Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.44 KB, 34 trang )

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHỨNG
KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA VIỆT NAM
1.CÁC VĂN BẢN TRỰC TIẾP ĐIỀU CHỈNH
(1) Nghị định số 75/CP ngày 28-11-1996 của Chính phủ về việc thành lập
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước;
(2) Nghị định số 48/1998/NĐ- CP ngày 11-7-2000 của Chính phủ về chứng
khoán và thị trường chứng khoán;
(3) Nghị định số 17/2000/NĐ- CP ngày 26-5-2000 của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động của Thanh tra chứng khoán;
(4) Nghị định số 22/2000/NĐ- CP ngày 10-7-2000 của Chính phủ về xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán;
(5) Quyết định số 1038/1997/QĐ-TTg ngày 5-12-1997 của Thủ tướng
Chíng phủ về thành lập Trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ
về chứng khoán và thị trường chứng khoán trực thuộc UBCKNN;
(6) Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7- 1998 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán;
(7) Quyết định số 139/1999/QĐ-TTg ngày 10-6- 1999 của Thủ tướng
Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán
Việt Nam;
(8) Quyết định số 145/1999/QĐ-TTg ngày 28-6- 1999 của Thủ tướng
Chính phủ về ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài;
(9) Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg ngày 19-8- 1999 của Thủ tướng
Chính phủ về việc các tổ chức tín dụng thành lập Công ty chứng khoán và
tham gia
niêm yết chứng khoán;
(10) Quyết định số 39/2000/QĐ-TTg ngày 27-3- 2000 của Thủ tướng
Chính phủ quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh
chứng khoán;
(11) Quyết định số 529/TT&TTCK/QĐ-TCDN ngày 31-7- 1997 của Bộ


trưởng Bộ Tài chính về việc lưu hành tờ cổ phiếu và ban hành Quy chế tạm thời
về việc mua tờ cổ phiếu trong các công ty cổ phần;
(12) Quyết định số 128/QĐ-UBCK5 ngày 1- 8- 1998 của Chủ tịch Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm
Giao dịch chứng khoán;
(13) Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13-10-1998 của Chủ tịch Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động
của công ty chứng khoán;
(14) Quyết định số 05/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13-10-1998 của Chủ tịch Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động
của quỹ đầu tư chứng khoán và công tư quản lý quỹ;
(15) Quyết định số 04/1999/QĐ-UBCK1 ngày 27-3- 1999 của Chủ tịch Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế Thành viên, niêm yết,
công bố thông tin và giao dịch chứng khoán;
(16) Quyết định số 42/2000/QĐ-UBCK1 ngày 12-6- 2000 của Chủ tịch Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Quy chế
Thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán ban hành
theo Quyết định số 04/1999/QĐ-UBCK1 ngày 27-3- 1999 của Chủ tịch Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước;
(17) Quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK3 ngày 27-3-1999 của Chủ tịch Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ
và đăng ký chứng khoán;
(18) Quyết định số 43/2000/QĐ-UBCK3 ngày 14-6-2000 của Chủ tịch Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế
lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán ban hành kèm theo Quyết
định số 05/1999/QĐ-UBCK3 ngày 27-3-1999 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước;
(19) Quyết định số 105/1999/QĐ- BTC ngày 30-8- 1999 của Bộ trưởng Bộ
Tài chính về việc ban hành Chế độ kế toán Trung tâm giao dịch chứng khoán;
(20) Quyết định số 31/1999/QĐ-UBCK6 ngày 12-10- 1999 của Chủ tịch

Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế giám sát thanh tra
hoạt động TT&TTCK;
(21) Quyết định số 127/1999/QĐ-BTC ngày 22 – 10- 1999 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính ban hành Biểu mức thu phí, lệ phí đối với hoạt động thị trường
chứng khoán;
(22) Quyết định số 99/2000/QĐ-BTC ngày 13-6- 2000 của Bộ trưởng Bộ
Tài chính về việc ban hành Chế độ kế toán công ty chứng khoán;
(23) Thông tư số 01/1998/TT-UBCK ngày 13-10- 1998 của UBCKNN
hướng dẫn Nghị định số 48/1998/NĐ- CP ngày11-7-1998 về phát hành cổ
phiếu, trái phiếu ra công chúng;
(24) Thông tư số 10/1999/TT-BTC ngày 29- 1-1999 của Bộ Tài chính
hướng dẫn tạm thời chế độ quản lý tài chính đối với Trung tâm Giao dịch chứng
khoán ;
(25) Thông tư số 80/1999/TT- BTC ngày 29- 6-1999 của Bộ Tài chính
hướng dẫn việc quản lý đối với các loại tài sản quý hiếm và chứng chỉ có giá do
Kho bạc nhà nước nhận gửi và bảo quản;
(26) Thông tư số 27/2000/ TT-BTC ngày 6-4-2000 của Bộ Tài chính hướng
dẫn bổ sung Thông tư số 80/1999 ngày 29-6-1999 quản lý đối với các loại tài
sản quý hiếm và chứng chỉ có giá do Kho bạc nhà nước nhận gửi và bảo quản;
(27) Thông tư số 115/1999/TT-BTC ngày 24-9-1999 của Bộ Tài chính
hướng dẫn việc kinh doanh mua, bán công trái giữa các tổ chức được phép kinh
doanh công trái với tổ chức, cá nhân;
(28) Thông tư số 132 / 1999/ TT- BTC ngày 15 - 11- 1999 của Bộ Tài
chính
hướng dẫn bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài;
(29) Thông tư số 01/1999/TT-UBCK1 ngày 30-12-1999 của Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước hướng dẫn Quyết định 139/1999/QĐ-TTg ngày 10-6-1999 của
Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường
chứng khoán Việt Nam;
(30) Thông tư số 11/2000/TT-BTC ngày 1-2-2000 của Bộ Tài chính hướng

dẫn chế độ quản lý tài chính đối với công ty chứng khoán cổ phần và trách
nhiệm hữu hạn;
(31) Thông tư số 01/2000/TT-UBCK1 ngày 17-4-2000 của UBCKNN
hướng dẫn tạm thời chế độ thu phí đối với khách hàng của các tổ chức kinh
doanh, dịch vụ chứng khoán;
(32) Thông tư số 39/2000/TT-BTC ngày 11-5-2000 của Bộ Tài chính
hướng dẫn việc phát hành tín phiếu kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước;
(33) Công văn số 109/1999/UBCK2 ngày 12-8-1999 của UBCKNN hướng
dẫn đăng ký niêm yết tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán;
2. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN
(1) Luật Doanh nghiệp 2000;
(2) Luật Doanh nghiệp Nhà nước 1995;
(3) Luật Các tổ chức tín dụng 1997;
(4) Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam 1997;
(5) Pháp lệnh Phát hành công trái xây dựng Tổ quốc;
(6) Nghị định số 34/1999/NĐ-CP ngày 12-5-1999 của Chính phủ quy định
việc phát hành công trái xây dựng Tổ quốc;
(7) Thông tư số 67/1999/TT-BTC ngày 7-6-1999 của Bộ Tài chính hướng
dẫn việc sử dụng vốn và hạch toán kế toán tiền mua và lãi mua công trái xây
dựng Tổ quốc tại các doanh nghiệp;
(8) Nghị định số 01/2000/NĐ-CP ngày 13-1-2000 của Chính phủ ban hành
Quy chế Phát hành trái phiếu Chính phủ;
(9) Thông tư số 55/2000/TT-BTC ngày 9-6-2000 của Bộ Tài chính hướng
dẫn việc đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua thị trường giao dịch chứng khoán
tập trung;
(10) Thông tư số 58/2000/TT-BTC ngày 16-6-2000 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện một số điểm của Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13-1-
2000 của Chính phủ về ban hành Quy chế Phát hành trái phiếu Chính phủ;
(12) Thông tư số 68/2000/TT-BTC ngày 13-7-2000 của Bộ Tài chính
hướng dẫn chi tiết một số điểm về bảo lãnh và đại lý phát hành trái phiếu Chính

phủ;
(13) Quyết định số 59/2000/QĐ-UBCK ngày 12-7-2000 của Chủ tịch Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế đấu thầu trái phiếu
Chính phủ qua thị trường giao dịch chứng khoán tập trung;

