Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tư tưởng chính trị cơ bản của tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” và ý nghĩa đương thời giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.45 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM MÁC-LÊNIN,
HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH TRỊ

Đề tài:
Tư tưởng chính trị cơ bản của tác phẩm: “Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”
và ý nghĩa đương thời giai đoạn hiện nay

Hà Nội - 2023


1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
NỘI DUNG CHÍNH.................................................................................................4
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA
GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƯỚC”...........................4
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm...........................................................................4
1.2. Bố cục của tác phẩm...........................................................................................5
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CƠ BẢN TRONG TÁC
PHẨM........................................................................................................................6
2.1. Lý luận về gia đình, hơn nhân và tình u nam - nữ...........................................6
2.2. Sự ra đời và phát triển của chế độ tư hữu và giai cấp.......................................14
2.3. Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và sự tiêu vong của nhà nước.........................17
2.4. Mục tiêu các cuộc cách mạng trong lịch sử......................................................22
CHƯƠNG 3. Ý NGHĨA, GIÁ TRỊ ĐƯƠNG THỜI CỦA TÁC PHẨM...........25
KẾT LUẬN.............................................................................................................27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................28



2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống các trước tác kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, tác phẩm:
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của Ăngghen là một
tác phẩm triết học lớn, được Ăngghen năm 1884. Tác phẩm dựa trên những tư liệu
trong tác phẩm Xã hội cổ đại của Moócgan. Trong tác phẩm này, Ăngghen đã trình
bày một cách có hệ thống và phát triển một cách sáng tạo những vấn đề mà
Moócgan đã đề cập. Ăngghen xuất phát từ lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã uốn nắn và bổ sung cho nhiều quan điểm của
Moócgan và đề xuất những quan điểm mới có tính khoa học và cách mạng. Tác
phẩm đã trình bày một cách có hệ thống về xã hội cơng xã ngun thủy của lồi
người, là một sự bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác. Vậy cụ thể trong
tác phẩm chứa đựng những tư tưởng chính trị cơ bản gì, đồng thời ý nghĩa, giá trị
của nó với đương thời hiện nay như thế nào?
Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “y, em xin chọn đề tài: “n đề tài: “ tài: “i: “Tư tưởng chính trị cơ bản của tác phẩm:
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” và ý nghĩa đương
thời giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu làm sáng tỏ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở giới thiệu chung về tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước”; đề tài tập trung phân tích nội dung tư tưởng chính trị
cơ bản trong tác phẩm. Qua đó liên hệ ý nghĩa, giá trị đương thời của nó với giai
đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát về tác phẩm: hồn cảnh ra đời, cấu trúc
- Phân tích nội dung tư tưởng chính trị cơ bản trong tác phẩm.
- Liên hệ ý nghĩa, giá trị đương thời của nó với giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: tư tưởng chính trị trong tác phẩm “Nguồn gốc của


3
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
* Phạm vi nghiên cứu: trong bối cảnh lịch sử xã hội từ trước đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận: chủ nghĩa Mác – Lênin về chế độ
xã hội; những quan điểm, tư tưởng về chế độ tư hữu và nhà nước của ơng.
Bên cạnh đó đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương
pháp logic – lịch sử, thu thập tài liệu, phân tích – tổng hợp…
5. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
đề tài gồm 03 chương chính sau:
Chương 1. Giới thiệu chung về tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước”.
Chương 2. Nội dung tư tưởng chính trị cơ bản trong tác phẩm
Chương 3. Ý nghĩa, giá trị đương thời của tác phẩm


4

NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC PHẨM
“NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ
TƯ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƯỚC”
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học khảo cổ, dân tộc học và xã hội học đã có những
bước phát triển đáng kể, tạo tiền đề để giải thích những vấn đề về giai đoạn tiền sử

của thời đại văn minh. Trong gần 40 năm sinh sống trong cộng đồng người In-đi-an
ở Bắc Mỹ, L.Moóc-gan - nhà bác học, nhà dân tộc học và là nhà nghiên cứu lịch sử
nổi tiếng người Mỹ đã phát hiện và khôi phục lại những nét chủ yếu về cơ sở lịch
sử của quá trình hình thành và phát triển của thời đại văn minh. L.Moóc-gan đã
trình bày những nghiên cứu của mình trong tác phẩm "Xã hội cổ đại, hay là sự
nghiên cứu những tuyến tiến bộ của lồi người từ mơng muội, dã man đến văn
minh’’ xuất bản năm 1877, đây là tư liệu thực sự có ý nghĩa trong việc chứng minh
tính đúng đắn và khoa học về quan điểm duy vật lịch sử. C.Mác đã đọc và ghi chép
kỹ trong bản thảo "Tóm tắt tác phẩm của L.Moóc-gan", dự định viết một cuốn sách
viết về vấn đề này chưa được thực hiện thì ơng mất. Đầu năm 1884, khi chỉnh lý
những di cảo của C.Mác, Ph.Ăngghen đã tìm thấy bản thảo viết tay này, thực hiện
ý nguyện của C.Mác, ông đã sử dụng các nhận xét và phê phán của C.Mác về tác
phẩm của L.Mc-gan để viết "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước". Tác phẩm đã chứng minh sự đúng đắn những quan niệm duy vật lịch
sử, hoàn thành mong muốn mà người bạn của mình đang dở dang.
Cuối tháng 3 năm 1884, Ph.Ăngghen bắt tay vào viết tác phẩm “ Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước”, ông đã sử dụng những nghiên cứu của
L.Mc-gan, phân tích trên quan điểm mác-xít để chỉ ra q trình phát triển của các
hình thức gia đình trong xã hội xã hội lồi người; điều kiện ra đời, bản chất, đặc
trưng và sự tiêu vong của giai cấp và nhà nước....Ngày 26 tháng 5 năm 1884,
Ph.Ăngghen đã hồn thành tác phẩm với chín chương, do sự cấm đốn của nhà cầm
quyền Đức, ơng phải gửi bản thảo tới Xuy-rích để xuất bản. Đầu tháng 10 năm
1884, tác phẩm đã ra mắt bạn đọc tại Xuy-rích.
Mặc dù bị nhà cầm quyền Đức gây trở ngại trong quá trình xuất bản và phát hành,
nhưng "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" vẫn được tái
bản hai lần vào các năm 1886 và 1889 tại Stút-gát. Sau khi tích luỹ thêm được
những tài liệu lịch sử, khảo cổ học... về xã hội loài người ở thời kỳ nguyên thuỷ,
đặc biệt là khi có các cơng trình nghiên cứu của các nhà bác học Bắc-hơ-phen,
Mắc-Lê-man, Cơ-va-lép-xki...Năm 1891, Ph.Ăngghen đã có những sửa chữa và bổ
sung cho tác phẩm của mình, những thay đổi này được ơng thể hiện trong phần chú

