Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Giáo dục Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.6 KB, 20 trang )

I.

Đặt vấn đề

Tầm quan trọng của vấn đề
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định một trong ba đột phá chiển
lược là “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao”, để thực hiện đột phá chiến lược này phải “Đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế ”[4]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của BCH TW
Đảng (khóa XI) đã nêu rõ “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là
đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo
đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến
hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia
đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học,
ngành học”; “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp
quy luật khách quan”; “Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục cơng lập và ngồi
cơng lập, giữa các vùng, miền”; “Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục,
đào tạo. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp
của tồn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo”;
“Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Đẩy
mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học;
khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngồi có uy tín. Có chính sách
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo”; “Chủ động hội
nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo”.[5]
Vì vậy, việc nhận thức cho đúng, đầy đủ, sâu sắc và hệ thống những nội
dung trên có ý nghĩa then chốt trong việc triển khai thực hiện thành công sự



1


nghiệp “Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam” và Đột phá chiến
lược về phát triển nguồn nhân lực mà Đại hội XI của Đảng đã xác định.
Bên cạnh đó, một trong những nội dung quan trọng cần nhận thức cho rõ
là phải xây dựng và hoàn thiện Thể chế - cơ chế phát triển giáo dục - đào tạo
phù hợp và hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, vì thể chế - cơ chế vừa đóng vai trị cơ sở nền tảng vừa đóng vai
trị động lực chủ yếu cho sự phát triển giáo dục trong giai đoạn mới.
Mặt khác, trong những năm qua, sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng,
Nhà nước, sự quan tâm của cả xã hội, nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, nhà quản lí
(QL), nhà khoa học, sự nghiệp GD-ĐT, khoa học và công nghệ nước ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng về quy mô, chất lượng giáo dục các cấp; công
tác QL; đội ngũ nhà giáo; công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ;
tiềm lực khoa học và công nghệ; thị trường và các dịch vụ khoa học công nghệ;
hợp tác quốc tế… Tuy nhiên, bên cạnh đó chất lượng GD-ĐT cịn bộc lộ những
hạn chế, thiếu sót và yếu kém, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề chưa đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH.
Xuất phát từ những lý do đó, bài viết nghiên cứu một số vấn đề giáo dục
Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề
Kinh tế và giáo dục có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, tác động qua lại với
nhau, trong đó sự phát triển giáo dục phụ thuộc vào sự phát triển và cơ chế vận
hành của nền kinh tế và chế độ chính trị - xã hội nói chung. Việt Nam đã trải qua
hơn 30 năm thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp sang nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, vẫn có
nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục trong nền KTTT, cụ thể:

- Đối lập giáo dục với KTTT, không chấp nhận cơ chế thị trường trong
giáo dục: Quan điểm này xuất phát từ quan niệm coi giáo dục là lĩnh vực cao
quý, bất vụ lợi, là trách nhiệm của Nhà nước và xã hội; là dịch vụ công, phúc lợi
2


chung, thể hiện sự công bằng xã hội và bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Do đó,
khơng thể coi giáo dục là hàng hóa, “trường học khơng thể là cái chợ, là nơi
buôn bán, trao đổi” (tức là, khơng thể có thị trường trong giáo dục). Tuy nhiên,
quan điểm này khơng hồn tồn phủ nhận sự liên quan giữa giáo dục với thị
trường và cho rằng: vận dụng cơ chế thị trường vào QL giáo dục, đào tạo là cần
thiết.
- Coi giáo dục là một thứ hàng hóa, dịch vụ: Chủ trương “giáo dục không
thể quay lưng với cơ chế thị trường”, cần thị trường hóa, “thương mại hóa” giáo
dục.
Theo quan điểm này, cần sử dụng cơ chế thị trường trong giáo dục để
phục vụ sự phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu thị trường, thích nghi với thị
trường thông qua việc thực hiện chức năng phát triển nguồn nhân lực, góp phần
hình thành thị trường lao động...
- Một mặt, thừa nhận vị trí đặc biệt, chức năng cao quý của giáo dục; mặt
khác, cũng coi giáo dục là hàng hóa, nhưng là hàng hóa đặc biệt: Cần vận dụng
cơ chế thị trường trong giáo dục đại học với mục đích hạn chế mặt tiêu cực, phát
huy mặt tích cực của nó. Tuy nhiên, những người theo quan điểm này cho rằng,
cơ chế thị trường chỉ tốt trong ngắn hạn, về lâu dài phải có tầm nhìn thơng minh,
sáng suốt.
Cả 3 quan điểm trên đều có điểm chung là: trong điều kiện phát triển
KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, dù muốn hay
không, chúng ta cũng phải chấp nhận cơ chế thị trường, vận dụng khôn ngoan để
tồn tại và phát triển, kể cả trong lĩnh vực giáo dục.
Trong QLNN cũng như QL hành chính Nhà nước về giáo dục thì khách

thể QL là nền giáo dục quốc gia, được cụ thể hóa thơng qua hệ thống giáo dục
quốc dân. Đối tượng QL là mọi yếu tố cấu thành nên hệ thống giáo dục quốc
dân, gồm: nhà trường, nhà giáo, người học, chương trình giáo dục, tài chính giáo
dục, nhân sự giáo dục, môi trường giáo dục… Mục tiêu QL có những sự khác
biệt đáng kể từ nước này sang nước khác, giai đoạn này sang giai đoạn khác,
3


nhưng về cơ bản nhằm bảo đảm trật tự, kỉ cương trong tổ chức, hoạt động và
phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước.
Nội dung QLNN về giáo dục Việt Nam được quy định cụ thể trong
Chương VII, Mục 1, Điều 99 của Luật Giáo dục (sửa đổi bổ sung năm 2009) [2;
tr 105-106]. Hiện nay, khi hệ thống giáo dục đã khác trước rất nhiều, phức hợp
hơn với sự tham gia của nhiều chủ thể, thì làm thế nào để QLNN về giáo dục đạt
được các kết quả mong muốn về quy mô, chất lượng, hiệu quả và công bằng xã
hội trong phát triển giáo dục là một câu hỏi mở. Bản thân QL giáo dục
cũng trở thành một hệ thống lớn, gồm các hệ thống con là QLNN trong từng
phân hệ của hệ thống giáo dục quốc dân như: QLNN về giáo dục mầm non, giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên…
II.

