Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư các hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.29 KB, 25 trang )

A - LỜIMỞĐẦU
******
Giá trị thăng dư là mục tiêu của các nhà tư bản, là điều kiện tồn tại và phát
triển của tư bản.
Bất kỳ một nền sản xuất nào muốn phát triển được, muốn đáp ứng nhu cầu
của con người vềđiều kiện sống đều phải tái sản xuất, mở rộng và phải tạo ra
được sản phẩm thặng dư. Bởi mức độ giàu có của xã hội tuỳ thuộc vào khối
lượng sản phẩm thặng dư. Xã hội càng phát triển thì sản phẩm thặng dư càng
nhiều. Song trong mọi xã hội, sản phẩm thặng dư bán trên thị trường đều có
giá trị, nhưng chỉ cóở nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì giá trị của sản phẩm
thặng dư mới là giá trị thặng dư.
Từ đó có thể khẳng định sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa tư bản. Cho nên để nghiên cứu giá trị thặng dư, ta chỉ
nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vậy vấn đề cần đặt ra là giá trị
thặng dư là gì ? Nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư ? Các hình thức
chuyển hố của giá trị thặng dư ? ...
Đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Việc nghiên cứu nó phải
được xuất phát từ các quan điểm đúng đắn của học thuyết Mác và thực tiễn.
Quá trình nghiên cứu sẽ giúp giải đáp được các câu hỏi luôn tự đặt ra trong lý
luận cũng như trong thực tế của kinh tế học TBCN.
Với những hiểu biết đang còn nhiều hạn chế và trong phạm vi đề tài cho
phép, em rất mong nhận được sự giúp đỡ chỉ dẫn của thầy cô giáo về những
sai sót trong bài làm để bài viết sau của em được tốt hơn.

1


B - NỘIDUNG
PHẦN I
GIÁTRỊTHẶNGDƯLÀGÌ ?
1 - KHÁINIỆM



G
tạo ra và bị nhà tư bản chiếm khơng.

S
cái điểm màởđó giá trị sức lao động do nhà tư bản trảđược hoàn lại bằng vật
ngang giá mới.
02 - VÍDỤ KÉOBƠNGTHÀNHSỢI

B
nghĩa trong sự thống nhất của nó như là q trình lao động và q trình tăng
thêm giá trị qua ví dụ về sản xuất sợi.

G
biến số bơng đó thành sợi, một cơng nhân phải lao động trong 6 giờ và hao
mịn máy móc là 2 đôla; giá trị sức lao động trong một ngày của người công
nhân là 3 đôla; trong một giờ lao động người công nhân đã tạo ra một giá trị
là 0.5 đơla; cuối cùng, ta giảđịnh rằng trong q trình sản xuất sợi đã hao phí
theo thời gian lao động xã hội cần thiết.

V
bùđắp được giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động cần
thiết thì chưa có sản xuất giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.

T
động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động có thể tạo ra
cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau mà nhà tư bản đã tính đến điều đó
trước khi mua sức lao động. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong
ngày. Vậy việc sử dụng sức lao động trong ngày đó thuộc về nhà tư bản.


C
2


Chi phí sản xuất
- Tiền mua bơng là 20 đơla.

Giá trị của sản phẩm mới
(20 kg sợi)
- Giá trị của bơng được chuyển vào
sợi là 20 đơla.

- Hao mịn máy móc là 4 đơla.

- Giá trị của máy móc được chuyển
vào sợi 4 đôla.

- Tiền mua sức lao động trong một - Giá trị do lao động của công nhân
ngày là 3 đôla.
Cộng : 27 đôla.

tạo ra 12h lao động là 6 đơla.
Cộng : 30 đơla.

Như vậy tồn bộ chi phí của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao
động là 27 đôla. Trong 12h lao động, công nhân tạo ra một sản phẩm mới (20
kg sợi) có giá trị bằng 30 đơla, lớn hơn giá trịứng trước là 3 đô la. Vậy 27
đôla ứng trước thành 30 đôla, đãđem lai một giá trị thặng dư là 3 đơla. Do đó
tiền biến thành tư bản. Phần giá trị mới dôi ra so với giá trị sức lao động gọi là
giá trị thặng dư.