II.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Nhìn một cách tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về CK&TTCK
như ở một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp luật
CK&TTCK với ba bộ phận cấu thành tối thiểu cần có của nó, bao gồm: những
quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành; điều kiện về thể thức
kinh doanh; quản lý Nhà nước và giám sát về CK&TTCK đã hình thành.
Tuy nhiên, qua thực tế hoạt động của TTCK trong thời gian qua, ta có thể
thấy khung pháp luật về CK&TTCK Việt Nam nổi lên một số vấn đề cần được
quan tâm xử lý kịp thời.
1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Các thể chế về tài chính
Trong các thể chế trực tiếp, gián tiếp liên quan đến CK&TTCK, thì các thể
chế tài chính giữ vai trò trọng tâm và quan trọng nhất. Tuy nhiên, các quy định
này được hình thành chủ yếu từ đầu những năm 90 đến nay, và nằm rải rác ở
các văn bản khác nhau, từ Luật đến các văn bản của Chính phủ, của một số Bộ,
ngành có liên quan. Chính vì các quy định về thể chế tài chính đối với
CK&TTCK còn thiếu và chưa đồng bộ, giá trị pháp lý thấp, nên phạm vi phát
hành, chủ thể phát hành và các loại chứng khoán còn chưa phong phú. Các
chứng khoán do bị hạn chế ở cơ chế phát hành nên khó mua bán, trao đổi trên
thị trường, đặc biệt là các chứng khoán có lợi tức cố định.
1.2.Các thể chế về hành chính
Các quy định thuộc về thể chế hành chính đối với thị trường chứng khoán
bao gồm: các quy định về thể chế tổ chức, quản lý và giám sát thị trường như:
+ Quy chế tổ chức và hoạt động của TTGDCK;

+ Quy chế giám sát, thanh tra hoạt động kinh doanh chứng khoán và
TTCK;
+ Các quy chế về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán;
Và nhiều quy định có tính chất quản lý Nhà nước trong hàng loạt các Quy
chế khác như:
+ Quy chế thành viên TTGDCK;
+ Quy chế niêm yết chứng khoán;
+ Quy chế công bố thông tin;
+ Quy chế giao dịch chứng khoán;
+ Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán;
+ Quy chế về sự tham gia của các bên nước ngoài vào TTCK…
Các quy định trên đây và đã đang được hình thành và có đặc điểm là một
hệ thống chưa hoàn chỉnh, nằm rải rác ở nhiều văn bản có giá trị pháp lý thấp.
Do vậy, còn thiếu tính đồng bộ. Bên cạnh đó, do hầu hết các quy chế này được
xây dựng trước hoặc ngay sau khi TTGDCK đi vào hoạt động một thời gian
ngắn. Do đó, chúng đều không có hoặc thiếu tính thực tiễn, nên khó triển khai
áp dụng vào trong các hoạt động của TTGDCK.
1.3.Các quy định liên quan của pháp luật hình sự
Hoạt động kinh doanh chứng khoán là một hoạt động kinh tế. Hơn thế nữa,
đây là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt, liên quan đến một thị trường đặc biệt-
thị trường mua bán, chuyển dịch quyền sở hữu các giấy tờ có giá và liên quan
trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Từ đó có
những tác động trực tiếp đến nền kinh tế. Để bảo vệ sự phát triển bình thường
của các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực CK&TTCK, ngăn ngừa và xử lý các
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, đòi hỏi pháp luật hình sự cần phải có những
quy định cụ thể về vấn đề này.
Hiện nay, Bộ Luật hình sự của nước ta chưa có các quy định về tội phạm
hình sự trong lĩnh vực CK&TTCK. Tuy nhiên, trong chương “Các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế”, có một số tội danh mà hành vi của các tội này
được thực hiện một cách tương tự trong lĩnh vực chứng khoán như : tội đầu cơ,