Nội dung
II.1

Một số khái niệm

* Quan niệm về giáo dục
Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần
có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Giáo dục là quá trình

đào tạo con người có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống
xã hội, tham gia lao động sản xuất và được thể hiện bằng cách tổ chức truyền
thụ, lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người. Như vậy, giáo
dục là một hiện tượng xã hội đặc trưng của xã hội loài người. Giáo dục nảy sinh
cùng với xã hội loài người, trở thành chức năng “sinh hoạt” không thể thiếu
được và không bao giờ mất đi ở mọi giai đoạn phát triển của xã hội.
* Quan niệm về quản lí
QL là sự tác động có ý thức của chủ thể QL lên đối tượng QL nhằm chỉ
huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng
đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan
* Quan niệm về quản lí nhà nước

4


Quản lí nhà nước (QLNN) là sự tác động tổ chức mang tính quyền lực pháp lí của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, hoặc các tổ chức khi
được Nhà nước trao quyền tới ý thức, hành vi, xử sự của cá nhân, tổ chức, cơ
quan, tới các quá trình xã hội hướng chúng vận động, phát triển nhằm đạt được
mục tiêu nhất định của QLNN và xã hội. Mục tiêu của QLNN phải phù hợp với
mục tiêu phát triển của xã hội. Đây chính là ý nghĩa, giá trị của QLNN.
* Quan niệm quản lí nhà nước về giáo dục
QLNN về giáo dục là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền
lực Nhà nước, trên cơ sở pháp luật đối với các hoạt động giáo dục, do các cơ
quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ do Nhà nước uỷ quyền nhằm phát triển sự nghiệp GD-ĐT; duy trì trật tự, kỉ
cương, thoả mãn nhu cầu giáo dục của nhân dân; thực hiện mục tiêu GD-ĐT của
Nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Hay, QLNN về giáo dục là việc Nhà nước thực hiện quyền lực công để
điều hành, điều chỉnh tất cả các hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục quốc gia. Nếu xem QLNN như là một hệ

thống, thì QLNN về giáo dục là một hệ thống bao gồm các thể chế, cơ chế QL
giáo dục; tổ chức, bộ máy QL giáo dục và đội ngũ cán bộ và công chức QL giáo
dục các cấp. Ba bộ phận này có mối liên hệ và tác động qua lại với nhau rất chặt
chẽ, chúng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm lẫn nhau trong quá trình vận hành, tác
nghiệp.
* Quan niệm về kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường (KTTT) là nền kinh tế mà trong đó người mua và người
bán tác động với nhau theo quy luật cung - cầu, giá trị để xác định giá cả và số
lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. KTTT là nền kinh tế hàng hố phát
triển ở trình độ cao, là một hình thức tổ chức sản xuất xã hội hiệu quả nhất phù
hợp với trình độ phát triển của xã hội hiện nay.
2.1 Thực trạng vấn đề nghiên cứu

5


Xuất phát từ việc cần kíp phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế,
Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung,
bao cấp chuyển sang nền KTTT và hội nhập quốc tế. Chủ trương đó nhanh
chóng được các nhà đầu tư trong, ngồi nước và đơng đảo người sản xuất, tiêu
dùng hưởng ứng. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước và có vốn nước ngồi
xuất hiện ngày càng nhiều, hộ nông dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư
thương phát triển mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mô
ngày càng lớn, chủng loại phong phú hơn. Thị trường tài chính, nhất là thị
trường tín dụng và chứng khốn phát triển khá nhanh. Thị trường bất động sản,
thị trường lao động và khoa học - cơng nghệ, dù cịn chưa phát triển một cách
chuẩn tắc, nhưng cũng đã hình thành. Xuất khẩu, nhập khẩu phát triển mạnh,
đưa nước ta trở thành nước có nền kinh tế mở ở mức độ cao trong khu vực.
Tuy nhiên, các yếu tố XHCN hoặc xuất hiện nhưng khơng có hiệu quả, hoặc
chưa rõ nét. Cụ thể là, thành phần kinh tế nhà nước tuy chiếm tỷ trọng lớn trong

nền kinh tế nhưng hiệu quả thấp. Thậm chí một số tập đồn kinh tế nhà nước lớn
lâm vào tình trạng mất vốn, phá sản, nợ nần (nợ của doanh nghiệp nhà nước đến
năm 2013 đạt con số hơn 1 triệu tỷ đồng). Hợp tác xã còn yếu kém hơn, đặc biệt
là không hấp dẫn nông dân. Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu theo chính
sách ngắn hạn, hiệu lực và hiệu quả thấp, các vấn đề về lũng đoạn thị trường,
gian lận, hàng giả… diễn ra phổ biến. Nhà nước làm mất dần niềm tin ở nhân
dân do quản lý nền kinh tế chưa thực sự hiệu quả và cơng bằng, do “lợi ích
nhóm” chi phối nên nhiều chính sách kinh tế chưa thực sự xuất phát từ lợi ích
chung của quảng đại nhân dân lao động. Sự phân hóa giàu - nghèo ngày càng
gia tăng, tệ quan liêu, lãng phí và tham nhũng chưa được ngăn ngừa hiệu quả.
Số đông người dân làm nông nghiệp có thu nhập thấp, hầu như rất khó thốt
nghèo.
Tất cả những vấn đề đó một lần nữa lại đặt ra câu hỏi: tính XHCN của nền
KTTT ở đâu? Mặc dù từ Đại hội XI đã nhấn mạnh, vấn đề đổi mới mơ hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, coi hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN
6