3


Phần II
NGUỒNGỐCVÀBẢNCHẤTCỦAGIÁTRỊTHẶNGDƯ
I - QUANĐIỂMCỦACÁCTRƯỜNGPHÁITRƯỚC MÁC
1. QUANĐIỂMCỦATRƯỜNGPHÁITRỌNGTHƯƠNG
Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quáđộ mà nền kinh tế phong
kiến bước vào thời suy thoái và nền kinh tế TBCN bắt đầu hình thành. Nó ra
đời phản ánh những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản và nóđược phát
triển rộng rãi ở các nước Tây Âu. Mặc dù thời kỳ này chưa biết đến quy luật
kinh tế và cịn hạn chế về tính quy luật nhưng hệ thống quan điểm học thuyết
kinh tế trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận
kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này được thể hiện ở chỗ họđưa ra
quan điểm sự giàu có khơng phải là giá trị sử dụng mà là giá trị tiền
Học thuyết kinh tế trọng thương coi lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông
mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán
đắt mà có.
2. QUANĐIỂMCỦATRƯỜNGPHÁICỔĐIỂN
Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, sự hoạt động của tư bản chủ yếu là
trong lĩnh vực lưu thông. Do quá trình phát triển cuả cơng trường thủ cơng, tư
bản đã chuyển sang lĩnh vực sản xuất. Lúc này các vấn đề kinh tế của sản xuất
đã vượt quá khă năng giải thích của lý thuyết chủ nghĩa trọng thương và học
thuyết kinh tế cổđiển xuất hiện. Các nhà kinh tế học của trường phái này lần
đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản
xuất. Lần đầu tiên, họ xây dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật của
nền kinh tế thị trường. Tiêu biểu là các quan điểm của Kene, A.Đ Smith,
Ricacdo.
a)Quan điểm của Kene :

Kene được CacMac đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổđiển
vàơng có công lao to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Kene đãđặt nền tảng cho việc
4


nghiên cứu sản phẩm, tức là nền móng cho việc nghiên cứu quan hệ thặng dư
sau này. Ông đãđưa ra những quan điểm kinh tếđể tiến hành phê phán chủ
nghĩa trọng thương. Kene cho rằng trao đổi thương mại chỉđơn thuần là việc
đổi giá trị này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngang giá cả. Hai bên
không có gìđể mất hoặc được cả. Bởi vậy thương nghiệp không thểđẻ ra tiền
được. Theo ông, sản phẩm thặng dư chỉđược tạo ra từ sản xuất- nông nghiệp
kinh doanh theo kiểu TBCN bởi vì trong lĩnh vực sản xuất nơng nghiệp đã tạo
ra được chất mới nhờ có sự giúp đỡ của tự nhiên. Đây là một quan điểm sai
lầm. Nhưng ơng cũng manh nha bước đầu tìm ra được nguồn gốc của giá trị
thặng dư. Ơng cho chi phí sản xuất là tiền lương, sản phẩm thuần tuý là số
chênh lệch giữa thu hoạch và tiền lương, đó chính là phần do lao động thặng
dư tạo ra.
b)Quan điểm của A.Đ Smith
Theo ông địa tô là khoản khấu trừđầu tiên vào sản phẩm lao động, lợi nhuận
là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động, chúng đều có
chung nguồn gốc là lao động khơng được trả cơng của cơng nhân.Về mặt
chất, nó phản ánh quan hệ bóc lột. Xuất phát từ sự phân tích giá trị hàng hố
do người cơng nhân tạo ra A.Đ Smith thấy một thực tế là công nhân chỉ nhận
được một phần tiền lương, phần cịn lại làđịa tơ và lợi nhuận của tư bản. Ông
cho rằng nguồn gốc của lợi nhuận là do toàn bộ tư bản đầu tưđẻ ra trong lĩnh
vực sản xuất và trong lĩnh vực lưu thơng.
Ơng thấy địa tô chênh lệch I do màu mỡđất đai và vị trí gần xa quyết
định nhưng khơng nghiên cứu địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt
đối. Những tư tưởng kinh tế của A.Đ Smith tuy còn hạn chế và mâu thuẫn,
song cũng gây tiếng vang lớn trong giới học giả kinh tế cổđiển. Ông được

nhiều tác giả hậu bối coi là "cha đẻ của kinh tế học".
c)Quan điểm của Ricacdo
Nếu như A.Đ Smith sống trong thời kỳ cơng trường thủ cơng phát triển
mạnh mẽ thì David Ricacdo sống trong thời kỳ cách mạng cơng nghiệp. Đó
5


