chồng hay khơng, phẩm chất cần cù chịu khó đáng q ấy vẫn
hiện hữu bên trong Sáo. Hay Dì Bảy trong Tình lơ… cũng đảm đang thương chồng con,
cả đời lam lũ vun vén xây đắp lên một gia đình, nhận được hạnh phúc của riêng mình,
tình yêu với chồng mình qua từng cái lo, cái săn sóc tận tình của người phụ nữ. Dù họ có
được tình u hay khơng thì đối với những gì họ làm cũng cho ta thấy được vẻ đẹp phẩm
chất đáng quý của người phụ nữ, họ ln cần cù, đảm đang, chịu khó trong mọi hồn
cảnh.
Tóm lại qua các tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư ta đã thấy được vẻ
đẹp trong phẩm chất của người phụ nữ ln được gìn giữ trong bao đời. Đến bây giờ qua
tác phẩm của của cô Tư vẫn mang đến cho người đọc thấy được vẻ đẹp trong sự đảm
đang, cần cù của người phụ nữ một cách tinh tế và giản dị.
2.1.2 Người phụ nữ có tấm lịng nhân ái
Đến với mỗi trang văn của Nguyễn Ngọc Tư, ta như thấy được cuộc sống con
người ở vùng đất Nam Bộ. Con người họ tuy sống trong cuộc sống khó khăn, nghèo khổ
nhưng bên trong của học vẫn tốt lên vẻ đẹp của cái tình, cái nghĩa và đặc biệt làm tấm
lòng nhân ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Người phụ nữ với tấm lòng nhân ái dù sống trong hồn cảnh nào cũng là một
người có tấm lịng yêu thương con người, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn cao thượng. Đó là Bế
trong truyện ngắn Có con thuyền đã buông bờ… mặc dù là người làm nhưng Bế với tấm
lịng chân thành, u mến cơ chủ. Bế “khơng giả vờ quỵ lụy, sợ sệt vì chút tiền cơng,
cũng khơng mặc cảm cái vị trí nhỏ nhoi của mình cô cứ ngang phè như vậy”. Bế hay rầy
rà anh chủ vì khơng nói “anh nhớ vợ”, cũng hay la anh ta vì mấy khi về nhà cứ lo nhậu
nhẹt mà khơng quan tâm đến vợ mình. Người phụ nữ nhỏ bé đó ln có một tấm lịng
giành cho những người xong quanh một tấm lòng yêu mến con người. Ngay cả khi gặp
đứa con của tình cũ cơ khơng hè ghét bỏ đứa nhỏ mà thấy nó ốm, cơ mặc kệ chỉ lo cho
đứa nhỏ. “Bế khảng khái kéo con bé lại với mình, cơ xốc nó đi tới một hiệu thuốc chếch
bên kia đường”. Nắm bàn tay nhỏ ran đó Bế lo cho nó ăn cháo, cho nó uống thuốc. Một
người phụ nữ đáng mến với tấm lòng yêu thương, nhân hậu.
Hay trong truyện ngắn Nước như nước mắt vẻ đẹp của tấm lòng nhân ái đã thể
hiện rõ nét với sự đồng cảm của những người phụ nữ với nhau. Có người đàn bà tên Sáo
mất chồng nỗi đau ấy cùng với niềm đồng cảm của con người đã khiến Sáo không đi coi
“một nhân viên bảo vệ của bè rau bị dìm chết” vì Sáo đồng cảm với người mang nỗi đau
mất chồng giống mình. “Ở đó biết đây cũng có con đàn bà gột rửa da thịt chồng bằng
nước mắt mong gọi hơi thở trở về”. Sự lương thiện, đồng cảm và tình cảm giữa con
người với con người không cho phép Sáo làm điều đó và Sáo cũng hiểu nỗi đau đó mà
khơng đi. Đó là tấm lịng u thương được đồng điều với những số phận giống nhau chất
chứa bao niềm an ủi. Hay có người bà thương con, thương cháu mà khơng ruồng bỏ Bé
khi còn nhỏ trong truyện Rượu trắng. Người vợ thương chồng, thương con trong Tình
lơ… vẫn cần cù, ấp ủ vun vén cho gia đình, đem hết tình cảm yêu thương của mình dành
cho họ, để cuối cùng cũng nhận được hạnh phúc cho riêng mình.
Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư ta như hiểu rõ hơn về người phụ trên mảnh đất
mến thương Nam Bộ, họ là những con người yêu quê hương, con người nơi họ sinh sống,
đẹp bởi vẻ đẹp bên trong chân thành, nhân ái. Họ sẵn sàng đem yêu thương đến cho
người khác đem nó là niềm vui, niềm hạnh phúc cho chính mình. Nét đẹp đó đã đi vào
lịng người khiến cho ta đến với họ một cách yêu mến, xúc động. Tấm lòng yêu thương
nhân ái đó chính là vẻ đẹp của người phụ nữ về tình yêu giữa con người với con người,
tình yêu giữa những người trong gia đình hay đơn giản là những người chúng ta gặp
thoáng qua, …
2.2 Người phụ nữ với những khung bậc cảm xúc trong cuộc đời
2.2.1 Người phụ nữ khao khát tình yêu
Lật mở từng trang sách của Nguyễn Ngọc Tư, người đọc dễ dàng bắt gặp những
người phụ nữ khó khăn, vất vả, số phận éo le trắc trở, nhưng ở bên trong họ vẫn tốt lên
niềm mong ước và khát vọng tốt đẹp. Đó là sự khao khát về mái ấm gia đình, sự u
thương đùm bọc, tình làng, nghĩa xóm và cịn là sự khát khao cháy bỏng mong muốn có
được tình u hạnh phúc cho chính bản thân họ.