là một trong ba đột phá chiến lược…, nhưng nhiều năm đã trôi qua mà chủ
trương ấy vẫn chưa đem lại thành quả như mong muốn: Kinh tế vĩ mô tuy cơ
bản ổn định nhưng chưa vững chắc, còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức. Kinh tế phục hồi còn chậm, việc thực hiện tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế,
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng gặp nhiều khó khăn và chưa đáp ứng được yêu
cầu. Những kết quả bước đầu của việc thực hiện ba đột phá chiến lược chưa đủ
để tạo ra sự chuyển biến về chất trong đổi mới mơ hình tăng trưởng. Chất lượng
tăng trưởng chưa thật sự được nâng cao và duy trì một cách bền vững. Các lĩnh
vực văn hóa, xã hội cịn nhiều hạn chế, yếu kém. Cơng tác quản lý tài ngun,
mơi trường cịn nhiều bất cập. Cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí
chưa đạt u cầu, mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi. An ninh chính
trị vẫn cịn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định; bảo vệ chủ quyền

quốc gia cịn nhiều thách thức; trật tự, an tồn xã hội vẫn còn nhiều bức xúc.
Thực tiễn cũng cho thấy, nền KTTT định hướng XHCN có sự khác biệt với
nền KTTT tư bản chủ nghĩa, thể hiện chính là ở chỗ ai làm chủ sức mạnh kinh tế
và sức mạnh chính trị trong một nước. Trong nền KTTT tư bản chủ nghĩa: đó là
giới chủ; trong nền KTTT định hướng XHCN: đó là đơng đảo nhân dân lao
động.Đó là sự khác biệt duy nhất. Các mặt kỹ thuật và tổ chức còn lại của KTTT
như nguyên tắc trao đổi hàng hóa, kỹ thuật kiểm sốt nền KTTT, kỹ thuật tổ
chức quản lý để nền kinh tế quốc dân nói chung, mỗi tổ chức kinh tế nói riêng
hoạt động ở trạng thái hiệu quả đều có thể chung nhau giữa hai loại nước
(KKTT tư bản chủ nghĩa và KTTT định hướng XHCN) vì đó là thành quả tiến
hóa mang tính nhận thức và khoa học của loài người.
2.2 Thành tựu
Thế giới đang bước vào thời đại CMCN 4.0 với bản chất là dựa trên cuộc
cách mạng kỹ thuật số. Vì vậy, kinh tế số đang trở thành đặc trưng và xu hướng
phát triển kinh tế - công nghệ quan trọng nhất hiện nay. Về mặt khái niệm, tuy
có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau, nhưng đa số đều thống nhất cho
rằng kinh tế số là nền kinh tế mà các mối quan hệ, các hoạt động kinh tế và tài
7


chính được thực hiện trên nền tảng ứng dụng cơng nghệ thông tin và truyền
thông (ICT), in-tơ-nét và công nghệ viễn thông trong hệ thống mạng lưới sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường tồn
cầu. Nói một cách khái qt, kinh tế số là nền kinh tế ra đời và phát triển dựa
trên việc ứng dụng công nghệ số.
Dù đi sau trong cuộc CMCN 4.0, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên
phát triển kinh tế số với nhiều lợi thế cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam thể hiện rõ quyết tâm, định hướng và nỗ
lực hành động mạnh mẽ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam.
Trong tầm nhìn chiến lược dài hạn, Báo cáo “Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh

vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ” đề ra nhiệm vụ tận dụng CMCN 4.0 và
kinh tế số để đạt mục tiêu thoát “bẫy thu nhập trung bình”, phát triển bền vững,
đưa Việt Nam vào nhóm hai mươi nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nghị quyết số
01/NQ-CP, ngày 1-1-2019, của Chính phủ, về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 đã đề ra các nhiệm vụ thúc
đẩy kinh tế số, như xây dựng giải pháp phát triển nhân lực quốc gia đáp ứng yêu
cầu CMCN 4.0; thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia; xây dựng Chiến
lược quốc gia về CMCN 4.0; phát triển bứt phá hạ tầng viễn thông, in-tơ-nét
băng rộng và mạng di động 5G; xây dựng Đề án chuyển đổi số quốc gia, từng
bước tạo môi trường pháp lý để triển khai kế hoạch chuyển đổi số; thay đổi mơ
hình quản trị, thúc đẩy ứng dụng cơng nghệ số trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng, y tế, giáo dục, nông nghiệp, du lịch, môi trường, đô thị thơng minh... Trên
thực tế, Chính phủ đang thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng chính phủ điện tử,
chính phủ số, hình thành cổng thơng tin điện tử quốc gia, cải cách mạnh mẽ nền
hành chính theo hướng số hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khẩu
hiệu “Made in Vietnam” cũng được xem như một cương lĩnh hành động trong
phát triển kinh tế của Chính phủ Việt Nam trong thời đại CMCN 4.0.
Thứ hai, nguồn nhân lực là một lợi thế quan trọng cho việc phát triển kinh
tế số ở Việt Nam. Dân số gần 100 triệu người, 40% dân số dưới 25 tuổi, dân trí
8


khá cao, có nền tảng tốn học và cơng nghệ thông tin tương đối tốt, người Việt
Nam được xem là u thích và nhanh nhạy trong nắm bắt cơng nghệ cũng như
thích ứng khá nhanh với cái mới, đây chính là một trong những chìa khóa quan
trọng để thúc đẩy kinh tế số.
Thứ ba, Việt Nam đang có những nền tảng hạ tầng khá thuận lợi cho việc
chuyển đổi và ứng dụng số. Việt Nam có mạng lưới hạ tầng mạng viễn thông,
công nghệ thông tin và in-tơ-nét phát triển nhanh chóng, bao phủ rộng khắp và
hiện đại khơng thua kém các nước tiên tiến trên thế giới. Việt Nam có số dân