làđiều kiện khách quan đểông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.Đ Smith
dừng lại. Ông là người kế tục xuất sắc của A.Đ Smith. Theo C.Mac, A.Đ
Smith là nhà kinh tế của thời kỳ cơng trường thủ cơng cịn Ricacdo là nhà tư
tưởng của thời đại cách mạng công nghiệp. Ông sử dụng phương pháp khoa
học tự nhiên, sử dụng cơng cụ trừu tượng hố, đồng thời áp dụng các phương
pháp khoa học chính xác, đặc biệt là phương pháp suy diễn để nghiên cứu
kinh tế chính trị học.
Về lợi nhuận, Ricacdo cho rằng "Lợi nhuận là số còn lại ngồi tiền
lương mà nhà tư bản trả cho cơng nhân". Ông đã thấy xu hướng giảm sút tỷ
xuất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận
động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp: địa chủ, công nhân và nhà tư bản.
Vềđịa tô, Ricacdo dựa vào quy luật giá trịđể giải thích địa tơ, rằng địa tơ hình
thành khơng trái với quy luật giá trị. Ông bác bỏ quan niệm cho rằng địa tô là
sản phẩm của những lực lượng tự nhiên hoặc năng xuất đặc biệt trong nơng
nghiệp. Ơng đã nhận thức rằng giá trị nơng phẩm được hình thành trong điều
kiện ruộng đất xấu nhất, nếu kinh doanh trên ruộng đất trung bình sẽ thu lợi
nhuận siêu ngạch và lợi nhuận này rơi vào tay địa chủ dưới hình thức địa tô
( địa tô chênh lệch I). nhưng ông không biết địa tô chênh lệch II và phủ nhận
địa tô tuyệt đối.
II - QUANĐIỂMCỦAHỌCTHUYẾTMÁC
Mác viết :"Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao
động biểu hiện trong hàng hố. Sở dĩ hàng hố có hai thuộc tính là giá trị sử
dụng và giá trị lao động vì lao động sản xuất hàng hố có tính hai mặt là lao

động cụ thể và lao động trừu tượng.
Theo Mác, lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thức cụ
thể của một nghề nghiệp chuyên mơn nhất định, có mục đích riêng, đối tượng
riêng, thao tác riêng, phương tiện riêng và kết quả riêng.

6


Kết quả của lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Lao
động cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng cũng có nhiều loại. Tất cả các
lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công xã hội ngày càng chi tiết. Lao
động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, làđiều kiện không thể thiếu được trong
mọi điều kiện của xã hội.
Lao động của người sản xuất hàng hoá nếu coi là hao phí sức lực của
con người nói chung, khơng kể hình thức cụ thể của nó như thế nào gọi là lao
động trừu tượng. Lao động bao giờ cũng là hao phí sức óc, sức thần kinh và
bắp thịt của con người. Nhưng bản thân sự lao động về mặt sinh lýđó chưa
phải là lao động trừu tượng. Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng hố mới có sự
cần thiết khách quan phải quy các loại lao động cụ thể khác nhau vốn không
thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng nhất có thể so sánh
với nhau được tức là phải quy lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Vì
vây lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng tạo ra
giá trị của hàng hoá.
Trong nền sản xuất hàng hốđơn giản, tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao
động xã hội của những người sản xuất hàng hố. Đó là mâu thuẫn cơ bản của
sản xuất hàng hoáđơn giản. Mâu thuẫn này còn biểu hiên ở lao động cụ thể
với lao động trừu tượngở giá trị sử dụng với giá trị hàng hố. "Tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hố làđiểm mấu chốt để hiểu biết kinh tế
chính trị học". Nó là sự phát triển vượt bậc so với các học thuyết kinh tế

cổđại.
1.
CÔNGTHỨCCHUNGCỦATƯBẢNVÀMÂUTHUẪNCHUNGCỦACÔNGT
HỨCTƯBẢN
Mác vàĂnghen cũng là người đầu tiên xây dựng nên lý luận về giá trị
thặng dư một cách hồn chỉnh. Vì vậy, lý luận về giá trị thặng dưđược xem là
hòn đá tảng to nhất trong toàn bộ học thuyết của Mác. Qua thực tế xã hội tư
7