tội lừa dối khách hàng, tội kinh doanh trái phép. Và do vậy, khi có các hành vi
phạm tội này xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán thì có thể áp dụng các điều
khoản đã có trong Bộ Luật Hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự và làm căn
cứ xét xử. Mặc dù vậy, xét về tính chất và mức độ nguy hiểm của những hành vi
đó trong lĩnh vực chứng khoán chúng nguy hiểm hơn và để lại hậu quả nặng nề
hơn. Mặt khác, trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán còn có những hành vi
nguy hiểm cho xã hội mà Bộ Luật Hình sự chưa có quy định cụ thể như: tội mua
bán nội gián; tội vi phạm các quy định về mua bán, nắm giữ chứng khoán nhằm
thôn tính, sáp nhập công ty; tội lạm dụng trong việc phát hành giấy tờ có giá-
chứng khoán.
1.4.Các quy định về giải quyết tranh chấp
Vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán đã được
đề cập đến trong một vài văn bản (Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế; Nghị định 48/1998/NĐ-CP về CK&TTCK), nhưng cũng chỉ dừng lại ở
những quy định mang tính nguyên tắc, chung chung chưa rõ ràng cụ thể.
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế coi “các tranh chấp liên quan
đến việc mua bán cổ phiếu trái phiếu” thuộc loại các tranh chấp kinh tế và thuộc
thẩm quyền của Toà án nhân dân (Toà án kinh tế ); Nghị định 48/1998/NĐ- CP
lại quy định trọng tài kinh tế cũng có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về
chứng khoán (Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động phát hành, kinh doanh
và giao dịch chứng khoán trước hết phải được giải quyết trên cơ sở thương
lượng và hoà giải. Trung tâm giao dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán,
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước có thể đứng ra hoà giải các tranh chấp phát sinh.
Trường hợp hoà giải không thành, các bên có thể đưa tranh chấp ra cơ quan
trọng tài kinh tế hoặc toà án để xét xử theo quy định của pháp luật” - Khoản 2 -
Điều 79 -NĐ48/CP). Hơn nữa, việc liệt kê hai loại chứng khoán nói trên cũng là
chưa đầy đủ bởi trên TTCK, người ta không chỉ mua bán, chuyển nhượng cổ
phiếu và trái phiếu, mà còn mua bán các loại giấy tờ có nguồn gốc chứng khoán
(chứng quyền, chứng khế, hợp đồng quyền lựa chọn…). Các tranh chấp về
chứng khoán cũng không phải chỉ có các tranh chấp về mua bán chứng khoán

mà còn nhiều các tranh chấp khác về sở hữu; về phát hành; về quản lý, giám
sát…Song pháp luật hiện hành cũng chưa có các quy định cụ thể để điều chỉnh.
1.5.Các quy định về giải thể phá sản công ty chứng khoán
Chúng ta đã có Luật phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật phá sản vẫn
còn thiếu nhiều quy định cần thiết, dẫn đến không có cơ sở pháp lý để giải quyết
các vấn đề phát sinh liên quan đến phá sản doanh nghiệp. Theo quy định, trước
khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, doanh nghiệp
mắc nợ đã bị Toà án tuyên bố các bản án dân sự, kinh tế. Theo đó, doanh nghiệp
phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho một số chủ nợ. Để đảm bảo thi
hành nghĩa vụ đó, một số tài sản của doanh nghiệp sẽ bị kê biên để bán đấu giá
để giải quyết quyền lợi cho các chủ nợ. Như vậy, nếu các bản án được thi hành
thì chủ nợ sẽ được đảm bảo thanh toán từ tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu
tuyên bố phá sản. Trường hợp các bản án không được thi hành thì lợi ích của
các chủ nợ sẽ không được đảm bảo. Đây chính là khoảng trống trong Luật phá
sản và chính là lý do để thẩm phán ở các địa phương đưa ra các cách xử lý khác
nhau.
Một vướng mắc khác trong việc giải quyết tranh chấp về dân sự và kinh tế
giữa chủ nợ và doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản là Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế (1994) đã quy định: tòa án phải đình chỉ giải quyết
vụ án kinh tế khi đã có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp đó là đương sự của vụ án. Nhưng Luật phá
sản doanh nghiệp lại không có quy định để giải quyết vấn đề phát sinh tiếp theo
là tòa án nào có quyền giải quyết và giải quyết theo thủ tục pháp lý nào đối với
những tranh chấp dân sự, kinh tế bị đình chỉ. Chính vì vậy, tòa án các địa
phương cứ “tùy cách hiểu biết mà vận dụng”.
Hơn nữa, ngoài những vướng mắc chung đối với tất cả các loại hình doanh
nghiệp thuộc mọi lĩnh vực như trên, kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực
đặc thù, việc giải thể phá sản công ty chứng khoán có ảnh hưởng nhất định đến
thị trường, đến lợi ích các nhà đầu tư, và có thể gây hậu quả mang tính dây
truyền. Trong khi đó, Luật phá sản lại chưa có các quy định cụ thể, rõ ràng việc