dùng in-tơ-nét, điện thoại thơng minh cao và nằm trong tốp đầu các nước có tốc
độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Thứ tư, những năm gần đây các hình thức của kinh tế số ở Việt Nam phát
triển đa dạng, nhanh chóng, hứa hẹn sự bùng nổ mạnh mẽ hơn trong những năm
tới. Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số khá
nhanh trong khu vực. Xu hướng số hóa, chuyển đổi và ứng dụng công nghệ số ở
Việt Nam đang diễn ra nhanh và rộng khắp trên nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, từ
thương mại đến giao thông, ngân hàng, y tế, giáo dục, du lịch, giải trí, quảng cáo
và các dạng ứng dụng trực tuyến... Trong đó, đáng chú ý là thương mại điện tử
(TMĐT) ở Việt Nam đang phát triển nhanh chóng cả về hình thức lẫn quy mô
thị trường, trở thành một trong mười thị trường phát triển có tiềm năng nhất thế
giới về tăng trưởng TMĐT. Các hình thức chợ trực tuyến (online), mua sắm,
kinh doanh, giải trí, cùng với đó là các dịch vụ giao nhận, các giải pháp thanh
toán trực tuyến, thanh toán thẻ, máy thanh toán bùng nổ mạnh mẽ, hiện diện
khắp mọi “ngõ ngách” đời sống, từng gia đình, khu dân cư. Trong khi các
thương hiệu TMĐT nổi tiếng thế giới đang đổ bộ mạnh mẽ vào Việt Nam, như
Amazon, Ebay, Alibaba, Shopee... thì các trang TMĐT có nguồn gốc Việt Nam
cũng đang nở rộ, một số trang, như Lazada Việt Nam, Tiki, Sendo, FPT Shop,
Điện máy xanh, Thế giới di động, Adayroi,... dần dần chiếm lĩnh thị phần trong
nước và qua đó thúc đẩy thay đổi xu hướng và hành vi mua sắm của người tiêu
dùng Việt Nam. Theo số liệu của công ty nghiên cứu thị trường Nielsen đưa ra
9


cho thấy tốc độ tăng trưởng hằng năm của thị trường TMĐT ở Việt Nam đạt tới
22% và tỷ lệ tiếp cận TMĐT lên tới 28%. Riêng năm 2018, TMĐT ở Việt Nam
tăng trưởng 30%, với tổng doanh thu bán lẻ đạt 8 tỷ USD.
2.3 Hạn chế
Một là, Việt Nam đi sau trong xu hướng kinh tế số, nhận thức, kiến thức
của nhiều cán bộ, doanh nghiệp và người dân về kinh tế số, thời cơ và thách

thức của nó đối với sự phát triển của đất nước còn chưa đồng đều ở các cấp, các
ngành dẫn tới nhu cầu, kế hoạch và hành động nắm bắt xu thế kinh tế số còn
chưa kịp thời, nhanh nhạy, sự chuyển đổi số ở một số cấp, ngành, địa phương và
các doanh nghiệp còn hạn chế. Báo cáo kinh tế Việt Nam thường niên do Viện
Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) thuộc Trường Đại học Kinh tế, Đại
học Quốc gia Hà Nội cơng bố cuối tháng 5-2019 cho thấy có tới 85% doanh
nghiệp cơng nghiệp Việt Nam vẫn nằm ngồi nền kinh tế số, và chỉ có 13% ở
cấp độ mới bắt đầu. Nhận thức về kinh tế số, nhu cầu và hành động theo xu thế
kinh tế số còn chậm chạp, chưa đồng đều, thống nhất từ trên xuống dưới, từ
chính quyền đến doanh nghiệp và người dân là một hạn chế góp phần làm chậm
xu hướng số hóa nền kinh tế Việt Nam.
Hai là, môi trường pháp lý và thể chế cho phát triển kinh tế số ở nước ta
vừa thiếu, vừa nhiều lỗ hổng, chưa chặt chẽ, đồng bộ, minh bạch và mang tính
kiến tạo. Thời gian qua, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ,
kinh tế số cùng các phương thức kinh doanh và các ý tưởng sáng tạo mới xuất
hiện và chưa có tiền lệ trước đây làm cho các cơ quan quản lý nhà nước tỏ ra
khá lúng túng trong quản lý các hoạt động kinh tế số, như vấn đề quản lý và thu
thuế đối với các hoạt động thương mại trực tuyến, nhất là kinh doanh qua các
mạng xã hội và cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, vấn đề bảo đảm quyền lợi cho
người lao động và người tiêu dùng qua thế giới mạng, việc xử lý, giải quyết
những tranh chấp, xung đột về hoạt động cũng như lợi ích của các chủ thể tham
gia các hoạt động kinh doanh, thương mại và dân sự trên môi trường số. Chúng