thích ở cuối trang.


5
Tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" đã được
xuất bản nhiều lần, với nhiều thứ tiếng ở nhiều quốc gia khác nhau.
1.2. Bố cục của tác phẩm
Tác phẩm gồm có 2 lời tựa: Lời tựa cho lần xuất bản thứ nhất vào đầu tháng 10
năm 1884, lời tựa cho lần xuất bản thứ 4 năm 1891 và 9 chương.
- Chương I: Những giai đoạn văn hoá tiền sử;
- Chương lI: Gia đình;
- Chương III: Thị tộc I-rơ-qua;
- Chương IV: Thị tộc Hy Lạp;
- Chương V: Sự ra đời của Nhà nước A-ten;
- Chương VI: Thị tộc và Nhà nước ở La Mã;
- Chương VII: Thị tộc của người Kento và của người Giéc Manh;
- Chương VIII: Sự hình thành Nhà nước ở người Giéc Manh;
- Chương IX: Thời đại dã man và thời đại văn minh.


6
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
CƠ BẢN TRONG TÁC PHẨM
2.1. Lý luận về gia đình, hơn nhân và tình yêu nam - nữ
Trên cơ sở những dữ liệu của L.Moóc-gan, sử dụng những nhận xét của
C.Mác trong "Tóm tắt tác phẩm của L.Moóc-gan", và bằng kiến thức hiểu biết của
mình về lịch sử và xã hội của người Hy-lạp, La-mã, người Ai-rơ-len, người Indian
ở bắc Mỹ, người Giéc-manh cổ đại, Ph.Ăngghen đã phác hoạ lên một bức tranh
rộng lớn và đa dạng về nguồn gốc hình thành, quá trình phát triển của các hình thức
hơn nhân, vai trị và mối quan hệ của chế độ tư hữu đối với hơn nhân trong các hình

thái kinh tế xã hội; hơn nhân trong gia đình tư sản; tình u nam nữ .v.v...
- Về nguồn gốc của gia đình.
Ph.Ăngghen đã lý giải một cách khoa học và duy vật về quá trình ra đời và
phát triển của gia đình và các hình thức hơn nhân trong các hình thái kinh tế xã hội,
đặc biệt ơng đã chỉ ra vai trị của gia đình trong đời sống xã hội và mối quan hệ
giữa hơn nhân với các hình thức sở hữu.
Tán thành với L.Moóc-gan, Ph.Ăngghen cho rằng những giai đoạn đầu tiên
trong tiến trình lịch sử phát triển của xã hội lồi người, những quan hệ gia đình và
những mối quan hệ thân tộc có ảnh hưởng rất lớn đên sự phát triển của xã hội. Tuy
nhiên, trước sự phát triển của lực lượng sản xuất, các hình thức hơn nhân và kết cấu
của gia đình bị tác động hết sức sâu sắc. Thông qua ba lần phân công lao động xã
hội, lực lượng sản xuất phát triển hết sức mạnh mẽ, gắn liền với đó là sự tăng lên
của năng suất lao động và sự ra đời của chế độ tư hữu đã phá vỡ kết cấu của xã hội
dựa trên những mối quan hệ huyết tộc và thay thế nó xuất hiện những mối quan hệ
xã hội mới bị chi phối bởi những quan hệ kinh tế.
Cũng như L.Moóc-gan, Ph.Ăngghen cho rằng gia đình là yếu tố năng động,
nó ln ln phát triển và biến đổi từ hình thức thấp lên hình thức cao và sự thay
đổi này gắn liền với những thay đổi trong phương thức sản xuất ra của cải vật chất.
Theo ông, trong thời kỳ đầu của lịch sử, khi mà nền sản xuất còn kém phát triển,


7
con người phải dựa vào nhau để kiếm sống và chống đỡ những ảnh hưởng tiêu cực
của thiên nhiên, nhân loại đã từng tồn tại những hình thức khác nhau của chế độ
quần hơn. Ơng viết: "Và thực vậy, chúng ta thấy hình thức gia đình nào là cổ nhất,
sớm nhất, hình thức mà chúng ta có thể chứng minh được một cách chắc chắn là có
tồn tại trong lịch sử và ngày nay chúng ta vẫn có thể nghiên cứu được ở một nơi
nào đó? Đấy là hình thức quần hơn, một hình thức hơn nhân trong đó trọn từng
nhóm đàn ơng và trọn từng nhóm đàn bà quan hệ tình dục với nhau...". Cùng với sự
phát triển của sản xuất, gia đình đã phát triển sang hình thức gia đình huyết tộc, đây