bản lúc bấy giờ Mác thấy rằng giai cấp tư bản ngày càng giàu thêm cịn giai
cấp vơ sản thì ngày càng nghèo khổ vàơng đãđi tìm hiểu ngun nhân vì sao
lại có hiện tượng này.
Cuối cùng ơng phát hiện rằng nếu tư bản đưa ra một lượng tiền T đưa
vào q trình sản xuất và lưu thơng hàng hố thì số tiền thu về lớn hơn số tiền
ứng ra.
Ta gọi là : T' (T' > T) hay T' = T + ΔT.T.
C.Mác gọi ΔT.T là giá trị thặng dư. Ơng cũng thấy rằng mục đích của lưu
thơng tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sư dụng mà là giá trị.
Mục đích của lưu thông T-H-T' là sự lớn lên của giá tri thặng dư nên sư vận
động T-H-T' là khơng có giới hạn. Công thức này được Mác gọi là công thức
chung của tư bản.
Qua nghiên cứu, Mác đi đến kết luận: "Tư bản không thể xuất hiện từ
lưu thông mà cũng không xuất hiện ở người lưu thơng. Nó phải xuất hiện
trong lưu thông vàđồng thời không phải trong lưu thông ". Đây chính là mâu
thuẫn chung của cơng thức tư bản.
Để giải quyết mâu thuẫn này Mac đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá
trị hàng hoá- sức lao động.
Quá trình sản xuất ra hàng hố và tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân giá trị sức lao động. Vậy quá trình sản xuất ra tư bản chủ nghĩa là

quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
C.Mác viết : ''Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá
trình sáng tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất ra hàng
hốvới tư cách là tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất
TBCN, là hình thái TBCN của nền sản xuất hàng hoá.
Phần giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nóđược tính bằng giá trị
sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư (m) là phần giá
trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị các nhà tư

8


bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy tư bản là giá trịđem lại giá trị thặng dư
bằng cách bóc lột cơng nhân làm th.
2. BẢNCHẤTQTRÌNHSẢNXUẤTGIÁTRỊTHẶNGDƯ
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi để tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình
sản xuất của các nhà tư bản thì C.Mác đã chia tư bản ra hai bộ phận : Tư bản
bất biến và tư bản khả biến.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trịđược
bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị khơng biến đổi

về

lượng

trong q trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến và gọi là kí hiệu là
c.
Cịn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong
quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và kí hiệu là
v.

Như vậy, ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được thì phải có
một tư bản bất biến đãđược ứng trước với tỉ lệ tương đương. Và qua sự phân
chia ta rút ra tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao
động. Cịn tư bản bất biến có vai trị gián tiếp trong việc trong việc tạo ra giá
trị thặng dư. Từđây ta có kết luận: "Giá trị của một hàng hoá của một hàng
hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng, cộng với giá trị của tư bản
khả biến (Tức là giá trị thặng dưđãđược sản xuất ra). Nóđược biểu diễn bằng
công thức : Giá trị = c + v + m.
Sự phân chia tư bản thành tư bản khả biến và tư bản bất biến đã vạch rõ
thực chất bóc lột TBCN, chỉ có lao động của cơng nhân làm thuê mới tạo ra
giá trị thặng dư của nhà tư bản. Tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do
cơng nhân tạo ra. Nóđược biểu diễn một cách ngắn gọn qua quá trình Giá trị
= c + v + m.
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm: c

9


Giá trị sức lao động của người công nhân (mà nhà tư bản trả cho người
công nhân) : v.
M = m'.V = (m.V) : v
Giá trị mới do người công nhân tạo ra : v + m.
Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c + v. Nhưng
giá trị mà nhà tư bản thu vào là c + v + m. Phần M dơi ra là phần mà tư bản
bóc lột của công nhân.
Trên đây chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư. Các
phạm trù tỉ xuất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư mà ta nghiên
cứu sau đây sẽ biểu hiện về mặt lượng của sự bóc lột.
Tỉ xuất giá trị thặng dư là tỉ số giữa hai giá trị thặng dư và tư bản khả
biến. Kí hiệu của tỉ xuất giá trị thặng dư là m ta có :

m' = (m.100%):v
Tỉ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột cơng
nhân. Thực chất đây là tỉ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động
cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Nhưng nó khơng biểu hiện lượng
tuyệt đối của sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng dư. Khối lượng giá trị
thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến(v).
Nó nói lên quy mơ bóc lột của tư bản.
3. PHƯƠNGPHÁPSẢNXUẤTGIÁTRỊTHẶNGDƯ
Nhà tư bản ln tìm cách tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất bằng nhiều
cách, bằng nhiều thủđoạn. Trong đó Mác chỉ ra hai phuơng pháp mà chủ
nghĩa tư bản thường dùng đó là sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất
10