10


ta cũng chưa có kế hoạch và phương án ứng xử với sự xuất hiện của các dạng
đồng tiền số, thị trường Forex...
Ba là, thách thức về an ninh mạng, bảo mật, an tồn thơng tin ở nước ta.
Kinh tế số dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, in-tơ-nét chứa đựng nguy cơ

lớn về bảo mật, an tồn thơng tin, tài chính và tính riêng tư của dữ liệu, của các
chủ thể kinh tế số. Việt Nam là một trong những quốc gia bị tấn công mạng
nhiều nhất và cũng dễ bị tổn thương nhất khi bị tấn công mạng. Trong một thế
giới ngày càng kết nối, khi kỹ thuật số trở nên phổ biến, việc ngăn chặn và giải
quyết vấn đề tấn công qua mạng ngày càng trở nên cấp bách vì nó khơng chỉ là
vấn đề an ninh, an tồn kinh tế, bảo mật thơng tin cá nhân, doanh nghiệp mà còn
là vấn đề an ninh quốc gia.
Bốn là, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi sang kinh tế số.
Việt Nam đang có sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực
công nghệ thông tin và truyền thông. Giáo dục Việt Nam chưa theo kịp xu thế
phát triển vũ bão của kinh tế số, kinh tế sáng tạo của CMCN 4.0 trên thế giới
hiện nay. Vấn đề này nếu không được quan tâm đầu tư thích đáng trong thời
gian tới thì sẽ là một điểm nghẽn lớn cho phát triển kinh tế số ở nước ta.
Năm là, thói quen mua sắm theo kiểu truyền thống, tâm lý và thị hiếu tiêu
dùng, thói quen dùng tiền mặt của người Việt Nam vẫn chiếm ưu thế, chưa dễ
thay đổi mạnh mẽ trong một sớm một chiều. Hành vi kinh doanh và tiêu dùng
của người dân khu vực ngoài thành thị vẫn chưa có nhiều chuyển biến, kinh tế
số nói chung và TMĐT nói riêng vẫn có một khoảng cách lớn giữa thành thị với
các khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số của nước ta. Người tiêu dùng Việt Nam, nhất là thế hệ người tiêu dùng
trẻ và tầng lớp trung lưu giàu có vẫn có tâm lý ưa chuộng mua sắm hàng hóa và
dịch vụ trực tuyến từ các thương hiệu nước ngoài hơn so với các trang bán hàng
trực tuyến từ Việt Nam. Điều này, một mặt, do tâm lý của người tiêu dùng; mặt
khác, cũng do các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư đúng mức cho hoạt động
11


nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, thích ứng với thị hiếu khách hàng, quan tâm xây
dựng ảnh hưởng và uy tín thương hiệu, chất lượng, mẫu mã sản phẩm, dịch vụ
chăm sóc và bảo vệ người tiêu dùng sau bán hàng.

2.4. Một số biện pháp
2.4.1. Đổi mới quản lí nhà nước về giáo dục theo yêu cầu của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, giáo dục trở thành độc quyền của
Nhà nước; nhà trường chỉ là nơi chấp hành mọi kế hoạch và chỉ tiêu, pháp lệnh
mà Nhà nước giao, không cần quan tâm nhiều đến “đầu ra”.
Chúng ta không phủ nhận những thành tựu của giáo dục do cơ chế tập
trung bao cấp tạo ra, song cũng cần thấy rằng, cơ chế QL đó đã làm cho hệ
thống giáo dục thiếu tính cạnh tranh, kém năng động, sáng tạo, trở thành “mảnh
đất” cho căn bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thức tồn tại. Ngược lại, trong nền
KTTT với tính cạnh tranh quyết liệt, địi hỏi nguồn nhân lực đa dạng, chất lượng
cao, yêu cầu đổi mới giáo dục, đổi mới cơ chế QL phù hợp với yêu cầu phát
triển trong thời kì mới đang đặt ra hết sức gay gắt. Trong bối cảnh đó, rất cần vai
trị QL của Nhà nước trong giáo dục để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt trái
và những tác động tiêu cực của KTTT.
Vì vậy, những vấn đề cần quan tâm hiện nay trong QLNN về giáo dục là:
- Làm rõ quan điểm, chính sách và nguyên tắc, xây dựng khung pháp lí và
thể chế đồng bộ, tạo mơi trường pháp lí và tâm lí xã hội thuận lợi để có thể vận
dụng cơ chế thị trường trong giáo dục đại học hiệu quả nhất, phù hợp với định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trên cơ sở phân biệt rõ QLNN về giáo dục và QL của cơ sở giáo dục,
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan
QLNN về giáo dục và của các trường, thực hiện mạnh mẽ sự phân cấp QL giáo
dục, phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các trường.
- Xây dựng đồng bộ và kịp thời ban hành các văn bản pháp lí về giáo dục
trong điều kiện phát triển KTTT, tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
12


- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, QL chặt chẽ các loại hình đào

tạo, chấn chỉnh tình trạng thu – chi không minh bạch và những biểu hiện tiêu
cực, vụ lợi, cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi nhuận, hoặc xu hướng
“thương mại hóa” trong giáo dục..
Đổi mới phương thức đào tạo, thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội, gắn
nhà trường với doanh nghiệp, gắn giáo dục với nghiên cứu khoa học Giáo dục
Việt Nam đang đứng trước “bài toán” về chất lượng “đầu ra” chưa đáp ứng được
nhu cầu của thị trường lao động. Hiện nay, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế đang cần lực lượng lớn lao động có trình độ kĩ thuật cao, nhưng đào tạo chưa
đáp ứng được, trong khi nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng ra trường
lại khơng có việc làm. Chúng ta đang thừa lao động phổ thông chưa qua đào tạo,
nhưng lại thiếu lao động kĩ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia và các nhà QL, cán
bộ khoa học - cơng nghệ có trình độ cao.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng trên là chương
trình đào tạo trong các trường đại học và dạy nghề cịn nặng về lí thuyết, nhẹ về
thực hành; chưa thực sự gắn với điều kiện và nhu cầu thực tiễn của doanh
nghiệp, thị trường và xã hội. Cơ chế thị trường đòi hỏi đào tạo phải theo nhu cầu
xã hội, phải có sự tham gia, liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước - nhà trường - nhà
doanh nghiệp để cùng hỗ trợ lẫn nhau trong q trình đào tạo, sử dụng nguồn
nhân lực.
Do đó, cần đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí đào tạo, thực hiện cơ chế đấu
thầu, đặt hàng trong giáo dục. Nhà nước sẽ thực hiện cấp kinh phí đào tạo theo
cơ chế đấu thầu, đặt hàng trong đào tạo, thay vì phân bổ kinh phí cho các trường
theo dự tốn hằng năm. Việc phân bổ ngân sách Nhà nước cho các trường cần
gắn với nhu cầu và đối tượng được đào tạo, nên đánh giá hiệu quả đào tạo qua
chỉ số sinh viên có việc làm. Điều này địi hỏi các trường đại học phải gắn giảng
dạy với nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tiễn; đồng thời tích cực đổi mới
chương trình đào tạo, phương pháp dạy và học, tăng cường năng lực đội ngũ
giảng viên, đổi mới phương thức QL và đào tạo theo hướng hiện đại, hiệu quả,
13