là giai đoạn đầu của gia đình mà : "ở đây, các tập đồn hơn nhân đều phân theo thế
hệ: trong phạm vi gia đình, tất cả các ông và bà đều là vợ chồng với nhau, rồi đến
lượt con cái của họ, nghĩa là những người cha và các bà mẹ cũng đều là vợ chồng
của nhau, rồi đến lượt con cái của những người này cũng hợp thành một nhóm vợ
chồng thư tư". Tiếp đó là sự ra đời của gia đình pu-na-lu-an, đây là một bước tiến
trong sự phát triển của các hình thức gia đình, ơng viết: "Nếu bước đầu tiên trong tổ
chức gia đình là huỷ bỏ quan hệ tình dục giữa cha mẹ và con cái, thì bước tiến thứ
hai là huỷ bỏ quan hệ tình dục giữa anh em trai và chị em gái... Bước đó được thực
hiện dần dần chắc là bắt đầu bằng việc huỷ bỏ quan hệ tình dục giữa những anh em
trai và chị em gái cùng một mẹ đẻ ra (tức là những anh em trai và chị em gái về
phía mẹ); trước hết là tiến hành trong những trường hợp cá biệt, rồi dần dần trở
thành thơng lệ....". Gia đình một vợ một chồng xuất hiện trên cơ sở từ gia đình cặp
đơi vào giai đoạn giữa và giai đoạn cao của thời đại dã man, sự xuất hiện của hình
thức gia đình đánh dấu sự chuyển sang thời đại văn minh. Ph.Ăngghen đã chỉ ra
rằng chế độ một vợ một chồng được hình thành chủ yếu do sự phát triển của lực
lượng sản xuất làm nảy sinh chế độ tư hữu và sự phân hoá thành các giai cấp trong
xã hội và chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu tiên khơng dựa trên
những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế, sự ra đời của hình
thức gia đình này đánh dấu sự thắng lợi của sở hữu tư nhân đối sở hữu công cộng.
Quá trình này gắn liền với sự phát triển của chế độ tư hữu, nền tảng của hình


8
thức gia đình ấy "dựa trên quyền thống trị của người chồng, nhằm chủ đích là làm
cho con cái sinh ra phải có cha đẻ rõ ràng khơng ai tranh cãi đựoc và sự rõ ràng về
dịng dõi đó là cần thiết, vì những đứa con đó sau này sẽ được thừa hưởng tài sản
của người cha với tư cách là những người kế thừa trực tiếp"5 và Ph.Ăngghen kết
luận: "việc chuyển sang chế độ tư hữu hoàn toàn được thực hiện dần dần và sông
sông với việc chuyển từ hôn nhân cặp đôi sang chế độ một vợ, một chồng. Gia đình
cá thể bắt đầu trở thành đơn vị kinh tế của xã hội".

Bên cạnh vai trò của nhân tố kinh tế đối với sự phát triển của hôn nhân và
các hình thức gia đình, Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra vai trò của những yếu tố di
truyền sinh học đối với việc thúc đẩy của các hình thức hơn nhân và gia đình, ơng
viết: "Khi nảy sinh ra quan niệm cho rằng quan hệ tình dục giữa những người con
cùng mẹ là khơng được phép, thì quan niệm ấy đã có tác dụng trong việc phân nhỏ
những cộng đồng gia đình cũ và thành lập cộng đồng gia đình mới... Một hay nhiều
nhóm chị em gái trở thành hạt nhân của một cộng đồng, còn những anh em trai
cùng mẹ của họ lại trở thành hạt nhân của cộng đồng khác". Dưới sự tác động của
nhân tố kinh tế, đặc biệt là qua các lần phân công lao động xã hội và sự nhận thức
về qui luật đào thải sinh học, các hình thức gia đình đã khơng ngừng phát triển,
Ph.Ăngghen kết luận: “Vậy sự phát triển của gia đình trong thời đại ngun thuỷ là
sự thu hẹp khơng ngừng của cái phạm vi mà lúc đầu bao gồm tồn thể bộ lạc, trong
đó tình trạng cộng đồng hơn nhân giữa nam và nữ thống trị. Bằng con đường dần
dần cấm đốn những người bà con thân thuộc khơng được lấy nhau, trước tiên là
cấm bà con gần nhất, rồi đến bà con xa hơn, và cuối cùng cả đến những người bà
con bên vợ nữa, cho nên trên thực tế, bất cứ hình thức quần hơn nào cũng khơng
thể tồn tại được, và rốt cuộc chỉ cịn có từng đơi vợ chồng gắn bó với nhau bằng
những mối liên hệ rất lỏng lẻo”.
- Về vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Trên cơ sở các cơng trình nghiên cứu của L.Mc-gan, Bắc-hơ-phen, Cơ-valép-xki và những tìm tịi của mình Ph.Ăngghen cho rằng vị trí và vai trò của người


9
phụ nữ trong gia đình trong các xã hội ln thay đổi. Sự thay đổi này gắn liền với
sự phát triển của lực lượng sản xuất, các hình thức sở hữu và các hình thức hơn
nhân gia đình, đây là một quá trình lâu dài, bắt đàu từ thời đại dã man đến thời đại
văn minh với nhiều giai đoạn khác nhau.
Trong các gia đình dưới chế độ cộng sản ngun thuỷ người phụ nữ có một
vai trị hết sức quan trọng, điều này xuất phát từ những đặc trưng kinh tế của xã
hội. Nền kinh tế trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ kém phát triển, cuộc sống phụ