giải thể, phá sản đối với công ty chứng khoán.
2.NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ
Thực trạng pháp luật hiện hành còn nhiều quy định chưa đầy đủ, rõ ràng
hoặc còn bỏ ngỏ. Bên cạnh đó, cũng có nhiều quy định mặc dù mới được ban
hành, chưa qua kiểm nghiệm nhiều trên thực tế nhưng đã bộc lộ những hạn chế,
bất hợp lý. Cụ thể là:
2.1.Cơ chế và hình thức phát hành chứng khoán
Thông thường có hai hình thức phát hành chứng khoán trên thị trường
chứng khoán sơ cấp, đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng:
- Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng
khoán được bán rộng rãi cho một số lượng lớn người đầu tư và khối lượng phát
hành đạt mức nhất định.
- Phát hành chứng khoán riêng lẻ là việc phát hành để được thực hiện trong
phạm vi một số người nhất định, thông thường là cho các nhà đầu tư, các tổ
chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài và với những điều kiện
hạn chế, chứ không thực hiện phát hành rộng rãi ra công chúng.
Đối với hình thức phát hành chứng khoán ra công chúng, hiện nay có rất
nhiều các văn bản điều chỉnh như:
+Luật Doanh nghiệp Nhà nước 1995;
+Luật các tổ chức tín dụng 1997;
+Nghị định 44/1998/NĐ- CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển
Doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần;
+Nghị định 48/1998/NĐ- CP của Chính phủ ngày 11/7/1998 về
TT&TTCK;
+Thông tư 01/1998/TT- UBCK ngày 13/10/1998 của UBCKNN hướng dẫn
NĐ 48/CP về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng.
Như vậy, các văn bản trên được ban hành vào những thời điểm khác nhau,
nhằm phục vụ các yêu cầu khác nhau, do nhiều cơ quan khác nhau ban hành.
Chính vì vậy, quy định về phát hành chứng khoán trong các văn bản này nhìn
chung còn rất sơ lược, thường chỉ giới hạn trong những quy định mang tính

nguyên tắc và hình thức, thiếu chi tiết và cụ thể. Chẳng hạn như, trong Nghị
định 44/1998/NĐ - CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển DNNN thành
công ty cổ phần, chỉ quy định đối với việc phát hành chứng khoán ra công
chúng một cách chung chung là: “Cổ phần được thông báo bán công khai tại
doanh nghiệp cổ phần hoá hoặc bán thông qua các ngân hàng thương mại, các
công ty tài chính và các sở, trung tâm giao dịch chứng khoán” (Điều 5); hay như
trong Thông tư 01/1998/TT-UBCK ngày 13/10/1998 của của UBCKNN hướng
dẫn Nghị định 48/CP về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng, cũng chỉ
quy định:
“Khi tiến hành phân phối cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng tổ chức
phân phối phải tuân thủ các yêu cầu sau đây:
- Chỉ được phép sử dụng thông tin trong Bản Cáo bạch và các tài liệu
khác liên quan trong hồ sơ xin phép phát hành đã được UBCKNN chấp
thuận;