nhằm đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng, đòi hỏi ngày càng cao của xã
hội.
Doanh nghiệp cần chủ động đặt hàng với các cơ sở đào tạo, tham gia xây
dựng chương trình đào tạo và hỗ trợ trực tiếp q trình đào tạo, thực hiện mơ
hình trường trong doanh nghiệp. Cần có cơ chế, chính sách khuyến khích các
chun gia có trình độ cao đang làm việc tại các doanh nghiệp tham gia đào tạo
sinh viên. Nhà nước đóng vai trị “bà đỡ”, là cầu nối giữa nhà trường và doanh
nghiệp, cung cấp thông tin dự báo nhu cầu nhân lực, hỗ trợ kinh phí, ban hành
cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà trường thực hiện đào tạo theo
nhu cầu xã hội. Cần thành lập Ban chỉ đạo quốc gia phụ trách vấn đề này.
2.4.2. Quản lí nhà nước đảm bảo sự thống nhất giữa phát triển giáo dục và kinh
tế
Về cơ sở lí luận, phát triển giáo dục phải đi trước một bước phát triển
kinh tế. Ngày nay các nước trên thế giới muốn phát triển kinh tế phải trên cơ sở
phát triển khoa học kĩ thuật và công nghệ, phải dựa vào nguồn nhân lực có trình
độ cao về tri thức cũng như kĩ năng và tay nghề.
Cụ thể là:
- Đa dạng hố cách làm giáo dục thơng qua đa dạng hố loại hình giáo
dục: Giáo dục chính quy, khơng chính quy và phi chính quy với nhiều thang bậc,
loại hình dài hạn và ngắn hạn với những cơ cấu linh hoạt, mềm dẻo, liên thông
về nội dung, ngành nghề, về không gian (vùng, miền) và thời gian.
- Giáo dục thích ứng với nhu cầu xã hội: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực và bồi dưỡng nhân tài” thích ứng với nhu cầu xã hội. Đào tạo nhân lực với
nhiều hình thức căn cứ vào nhu cầu xã hội, lấy hiệu quả xã hội của giáo dục làm
nền tảng. Tối ưu hoá tri thức của học sinh, sinh viên, mở rộng diện kiến thức,
tăng cường nhiều năng lực thích ứng với những biến động mới của nền KTTT,
tạo điều kiện tốt cho học sinh, sinh viên được tiếp xúc nhiều và thường xuyên
với xã hội, thực sự hiểu biết xã hội và tăng cường năng lực xử lí các vấn đề thực
tế đang diễn ra hàng ngày.

14


- Đa dạng hoá cơ cấu ngành nghề đáp ứng nhu cầu kinh tế Trung ương và
địa phương trong hợp tác quốc tế với xu thế tồn cầu hố.
- Giao quyền tự chủ, đảm bảo quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các
cơ sở giáo dục, nhất là các trường đại học để có thể thích ứng nhanh được với
KTTT. QL trường học phải dựa trên cơ sở tổ chức, sử dụng một cách khoa học
nhân lực, vật lực và tài lực của nhà trường giúp nhà trường phát triển ổn định,
bền vững, đạt hiệu quả cao nhằm thực hiện được mục đích giáo dục theo cơ chế
thị trường trong xu thế tồn cầu hố.
2.4.3. Xây dựng và hồn thiện mơi trường thể chế, pháp lý đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ hội nhập quốc tế trong điều kiện kinh tế số.
Trước hết, cần nhanh chóng xác lập và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
hiện đại ở Việt Nam cũng như Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo
hướng bảo đảm tuân thủ các quy luật khách quan của kinh tế thị trường và hội
nhập, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đầu
tư, kinh doanh trong môi trường kinh tế số; tạo lập, khuyến khích và bảo đảm
sân chơi bình đẳng, lành mạnh giữa các loại hình doanh nghiệp và thành phần
kinh tế, giữa doanh nghiệp trực tuyến và ngoại tuyến về môi trường khởi nghiệp,
đầu tư, về quyền và nghĩa vụ thuế; cải cách và hoàn thiện hệ thống luật pháp
theo yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế số, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế
trong môi trường kinh tế số. Các hoạt động kinh doanh trực tuyến và TMĐT
xuyên biên giới có nguồn gốc từ bên ngoài hiện đang hoạt động ở Việt Nam cần
được xem xét nghĩa vụ thuế, nếu không chúng ta vừa thất thu thuế, vừa vơ hình
đang bảo hộ ngược cho các doanh nghiệp số nước ngoài hoạt động ở Việt Nam.
Việc xây dựng hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế số cũng cần tính đến
xu thế phát triển và tác động của các đồng tiền kỹ thuật số, như Bitcoin, Libra
Coin, hay sự nở rộ của thị trường Forex trong giao dịch kinh tế và thị trường tài
chính ảo. Cùng với đó là hồn thiện hệ thống luật pháp và cải cách mạnh mẽ thủ

tục hành chính liên quan trực tiếp tới kinh tế số, như xây dựng luật văn bản điện
tử, chữ ký số...
15