thuộc vào tự nhiên, vì vậy người phụ nữ có một vị trí kinh tế đáng kể. Theo
Ph.Ăngghen thì chính Bắc-hơ-phen đã phát hiện ra rằng" kinh tế gia đình cộng sản
- trong đó, phần đơng phụ nữ, nếu khơng phải là tất cả phụ nữ, đều cùng thuộc một
thị tộc duy nhát, cịn đàn ơng thì thuộc nhiều thị tộc khác nhau, - là cơ sở thực hiện
quyền thống trị của người đàn bà, cái quyền thống trị phổ biến khắp mọi nơi trong
thời ngun thuỷ". Chính vì vậy, trong giai đoạn này, thân tộc chỉ xác lập theo hệ
mẹ, " người ta không biết chắc chắn ai là cha của một đứa trẻ, nhưng người ta lại
biết rõ ai là mẹ nó", do đó, "dịng dõi chỉ chỉ có thể được xác định về bên mẹ mà
thơi, và vì vậy, chỉ có nữ hệ là được thừa nhận". Tuy nhiên, trước sự phát triển của
nền sản xuất xã hội, gia đình đã có những thay đổi đáng kể, gia đình cặp đơi xuất
hiện, vị trí của người phụ nữ trong gia đình đã có những bước giảm sút, trong giai
đoạn này thì "một người dàn ơng sống với một người đàn bà, song việc có nhiều vợ
và việc khơng chung tình khi có dịp vẫn là quyền của người đàn ông, mặc dù trong
trường hợp nhiều vợ là rất hiếm do những nguyên nhân kinh tế; nhưng thường thì
những người phụ nữ lại phải triệt để chung tình trong thời gian chung sống với
chồng, và tội ngoại tình của họ sẽ bị trừng trị một cách tàn ác". Nếu như trước đây,
tài sản thừa kế trong thị tộc được giao cho những người có dịng dõi theo hệ mẹ,
những tài sản này thường cũng khơng thực sự có giá trị lắm. Tuy nhiên, khi mà của
cải dần dần tăng thêm thì, một mặt, trong gia đình của cải đó mang lại cho người
chồng một địa vị quan trọng hơn người vợ và, mặt khác, của cải đó khiến cho
người chồng có xu hướng lợi dụng địa vị vững vàng hơn ấy để đảo ngược trật tự kế


10
thừa cổ truyền đặng có lợi cho con cái mình. Nhưng chừng nào mà dịng dõi tính
theo mẫu quyền ấy vẫn cịn thịnh hành thì điều đó vẫn khơng thực hiện được. Vì
vậy, trước hết cần phải xố bỏ chế độ tính dịng dõi theo mẫu quyền đi đã, và chế
độ đó đã bị xố bỏ. Q trình chuyển từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền
đánh dấu sự thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng, tán thành với
quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng "sự phân công lao động đầu tiên là sự

phân công giữa người đàn ông và đàn bà trong việc sinh con đẻ cái", theo ơng thì
"chế độ mẫu quyền bị lất đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất tồn thế giới của giới
nữ". Địa vị của người phụ nữ bị giảm sút một cách thảm hại, từ chỗ là người nắm
giữ quyền lực trong gia đình, người phụ nữ chỉ đóng vai trị là "cơng cụ giải trí của
đàn ơng", cịn người đàn ơng thì chiếm giữ quyền lực một cách tuyệt đối "ngay cả ở
trong nhà, người đàn ông cũng nắm lấy quyền cai quản, cịn người đàn bà thì bị hạ
cấp, bị nô dịch, bị biến thành nô lệ cho sự dâm đảng của đàn ông, thành một công
cụ sinh đẻ đơn thuần". Sự phát triển của sở hữu tư nhân không chỉ là nguyên nhân
của những xung đột, bất bình đẳng trong xã hội mà nó cịn tác động hết sức mạnh
mẽ đến vai trò của người phụ nữ trong gia đình, theo Ph.Ăngghen thì sự đối lập
giai cấp đầu tiên xuất hiện trong lịch sử trùng với sự phát triển của sự đối kháng
giữa chồng và vợ trong hôn nhân cá thể, và sự áp bức giai cấp đầu tiên là trùng với
sự nô dịch của đàn ông đối với đàn bà.
Sau khi phê phán sự áp bức đối với người phụ nữ, Ph.Ăngghen đã chỉ ra
những điều kiện và nguyên tắc để giải phóng người phụ nữ khỏi sự áp bức trong
gia đình và xã hội, theo ơng đó là hôn nhân phải được xác lập trên cơ sở của tình
u nam nữ và cần phải xố bỏ sự bất bình đẳng vè kinh tế giữa người đàn ơng và
người đàn bà trong gia đình cũng như là sự bất bình đẳng về kinh tế giữa các tầng
lớp dân cư trong xã hội. Ông đã chỉ ra rằng: "điều kiện tiên quyết để giải phóng phụ
nữ là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia nền sản xuất xã hội, và điều kiện đó
lại địi hỏi phải làm cho gia đình cá thể khơng cịn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa".
Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra những điều kiện và tiền đề cần thiết để xây dựng


11
chế độ hơn nhân gia đình trong xã hội mới. Ph.Ăngghen cho rằng, xoá bỏ chế độ
tư hữu, thực hiện cơng hữu hố các tư liệu sản xuất, phát triển của nền đại công
nghiệp sẽ tạo ra những tiền đề để giải phóng người phụ nữ và xây dựng quan hệ gia
đình bình đẳng, hạnh phúc. Chỉ có nền cơng nghiệp hiện đại, ngày càng có xu
hướng biến lao động tư nhân của gia đình thành lao động ngành cơng nghiệp cơng

cộng mới có thể giải phóng được người phụ nữ khỏi những ràng buộc của cuộc
sống gia đình để tham gia vào các hoạt động xã hội. Ông viết: "....đại công nghiệp
đã giật được người đàn bà ra khỏi nhà, đem họ ra thị trường lao động, vào công
xưởng, và thường biến họ thành người nuôi dưỡng của gia đình, thì trong gia đình
người vơ sản, những tàn tích cuối cùng của quyền thống trị của người đàn ông đã
mất mọi cơ sở...". Lúc đó, quan hệ vợ chồng sẽ được mở sang một trang mới, mà
theo ông: "... chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng xã hội, trong đó các cơ sở
kinh tế từ trước tới nay của chế độ một vợ, một chồng, cũng như cơ sở của điều bổ
sung cho nó là nạn mãi dâm, đều nhất định bị tiêu diệt...các tư liệu sản xuất mà
được chuyển thành tài sản xã hội thì chế độ lao động làm thuê, giai cấp vô sản cũng
sẽ biến mất, và đồng thời cũng sẽ khơng cịn tình trạng một số phụ nữ... cần thiết
phải bán mình vì đồng tiền nữa. Tệ mại dâm sẽ mất đi, và chế độ một vợ, một
chồng không những không suy tàn, mà cuối cùng lại còn trở thành hiện thực - ngay
cả đối với đàn ông nữa". Sự phát triển của gia đình một vợ, một chồng sẽ là một
bước tiến gần sự hồn tồn bình đẳng về mọi quyền lợi giữa nam và nữ, như điều
L.Mc-gan đã viết: "Gia đình một vợ, một chồng đã được cải tiến ngay từ khi bắt
đầu thời đại văn minh và được cải tiến rất rõ rệt trong thời hiện đại...hình thức đó
cịn có thể được hoàn thiện thêm nữa, cho tới khi đạt đến sự bình đẳng giữa nam và
nữ". Đây là quan điểm tiến bộ của L.Moóc-gan đã được Ph.Ăngghen tiếp nhận để
phát triển quan điểm tình u, hơn nhân và gia đình.
- Về hơn nhân và gia đình dưới chế độ tư sản.
Trong quá trình nghiên cứu các hình thức gia đình và hơn nhân dưới chế độ
tư hữu, Ph.Ăngghen đã đề cập đến hơn nhân trong gia đình tư sản. Theo ơng thì các