Con người ai cũng mong muốn mình được hạnh phúc. Và với sự nhạy cảm trong
tâm hồn người phụ nữ thì họ cũng chính là người khao khát niềm hạnh phúc cho bản thân
hơn ai hết. Cũng là phụ nữ và hiểu được điều đó Nguyễn Ngọc Tư đã đem đến cho người
đọc thấp thống bóng hình của những tâm hồn, trái tim khao khát yêu thương, khao khát
hạnh phúc vào trong nhân vật của mình.
Trong Rượu trắng những người phụ nữ trong đây ln là những người có một trái
tim khao khát tình u, đó là niềm khao khát cháy bỏng và vơ cùng trân quý. Bé được
sinh ra trong một lần mẹ Bé ngủ quên trên xuồng vì ly rượu nếp than. Mẹ bỏ Bé lại cho
bà ngoại nuôi lớn, hai bà cháu cứ vậy nương tựa vào nhau mà sống, họ sống bằng nghề
kháp rượu. Bé lớn lên nhờ “bầu vú dậy hơi men và sữa của một Ơng Thọ lạ hoắc nào
đó” nên mỗi khi bầu vú quen thuộc biến mất Bé cảm thấy mất mát. Và đó là lúc mà chú
Biền đến bên ngoại của Bé ở những buổi nhậu khuya khoắt cuối tuần. Con người ta khi
cô đơn lâu sẽ khao khát đi tìm hạnh phúc, cố gắng tìm sự hạnh phúc đó từng chút, từng
chút một và bà ngoại Bé cũng thế “Bà đã làm những việc mà nghĩ rằng chẳng tới đâu,
như để dành cho người đó mấy cái chân gà, như làm sẵn một ít dưa sả hay đưa phần
canh có đầu cá lóc tới chỗ bàn ơng ngồi. Những tín hiệu tình u bà thả lơ lửng bang
quơ đó đã được bắt gặp và hồi đáp, khơng vui sao được?” Người phụ nữ ấy khao khát
tình yêu lắm! Bà Bé vì những tín hiệu được hồi đáp “bâng quơ” mà vui vẻ sự khát khao
tình yêu của người phụ nữ mới đơn giản làm sao, chỉ một hành động nhỏ họ cũng cảm
thấy vui vẻ đến vậy. Nhưng niềm hạnh phúc ấy nhỏ nhoi rồi xa dần “những chuyến ghé
qua vội vã của chú Biền dần thưa thớt”. Bà ngoại Bé “buồn teo” khi “những tín hiệu bà
ngoại cố gắng gửi đi rơi lả tả như mớ lá mục trên mái nhà, ngai ngái cái mùi buồn và
ướt”. Sự khao khát tình u đó dần xa người phụ nữ và rồi nó biến mất khỏi bà ngoại Bé
khi chú Biền “chuyển đi làm quan trên huyện”. Bà ngoại buồn vì chút hạnh phúc của
mình đã biến mất nhưng khơng vì vậy mà bà mất đi niềm tin vào tình yêu và con đường
kiếm tìm hạnh phúc. Bà ngoại Bé lạc quan “Nguyên xã này biết bao người đàn bà nấu
cơm mà phải lãnh đòn của chồng, chỉ mỗi mình nấu cơm lãnh lương nhà nước, ý nghĩ đó
làm ngoại hài lịng. Và vẫn cịn đó hy vọng, lại gặp ai đó để yêu”. “Lại gặp ai đó để
yêu” câu nói khiến cho ta thấy rằng người phụ nữ khao khát tình u, khi có được họ có
thể vui vẻ, mất đi họ khơng q đau buồn vì họ luôn mang một niềm tin, hy vọng về hạnh
phúc, rồi sẽ gặp ai đó khác để yêu, để hạnh phúc.
Trong tác phẩm ngoài bà ngoại Bé là người phụ nữ khao khát tìm kiếm hạnh phúc
thì Bé cũng vậy. Ở cái tuổi mười sáu, Bé gặp một người cũng giống chú Biền của ngoại,
Bé cũng bắt gặp những cái nhìn như trìu mến, như hạnh phúc mà Việt trao cho Bé. Và Bé
cũng khát khao tình yêu, thứ tình yêu cháy bỏng của thiếu nữ đôi mươi. Cảm giác thấy
được hạnh phúc và ngỡ nó là hạnh phúc khiến “Bé vừa sợ vừa thích”, nhưng Việt là