2.4.4. Tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng cứng và mềm cho chuyển đổi số và
phát triển nền kinh tế số quốc gia.
Chính phủ đầu tư phát triển và phổ cập hóa kết cấu hạ tầng in-tơ-nét băng
thơng rộng tồn quốc, nhanh chóng triển khai các dịch vụ 5G, bảo đảm việc tiếp
cận điện năng, chú trọng phát triển các lĩnh vực công nghệ cốt lõi của CMCN
4.0. Để tạo điều kiện cho phát triển thương mại điện tử thì hệ thống thanh tốn
điện tử quốc gia, hạ tầng chứng thực chứng từ điện tử và hỗ trợ xác thực thông
tin giao dịch, các hệ thống quản lý, giám sát giao dịch điện tử, các cơ chế giải
quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử... cần sớm được hoàn
thiện. Cùng với nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng cứng, Việt Nam cần tập trung
đột phá về hạ tầng thể chế, đầu tư mạnh mẽ cho khoa học - công nghệ và giáo
dục, coi trọng đổi mới giáo dục, đào tạo theo yêu cầu của CMCN 4.0 và kinh tế
số. Điều này bao gồm xây dựng chiến lược đào tạo và thu hút tài năng cơng
nghệ trong và ngồi nước, phát triển nguồn nhân lực công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin cả về lượng và chất, đổi mới và cập nhật chương trình, giáo trình
đào tạo của thế giới gắn với xu thế phát triển kinh tế số, nhất là đào tạo nhân lực
công nghệ thơng tin, tài chính cơng nghệ trong thời đại số, tạo điều kiện để học
sinh các cấp sớm tiếp cận tri thức về công nghệ thông tin và những lĩnh vực
công nghệ lõi của CMCN 4.0.
2.4.5. Hỗ trợ nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam, đồng thời chú trọng bồi dưỡng, phổ biến, trang bị kiến thức cho đội ngũ
doanh nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu của kinh tế số và xu thế CMCN 4.0 cũng
như thích ứng với hội nhập vào thị trường thế giới trong thời kỳ mới.
Có kiến thức và tư duy về kinh tế số là quan trọng nhưng có tư duy hội nhập,
thích ứng với thị trường kinh tế số quốc tế và xu hướng CMCN 4.0 càng quan

trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ trước
môi trường cạnh tranh ngày càng mang tính quốc tế qua khơng gian mạng. Tư
duy quản trị và vận hành doanh nghiệp chuyên nghiệp, theo quy chuẩn quốc tế
cũng cần được chú ý định hình trong mỗi doanh nghiệp và tồn nền kinh tế.
16


Tiếp tục khơi dậy tinh thần dân tộc, lý tưởng và khát vọng đưa dân tộc đi tới
thịnh vượng, từ đó khơi dậy và tạo động lực cho văn hóa khởi nghiệp của người
Việt Nam, nhất là trong tầng lớp thanh niên.
Để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và tinh thần dân tộc của thanh niên trong
thời đại kinh tế số, Nhà nước cần coi trọng khu vực kinh tế tư nhân, coi đó là
động lực hàng đầu cho phát triển của đất nước nói chung và phát triển kinh tế số
nói riêng.
Chính phủ cần đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu nền kinh
tế số và đi tiên phong trong q trình số hóa bộ máy quản trị quốc gia.
Điều này bao gồm việc cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia, xây dựng
một nền hành chính cơng vụ thơng minh, gọn nhẹ, kỷ cương, liêm chính và kiến
tạo, đột phá trong tinh giản hóa và nâng cao hiệu quả quản trị của bộ máy nhà
nước từ Trung ương đến địa phương, chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy quản
trị điều hành, mạnh mẽ xóa bỏ các tổ chức quản lý trung gian, nhanh chóng và
đồng bộ số hóa bộ máy quản lý nhà nước các cấp cũng như xây dựng và triển
khai chiến lược, các chính sách thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và doanh
nghiệp.
Coi trọng công tác bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh thông tin, an ninh chính
trị, an ninh văn hóa và an ninh quốc gia nói chung qua khơng gian mạng, giám
sát và phịng, chống hiệu quả các loại tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao.
Điều này cần được chú ý cả ở cấp quốc gia cũng như trong mỗi cơ quan, đơn vị
các cấp và từng doanh nghiệp, nhất là hệ thống tài chính - tiền tệ và các cơ quan
chính phủ được số hóa.

III.

Kết luận

Giáo dục trong nền KTTT là tạo động lực cho giáo dục phát triển nhanh,
mạnh, phát triển liên tục, phù hợp và hài hoà với sự phát triển của nền KTTT.
Giáo dục coi trọng sự dân chủ, bình đẳng, cạnh tranh, xã hội hố với những
chính sách thơng thoáng giúp các cơ sở giáo dục chủ động, sáng tạo tự xây dựng
thương hiệu của mình ở trong nước cũng như trên thế giới. Hiệu quả là mục tiêu
17


quan trọng số một của giáo dục. Nhà nước cần có đường lối, chính sách hợp lí,
kịp thời và phù hợp để giáo dục thực sự là “quốc sách hàng đầu” và là động lực
phát triển KT-XH.
Là một chuyên viên công tác trong ngành giáo dục, nhận thức được vai trò
tầm quan trọng và xu thế tất yếu của giáo dục Việt Nam trong bối cảnh nền kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đòi hỏi
một chuyên viên cần rèn cho mình những phẩm chất nhất định sau:
Thứ nhất, người cán bộ quản lý giáo dục phải có bản lĩnh chính trị ln kiên
định với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Biết giữ gìn
kế thừa và phát triển những truyền thống thông minh, hiếu học của dân tộc; ln
cần kiệm, liêm chính, chí cơng, vơ tư.
Thứ hai, phải có tầm nhìn xây dựng chiến lược, chính sách giáo dục: Người
cán bộ quản lý giáo dục cần phải được trang bị về kiến thức, kỹ năng và thái độ
để xác định vị trí, vai trị, tầm nhìn, sứ mệnh của giáo dục và của cơ sở giáo dục,
từ đó có thể xây dựng được các chiến lược, chính sách phát triển giáo dục và cơ
sở giáo dục.
Thứ ba, phải có năng lực quản lý nguồn nhân lực giáo dục: Cán bộ quản lý
giáo dục cần phải thay đổi trong tư duy về vai trò và nội dung của các chính