12
cuộc hôn nhân của giai cấp thống trị là một việc có tính tốn lợi hại, do cha mẹ thu
xếp, và mục tiêu của các cuộc hôn nhân là nhằm duy trì sự kế thừa tài sản, cũng
giống như trong các xã hội ttòn tại chế độ tư hữu trước đây. Điều này luôn luôn
đúng, kể cả trong môi trường đạo Thiên chúa hay đạo Tin lành thì hơn nhân trong

chế độ tư sản “… đều dựa trên địa vị giai cấp của đơi bên, vì vậy, hơn nhân ln
ln là hơn nhân có tính tốn… Hơn nhân có tính tốn đó thường biến thành sự sản
xuất dâm ti tiện nhất – có khi là của cả đơi bên, nhưng thơng thường nhất là về phía
người vợ. Nếu ở đây, người đàn bà có khác với gái đĩ thường thì chỉ là vì người đó
khơng bán thể xác mình từng thời gian như một người nữ công nhân làm thuê bán
sức lao động của mình, mà mãi mãi, như một nữ nơ lệ". Ơng đã chỉ ra sự hạn chế
của nền sản xuất tư sản đó là "biến mọi thứ thành hàng hoá" và hợp đồng hoá mọi
quan hệ xã hội kể cả hôn nhân, theo ông hôn nhân dưới chế độ tư sản "chỉ hoàn
toàn phụ thuộc vào những lý do kinh tế mà thôi...người ta định giá không những
đàn bà, mà cả đàn ông nữa - hơn nữa, định gía khơng phải theo phẩm chất cá nhân
mà theo tài sản của họ". Mặc dù, xét về mặc hình thức thì hơn nhân dưới chế độ tư
sản được coi là một hợp đồng, "một giao kèo có tính chất pháp lý, hơn nữa lại là
một giao kèo quan trọng nhất trong tất cả mọi giao kèo vì nó định đoạt cả thể xác
lẫn tinh thần trong suốt cả đời họ" nhưng chủ thể ký hợp đồng đó khơng được thực
sự được tự nguyện và bình đẳng mà điều này phụ thuộc vào sự sắp xếp của cha mẹ
nhằm đạt được các lợi ích kinh tế và chính trị nhất định.
Với cơ sở để thiết lập hôn nhân như vậy, gia đình tư sản phải đương đầu với
nhiều mâu thuẫn, dẫn tới nhiều kết cục ngồi ý muốn, đó là tệ mãi dâm và nạn
ngoại tình. Tệ mại dâm một hiện tượng xã hội, là nguyên nhân góp phần làm tan vỡ
hạnh phúc gia đình và làm bại hoại nhân cách con người dưới chế độ tư sản. Ông
viết: "Trong giới phụ nữ, tệ mại dâm chỉ làm truỵ lạc những người nào không may
đã trở thành nạn nhân của tệ nạn đó, và ngay những người ấy cũng khơng truỵ lạc
tới mức như người ta vẫn tưởng. Ngược lại, tệ mại dâm đã làm bại hoại nhân cách
của toàn thế giới đàn ơng của nhân loại. Chính vì thế mà chẳng hạn, trong mười


13
trường hợp kéo dài thời kỳ đính hơn thì chín trường hợp là một trường học thật sự
để huấn luyện tệ ngoại tình sau này". Điều này“làm cho mâu thuẫn chứa đựng
trong chế độ một vợ, một chồng phát triển đầy đủ nhất: Chế độ hê-ta-ia, về phía

người chồng là chế độ hê-ta-ia bừa bãi, về phía vợ là ngoại tình lu bù"24 và những
người con trai ít nhiều được lựa chọn vợ chồng trong cùng giai cấp thì chế độ hê-taia của người chồng được thực hành ít kiên quyết hơn, và tệ ngoại tình của vợ cũng
ít thành lệ hơn. Song “cũng chỉ mang lại cho cuộc sống chung một nỗi buồn nặng
trĩu mà người ta gọi là hạnh phúc gia đình".
- Quan niệm về tình yêu nam nữ và tự do hôn nhân.
Ph.Ăngghen cho rằng để xây dựng chế độ hôn nhân bền vững và cuộc sống
gia đình hạnh phúc thì hơn nhân phải bắt nguồn từ tình u nam nữ và sự tự do hơn
nhân.
Nghiên cứu các cung bậc và và tìm hiểu bản chất đích thực của tình u nam
nữ cũng như vai trị của tình u đối với hơn nhân gia đình, theo Ph.Ăngghen thì
trong thời trung cổ khơng thể nói đến tình u cá nhân giữa trai gái được. Tuy
nhiên, với vẻ đẹp tự nhiên, bao giờ cũng làm nảy nở trong đôi bên nam nữ sự thèm
muốn có quan hệ tình dục với nhau, nhưng từ đó đến tình u nam nữ như chúng
ta thấy ngày nay, thì cịn vơ cùng xa. Bởi vì, các cuộc hơn nhân trong giai đoạn này
đều do cha mẹ quyết định thay con cái, và con cái đều yên tâm vâng theo. Nếu
"người ta thấy có đơi chút tình u giữa vợ chồng, thì tình u đó khơng phải là
một sở thích chủ quan, mà là một nghĩa vụ khách quan; không phải là cơ sở của
hôn nhân, mà là điều bổ sung cho hôn nhân". Ông cho rằng tình yêu nam nữ ngày
nay khác về căn bản với tình dục đơn thuần, nó địi hỏi phải là sự rung cảm thực sự
giữa đôi bên và chính điều này nó tạo nên "một sức mạnh và sự bền bỉ đến mức
khiến cho hai bên thấy không lấy được nhau và phải xa nhau là một điều đau khổ
lớn nhất; để lấy được nhau, hai người phải đánh nước liều, có khi phải hy sinh cả
tính mạng; điều đó, trong thời cổ, hoạ chăng chỉ xảy ra trong trường hợp ngoại tình
mà thơi". Theo Ph.Ăngghen, tình u đích thực giữa nam và nữ là nền tảng cho hôn