- Phân phối cổ phiếu trái phiếu một cách công bằng theo giá bán xác định
trong Bản Cáo bạch được UBCKNN chấp thuận;
- Tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư cá nhân được mua cổ
phiếu, trái phiếu;
- Đảm bảo thời hạn đăng ký mua cho người đầu tư tối thiểu là 30 ngày;
- Sử dụng phiếu đăng ký mua cổ phiếu hoặc trái phiếu;
- Chỉ được yêu cầu người mua cổ phiếu, trái phiếu đặt cọc một khoản tiền
tối đa là 10% giá trị cổ phiếu, trái phiếu đăng ký mua” (Điểm 6 mục VI)
Bên cạnh đó, các quy định về kiểm toán kế toán còn nhiều điểm chưa phù
hợp với thông lệ quốc tế; các quy định về phương thức phát hành thông qua các
tổ chức trung gian và việc công bố thông tin còn thiếu tính đồng bộ, hoặc chưa
được thể hiện đầy đủ trong các văn bản pháp luật.
Đối với hình thức phát hành chứng khoán riêng lẻ, Luật Công ty trước đây
và Luật Doanh nghiệp hiện hành do chỉ dừng lại ở những quy định chung chung
cho nên không phân biệt được rạch ròi việc phát hành riêng lẻ và việc phát hành

ra công chúng. Nghị định 48/1998/ NĐ- CP về CK&TTCK thì xác định rõ là chỉ
điều chỉnh việc phát hành chứng khoán ra công chúng (“Nghị định này quy định
việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch
vụ liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán trên lãnh thổ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 1 Chương I). Như vậy, có thể nói
pháp luật về CK&TTCK của ta hiện nay chưa có các quy định điều chỉnh việc
phát hành chứng khoán riêng lẻ.
2.2.Về cơ cấu các loại thị trường
Một mô hình thị trường thị trường chứng khoán hoàn chỉnh bao giờ cũng
gồm hai loại thị trường là: Thị trường chứng khoán tập trung là Sở Giao dịch
chứng khoán ( ở Việt Nam là Trung tâm giao dịch chứng khoán) và Thị trường
chứng khoán phi tập trung (OTC).
Thông thường, việc mua bán chứng khoán trên thị trường OTC là mua bán
các chứng khoán không được niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán. Tuy
nhiên, cũng có trường hợp chứng khoán được niêm yết tại SGDCK vẫn được
mua bán trên thị trường OTC. Ở những nước có thị trường chứng khoán phát
triển mạnh thì tổng giá trị chứng khoán được buôn bán trên thị trường OTC lớn
hơn rất nhiều lần giá trị chứng khoán được giao dịch trên Sở GDCK. Tuy nhiên,
hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có thị trường OTC. Bên cạnh đó, Nghị định
48/1998/NĐ - CP về CK&TTCK mới chỉ quy định về Thị trường giao dịch tập
trung, nhưng lại quy định những điều kiện rất khắt khe như: tổ chức phát hành
phải đáp ứng đủ một số điều kiện nhất định thì mới được xem xét cấp phép cho
việc niêm yết chứng khoán. Cụ thể là theo điều 6 NĐ48/CP, “tổ chức phát hành
chứng khoán ra công chúng phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam;
Hoạt động kinh doanh có lãi trong hai năm liên tục gần nhất;
Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng Giám đốc) có kinh
nghiệm quản lý kinh doanh;
Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ
phiếu;

Tối thiểu 20 % vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên
100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức
phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu là 15% vốn cổ phần của tổ
chức phát hành;
Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát
hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc việc phát
hành;
Trường hợp số cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ
đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành”
Khi TTGDCK mới được hình thành và đi vào hoạt động, việc đặt ra những
điều kiện này là hết sức cần thiết để bảo vệ nhà đầu tư và tạo dựng một thị
trường chứng khoán có độ tin cậy cao đối với công chúng đầu tư. Tuy nhiên,
những điều kiện này khi áp dụng trên thực tế thì ngoài những hạn chế như đã

×