sách phát triển và quản lý nguồn nhân lực giáo dục và cơ sở giáo dục.
Vấn đề đặt ra cho cán bộ quản lý giáo dục là biết vận dụng lý luận, cơ sở
pháp lý để triển khai các nội dung quản lý nguồn nhân lực ở cơ sở mình từ tuyển
dụng, bố trí cơng việc, phân cơng nhiệm vụ, đánh giá, khen thưởng kỷ luật,
chính sách đãi ngộ...
Thứ tư, phải có năng lực chun mơn thể hiện ở: Khả năng phân tích và giải
quyết các vấn đề tình huống, phát hiện thách thức, cơ hội, nguy cơ, đề xuất các
giải pháp tận dụng cơ hội và tập trung nguồn lực để giải quyết các vấn đề xung
yếu, đột phá của hệ thống hoặc tổ chức; Khả năng xác định đúng phương hướng
phát triển hệ thống hoặc tổ chức.

18


Phải có năng lực đổi mới tư duy; năng lực thích ứng hồ nhập và hội nhập;
năng lực hợp tác; năng lực kiểm tra đánh giá; nắm vững luật giáo dục và hiểu
biết pháp luật có liên quan; có kỹ năng phân tích tổng hợp; có lịng nhân ái, tính
trung thực và khiêm tốn; có tác phong cơng nghiệp; có tính quyết đốn; biết ứng
dụng ngoại ngữ, tin học giúp cho việc quản lý.
Thứ năm, phải có năng lực lãnh đạo ưu việt, vận dụng các phương pháp
chuyển đổi để đáp ứng vai trò và trách nhiệm của người lãnh đạo nhà trường
ngày càng lớn hơn, theo kịp các mục tiêu đổi mới của nhà trường.
Thứ sáu, phải có khả năng phát triển nhà trường lấy người học làm trung tâm,
trong đó tạo điều kiện đề người học ln nỗ lực đạt được kết quả cao nhất và
không ngừng đổi mới đến cùng. Cần có tầm nhìn tồn cảnh và hệ thống để đảm
bảo các chương trình chuyến đổi của nhà trường phải bám sát mục tiêu phát
triển quốc gia ở cấp độ cao hơn.
Người cán bộ quản lý giáo dục phải bền bỉ, kiên trì và quyết tâm trên con
đường giáo dục toàn diện học sinh, tạo điều kiện để các em phát huy được năng
lực giải quyết các vấn đề trong đời sống, có kỹ năng sống tích cực, có kỹ năng

định hướng nghề nghiệp tương lai, nhằm tham gia vào nguồn nhân lực chất
lượng cao của đất nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
Thứ bảy, phải có năng lực liên hệ giữa tầm nhìn quốc gia với trường học và
quá trình thay đổi. Bối cảnh xã hội hiện nay là vạn vật kết nối internet, mọi sự
vật, hiện tượng hay con người đều dễ dàng kết nối, liên hệ với nhau.
Vì vậy, người cán bộ quản lý giáo dục phải có một cái nhìn tổng quan, khách
quan và so sánh giữa hệ thống giáo dục Việt Nam với giáo dục của thế giới, từ
đó có những định hướng phát triển hợp lý cho giáo dục nước ta.
Thứ tám, phải có các kỹ năng khác nhau trong điều hành, giải quyết công
việc như: Tổ chức công việc của bản thân, các phương pháp, quá trình, quy trình
làm việc hàng ngày, kết hợp công việc trước mắt và lâu dài;
Biết cách làm việc với mọi người, hợp tác và tạo ra mơi trường phát huy
khuyến khích mọi người làm việc phát huy sáng tạo cá nhân; Biết kiểm tra, đánh
19


giá và sử dụng đúng năng lực của từng người; Phát hiện được vấn đề tổng quát
và chi tiết, nhận biết nhân tố động lực.
IV.

Tài liệu tham khảo

[1] Nguyễn Như An (2017). Đổi mới quản lí hoạt động giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh trung học cơ sở trong giai đoạn hiện nay. Tạp chí Khoa học Giáo
dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 145, tr 20-24.
[2] Đặng Quốc Bảo (2010). Những vấn đề cơ bản của hoạt động quản lí và sự
vận dụng vào quản lí nhà trường. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
[3] Nguyễn Song Bình - Trần Thị Thu Hà (2006). Quản lí chất lượng tồn
diện - con đường cải tiến và thành cơng. NXB Khoa học và Kĩ thuật.
[4] Ban Chấp hành trung ương Đảng (2011), Nghị quyết đại hội lần thứ XI

của Đảng, NXB CCQG, Hà Nội.
[5] Ban Chấp hành trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, NXB CCQG, Hà Nội.
[6] Bộ GD-ĐT (2017). Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp giảng viên chính hạng II. NXB Giáo dục Việt Nam.
[7] Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2005). Những xu thế quản lí hiện
đại và vận dụng vào quản lí giáo dục. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[8] Vũ Ngọc Hải (2005). Giáo dục Việt Nam và tác động của WTO. Tạp chí
Khoa học Giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 2, tr 3-7.
[9] Vũ Ngọc Hải - Đặng Bá Lãm - Trần Khánh Đức (2007). Giáo dục Việt
Nam đổi mới và phát triển hiện đại hóa. NXB Giáo dục.
[10] Phạm Thành Nghị (2000). Quản lí chất lượng giáo dục đại học. NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
[11] Quốc hội (2019). Luật Giáo dục. NXB Lao động - Xã hội.

20



×