14
nhân bền vững, và cùng với nó là quyền tự do kết hôn giữa nam và nữ dựa trên cơ
sở tình u. Tuy nhiên, dưới chế độ tư hữu khơng thể có quyền tự do hơn nhân, bởi
vì, quyền này gắn chặt với quyền thừa kế tài sản và việc duy trì địa vị chính trị, và

quyền này được quyết định bởi cha mẹ của đôi bên. Tự do hôn nhân như một
nghịch lý, nó khơng thể có được ở giai cấp bóc lột, nhưng nó lại tồn tại một cách
hiện hữu ở giai cấp bị bóc lột, ơng viết: "giai cấp thống trị bị chi phối bởi những
ảnh hưởng kinh tế mà mọi người đều biết, cho nên những trường hợp thực sự tự do
kết hôn trong giai cấp đó là ngoại lệ; cịn trong giai cấp bị áp bức, như chúng ta đã
thấy, những cuộc hôn nhân thật sự tự do đó lại là thơng lệ". Muốn cho quyền tự do
kết hôn được thực hiện đầy đủ và phổ biến thì phải xố bỏ nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa cũng như các quan hệ tài sản do nền sản xuất ấy tạo ra, phải gạt bỏ được tất
cả những lý do kinh tế - những lý do phụ nhưng vẫn đóng vai trị quyết định trong
các cuộc hôn nhân. Ph.Ăngghen cho rằng khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tiêu
vong, tình yêu nam nữ sẽ là nền tảng vững chắc cho hơn nhân gia đình và điều này
sẽ được quyết định bởi "một thế hệ mới sẽ lớn lên: một thế hệ đàn ông không bao
giờ phải dùng tiền hoặc dùng những phương tiện quyền lực xã hội khác để mua sự
hiến thân của người đàn bà, và một thế hệ đàn bà không bao giờ phải hiến mình cho
đàn ơng vì một lý do nào khác ngồi tình u chân chính, hoặc phải từ chối khơng
dám hiến mình cho người u vì sợ những hậu quả kinh tế của sự hiến thân đó".
2.2. Sự ra đời và phát triển của chế độ tư hữu và giai cấp
Theo Ph.Ăngghen thì chế độ tư hữu là nguồn gốc của các mâu thuẫn giai cấp,
đồng thời là đòn bẩy phá huỷ cơng xã cũ. Do đó, nghiên cứu về sự ra đời của chế
độ tư hữu và giai cấp là một trong những mục đích của ơng khi viết tác phẩm
"Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước". Trong tác phẩm này,
trên cơ sở khảo sát quá trình phát triển sự phân công lao động xã hội ông đã chỉ ra
những qui luật, điều kiện ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu và giai cấp.
Quá trình ra đời, phát triển và tồn tại của chế độ thị tư hữu gắn liền với giai
cấp ở thời kỳ đầu, trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất còn kém phát triển,


15
công cụ lao động lúc này mới chủ yếu là bằng đá và gậy gộc, cung tên .v.v., cuộc
sống của con người phụ thuộc chặt chẽ vào tự nhiên, lao động cịn mang tính chất

cộng đồng, của cải xã hội được phân phối theo hình thức bình quân. Tài sản thuộc
về cả cộng đồng xã hội, khơng ai có tài sản riêng, mặt khác, tài sản lúc này không
đáng kể, chủ yếu là các tư liệu sinh hoạt hằng ngày như quần áo; đồ trang sức bằng
xương thú, đá...Những tài sản có giá trị như ruộng đất và nhà cửa thì do bộ lạc cùng
chiếm hữu. Năng suất lao động thấp, các sản phẩm khai thác từ tự nhiên mới chỉ đủ
để duy trì sự tồn tại của con người, chưa có sản phẩm dư thừa tương đối. Chính vì
vậy, trong xã hội này chưa sự chiếm hữu tài sản làm của riêng, vì vậy, chưa xuất
hiện khả năng người bóc lột người, chưa thể có giai cấp.
Với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là việc xuất hiện công cụ
lao động bằng kim loại, năng suất lao động tăng lên, "sản xuất tăng lên ở tất cả
các ngành...làm cho sức lao động của con người có khả năng sản xuất được nhiều
sản phẩm hơn số sản phẩm cần thiết cho sự duy trì sức lao động của họ"30, điều
này tạo ra khả năng cho người này có thể tước đoạt lao động của người khác. Cùng
với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ giữa con người với nhau về
tài sản đã có những thay đổi nhất định, mặc dù lúc này ruộng đất vẫn thuộc sở hữu
công cộng, song người ta đã giành một phần ruộng đất để "duy trì cơ cấu quản lý"
và phục vụ các hoạt động tôn giáo. Cá nhân và gia đình đã bắt đầu hình thành
quyền chiếm hữu và quyền thừa kế ở một mức độ giới hạn, đó là việc họ có quyền
chiếm hữu và thừa kế những tài sản mà họ đang sử dụng như nhà ở, vật dụng sinh
hoạt và sản phẩm sản xuất được.
Vào cuối thời kỳ dã man, với sự xuất hiện của công cụ lao động bằng sắt, lực
lượng sản xuất phát triển hết sức nhanh chóng, sản phẩm thăng dư của xã hội đã
tăng lên một cách nhanh chóng. Động vật nuôi, công cụ lao động và đặc biệt là
ruộng đất trở nên có giá hơn bao giờ hết, nó trở thành đối tượng để người ta trao
đổi, sở hữu và thừa kế. Lúc này, nhu cầu trao đổi và tước đoạt sản phẩm lao động
làm của riêng phát sinh - chế độ tư hữu ra đời. Chế độ tư hữu ra đời làm xuất hiện


16
tình trạng bất đồng về của cải giữa các thành viên trong cộng đồng thị tộc. Trong

xã hội ấy đã sinh ra những lớp người giàu nghèo khác nhau và địa vị của họ trong
thị tộc cũng khác nhau. Sự bất đồng về tài sản đó tạo ra những mầm mống đầu tiên
của các tầng lớp quí tộc, đã bắt đầu hình thành sự phân biệt giữa kẻ giàu và người
nghèo, giữa chủ nô và nô lệ: "Sự chênh lệch về tài sản đã ảnh hưởng trở lại đến tổ
chức quản lý bằng cách tạo ra những mầm mống đầu tiên của giới quí tộc thế tập và
vương quyền thế tập; chế độ nô lệ lúc đầu chỉ thi hành đối với tù binh, đã mở ra
triển vọng nô dịch ngay cả những thành viên trong cùng một bộ lạc và thậm chí cả
những thành viên của chính ngay thị tộc mình nữa". Lực lượng sản xuất thì của cải
làm ra ngày càng nhiều, nhu cầu về lực lượng lao động tăng lên, do đó cần phải thu
hút một lực lượng lao động đáng kể, tù binh trong các cuộc chiến tranh trước đây bị
giết thì nay bị biến thành nô lệ - chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, theo Ph.Ăngghen
thì: "Từ sự phân cơng xã hội lớn lần đầu tiên, đã nảy sinh ra sự phân chia lớn đầu
tiên trong xã hội thành hai giai cấp: chủ nơ và nơ lệ, kẻ bóc lột và người bị bóc lột".
Thực tiễn lịch sử đã cho thấy q trình hình thành và phát triển của giai cấp
gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của chế độ tư hữu. Chế độ tư hữu và
giai cấp ra đời bắt nguồn từ những nguyên nhân kinh tế, việc sở hữu tư liệu sản
xuất đặc biệt là ruộng đất, là cơ sở trực tiếp của sự hình thành các giai cấp.
Cùng với việc vạch ra nguồn gốc sự phát triển của chế độ tư hữu và giai cấp,
Ph.Ăngghen khẳng định rằng chế độ tư hữu và giai cấp cũng nhất định rẽ mất đi.
Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn lực lượng sản xuất đạt tới trình độ cao, lúc
đó sự tồn tại của chế độ tư hữu và sự tồn tại của giai cấp trở thành lực lượng kìm
hãm sự phát triển nền sản xuất. Theo qui luật tiến hố của lịch sử thì nó sẽ bị xố
bỏ, ơng viết: "Bây giờ, chúng ta đang bước nhanh đến gần một giai đoạn phát triển
sản xuất, trong đó sự tồn tại của những giai cấp nói trên khơng những khơng cịn là
một yếu tố nữa mà cịn trở thành một trở ngại trực tiếp sản xuất. Những giai cấp đó
sẽ khơng tránh khỏi biến mất, cũng như xưa kia, chúng đã không tránh khỏi xuất
hiện".


17

2.3. Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và sự tiêu vong của nhà nước
Nghiên cứu nguồn gốc ra đời, quá trình phát triển, sự tiêu vong và bản chất
của nhà nước qua tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước" là bước phát triển mới trong việc hình thành quan điểm mác-xít về nhà nước,
đây là sự tiếp nối có hệ thống những tư tưởng duy vật về nhà nước qua các tác
phẩm kinh điển trước đó như "Tun ngơn của Đảng cộng sản", "Ngày 18 tháng
Sương mù của Lu-i Bônapactơ", "Nội chiến ở Pháp", “Chống Đuy-rinh” v.v..
Qua tác phẩm này, Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguồn gốc ra đời, điều kiện tồn tại
và phát triển của nhà nước. Từ những cơng trình nghiên cứu của mình cũng như
của các nhà bác học khác, ông đã chỉ ra rằng không phải khi nào xã hội cũng có
nhà nước. Trong thời kỳ đầu của lịch sử lồi người, khi nền kinh tế cịn chưa phát
triển, xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, thì tổ chức đầu tiên để quản lý đời sống
trong xã hội đó là thị tộc, bộ lạc. Người đứng đầu thị tộc, bộ lạc là những tộc
trưởng do các thành viên trong thị tộc, bộ lạc đó bầu ra dựa trên cơ sở đạo đức và
uy tín cá nhân của họ. Trong xã hội ấy, chưa có pháp luật mà mới chỉ có những qui
tắc tắc xử sự chung trên cơ sở tự giác thực hiện của các thành viên, việc quản lý xã
hội ấy dựa trên nền tảng của các giá trị đạo đức và uy tín cá nhân. Do đó, trong xã
hội cộng sản ngun thuỷ chưa hình thành những thiết chế xã hội - chính trị để
quản lý những hoạt động chung của cả cộng đồng, nhưng xã hội vẫn tồn tại "trong
vịng trật tự", ơng viết: "Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó
quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao! Khơng có qn đội, hiến binh và cảnh sát,
khơng có q tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan tồ, khơng có nhà tù,
khơng có những vụ xử án, - thế mà mọi việc đều trôi chảy".
Qua nghiên cứu sự tan rã của chế độ thị tộc của người Hy lạp, người La Mã,
người Giéc-manh và những tộc tộc người khác ở châu Á và châu Mỹ, Ph.Ăngghen
đã cho thấy rằng sự xuất hiện nhà nước bắt nguồn từ những lý do sau đây:
Thứ nhất, sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà trước hết là của công cụ
lao động đã dẫn tới sự phân công lao động xã hội, năng suất lao động tăng lên, của



18
cải không những đáp ứng nhu cầu cuộc sống hàng ngày mà đã dư thừa, điều này
làm nảy sinh việc chiếm hữu số của cải dư thừa này làm của riêng - chế độ tư hữu
ra đời. Sự ra đời của chế độ tư hữu gắn liền với nó là quá trình phân chia xã hội
thành những giai cấp đối lập là nguyên nhân trực tiếp cho sự ra đời của nhà nước.
Với sự xuất hiện chế độ tư hữu, chế độ công hữu thị tộc bị tan rã cùng với nó là sự
xuất hiện trong xã hội những giai cấp có lợi ích kinh tế đối lập nhau, đó là nguồn
gốc của những mâu thuẫn xã hội. Để cho kết cấu của xã hội đó tồn tại mà khơng bị
phá vỡ bởi các xung đột lợi ích, đặt biệt là lợi ích của giai cấp thống trị thì việc
hình thành nên những thiết chế nhằm bảo vệ "trật tự xã hội" đó trong vịng ổn định
là hết sức cần thiết. Chỉ có nhà nước được tổ chức một cách chặt chẽ, có bộ máy
cưỡng chế với các cơng cụ bạo lưc như quân đội, cảnh sát, nhà tù,... mới thực hiện
được chức năng thống trị nhằm giữ cho xã hội phát triển trong vòng "trật tự".
Ph.Ăngghen viết: "Nhưng bây giờ, một xã hội mới đã ra đời, một xã hội do toàn bộ
những điều kiện kinh tế của sự tồn tại của nó mà phải chia ra thành những người tự
do và nơ lệ, thành những kẻ giàu có đi bóc lột và những người nghèo khổ bị bóc
lột, - một xã hội không những không thể lại điều hồ một lần nữa những mặt đối
lập đó, mà cịn buộc phải đẩy chúng đi đến chỗ ngày càng gay gắt. Một xã hội như
vậy chí có thể tồn tại trong cuộc đấu tranh không ngừng và công khai giữa các giai
cấp đó với nhau, hoặc là tồn tại dưới sự thống trị của một lực lượng thứ ba, một lực
lượng tựa hồ như đứng trên các giai cấp đang đấu tranh với nhau, dập tắt cuộc xung
đột công khai giữa các giai cấp ấy và tốt lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn
ra chỉ trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức thị tộc đã
lỗi thời. Nó đã bị sự phân công và hậu quả của sự phân công ấy - tức là sự phân
chia của xã hội thành giai cấp - phá tan. Nó đã bị nhà nước thay thế"35. Tiếp đó,
ơng kết luận: "Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phân chia giai cấp, là kết quả
của những mâu thuẫn giai cấp không thể dung hoà, là sản phẩm của sự phát triển
bên trong của xã hội, là công cụ của một giai cấp nhất định - giai cấp thống trị XH.
Thứ hai, cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, các cuộc chiến tranh tranh



19
giành đất đai, cướp bóc lẫn nhau, vai trị của thủ lĩnh trong trong các thị tôc, bộ lạc
được củng cố, địa vị kinh tế và địa vị chính trị của họ được xác lập. Do chiến tranh
để bảo vệ mình giữa các thị tộc, bộ lạc phải có sự liên kết lại, hợp nhất với nhau
trên cùng một lãnh thổ là hết sức cần thiết. Vai trò của thủ lĩnh quan sự được đề
cao, tuy nhiên, khác với vai trò của thủ lĩnh quân sự trước đây đều do hội đồng thị
tộc bầu ra, với quyền lực kinh tế và quân sự trong tay, các thủ lĩnh quân sự đã thiết
lập sự thống trị của mình một cách tuyệt đối bằng hình thức thừa kế theo kiểu cha
truyền con nối. Điều này đã làm cho các cơ quan trong tổ chức bộ máy của thị tộc,
bộ lạc tách rời và từng bước đối lập với các thành viên trong cộng đồng. Thị tộc, bộ
lạc từ chỗ là cơ quan giải quyết công việc chung của cộng đồng, được thiết lập và
vận hành một cách dân chủ thì những cơ quan này "đã dần dần tách khỏi gốc rễ của
chúng trong nhân dân, trong thị tộc, bào tộc, bộ lạc; và tồn bộ tổ chức thị tộc
chuyển hố thành cực đối lập với nó: từ chỗ là tổ chức của bộ lạc nhằm giải quyết
một cách tự do những công việc của mình, tổ chức thị tộc đã trở thành một tổ chức
để cướp bóc và áp bức láng giềng; và do đó, các cơ quan của nó, lúc đầu là cơng cụ
của ý chí nhân dân, đã trở thành những cơ quan độc lập nhằm thống trị và áp bức
ngay chính nhân dân".
Có thể nói rằng nhà nước sinh ra khơng phải là cơ quan để điều hồ các mâu
thuẫn giai cấp, trái lại, với sự xuất hiện của mình nó chứng minh rằng những mâu
thuẫn xã hội đã đến lúc chín muồi, Đó là, "sự thú nhận rằng xã hội đó bị lúng túng
trong một mối mâu thuẫn với bản thân mà không sao giải quyết được, rằng xã hội
đó đã bị phân thành những mặt đối lập khơng thể điều hồ mà xã hội đó bất lực
khơng loại bỏ được. Nhưng muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có
quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, khơng đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu
diệt luôn cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vơ ích, thì cần phải có một lực lượng
cần thiết, một lực lượng rõ ràng là đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự
xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vịng "trật tự". Và lực lượng đó, nảy
sinh từ xã hội, nhưng lại đứng trên xã hội, chính là nhà nước".




×