giá trị thặng dư tuyệt đối. Ngồi ra cịn phương pháp sản suất giá trị thặng dư
siêu ngạch.
Mác đã chỉ ra trong giai đoạn phát triển đầu của chủ nghĩa tư bản khi kỹ
thuật cịn thấp thì việc tăng giá trị thặng dư tuyệt đối bằng cách kéo dài tuyệt
đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết khơng thay đổi.
nhưng phương pháp này cịn hạn chế về mặt thời gian, về thể chất và tinh thần
người cơng nhân. sự bóc lột này đã dẫn đến nhiều cuộc bãi cơng, đấu tranh
của các nghiệp đồn.
Nhà tư bản sản xuất ngày càng nhiều giá trị thăng dư bằng các rút ngắn
thời gian lao động cần thiết do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong
điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. phương pháp này khơng có giới
hạn.
Bên cạnh đó các nhà tư bản ngày nay đang tìm cách cải tạo kỹ thuật, đưa
kỹ thuật mới vào, nâng cao tay nghề công nhân, tạo điều kiện về tinh thần tốt
để tạo ra năng suất lao động cá biệt lớn hơn năng xuất lao động xã hội. Phần
giá trị thăng dư dơi ra ngồi giá trị thặng dư thông thường do thời gian lao

động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội cần thiết gọi là giá trị thặng
dư siêu bền. Phương pháp này là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu
ngạch.
4.CÁCHÌNHTHỨCBIỂUHIỆNCỦAGIÁTRỊTHẶNGDƯ
4.1 TIỀNLƯƠNG
Cơng nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nào đó, sản xuất ra một
lượng thời gian nào đó thì nhận được một số tiền cơng nhất định. Tiền trả
cơng đóđược gọi là tiền cơng. Hiện tượng đó làm người ta lầm tưởng rằng
tiền cơng là giá cả lao động.
Sự thật thì tiền cơng khơng phải là giá trị hay giá cả lao động. Vì lao động
khơng phải hàng hố và khơng thể làđối tượng mua bán. Sở dĩ như vậy là vì:
a) Nếu lao động là hàng hố thì nó phải có trước, phải được vật hố
trong một số trường hợp cụ thể nào đó. Tiền đềđể cho lao động có
11


thể "vật hố" là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động
có tư liệu sản xuất thì họ sẽ bán hàng hố do mình sản xuất, chứ
khơng bán "lao động".
b) Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu
thuẫn về lý luận sau đây: Nếu lao động là hàng hoá vàđược trao đổi
ngang giá, thì nhà tư bản khơng thu được lợi nhuận (giá trị thặng
dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của qui luật giá trị thặng dư
trong chủ nghĩa tư bản. Cịn nếu hàng hốđược trao đổi khơng
ngang giáđể có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì sẽ phủ nhận quy
luật giá trị.
c) Nếu lao động là hàng hố thì hàng hốđó cũng phải có giá trị.
Nhưng thước đo nội tại của giá trị là lao động. Như vậy giá trị của
lao động lại được đo bằng lao động là một điều luẩn quẩn, vô nghĩa.
Vì thế, lao động khơng phải là hàng hố, cái mà cơng nhân bán cho nhà

tư bản chính là sức lao động. Do đó, tiền cơng mà nhà tư bản trả cho công
nhân là giá cả của sức lao động. Vậy, bản chất của tiền công dưới chủ nghĩa
tư bản là giá trị hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài
giá trị hay giá cả của sức lao động.
Hình thức chuyển hố gây ra sự nhầm lẫn đó do những tình hình sau đây:
a) Đặc điểm của hàng hoá - sức lao động là khơng bao giờ tách khỏi
người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng
cho người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó nhìn bề ngồi
chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho sức lao động.
b) Đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để
có tiền sinh sống, do đó, bản thân cơng nhân cũng tưởng rằng mình
bán lao động. Cịn đối với nhà tư bản bỏ tiền ra để có lao động, nên
cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động.

12


c) Lượng của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc sản
phẩm sản xuất ra, điều đó khiến người ta tưởng lầm rằng tiền công
là giá cả công lao động.
Tiền công che đậy mọi giấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời
gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được
trả công và lao động không được trả công, do đó tiền cơng che đậy mất bản
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Tiền cơng có hai hình thức cơ bản là tiền cơng tính theo thời gian và tiền
cơng tính theo sản phẩm.
a) Tiền cơng tính theo thời gian là hình thức tiền cơng mà số lượng của
nó phụ thuộc vào thời gian lao động của công nhân ( giờ, ngày,
tuần, tháng ). Vậy cần phân biệt tiền công giờ, công ngày, công
tháng. Tiền công ngày và công tuần chưa nói rõđược mức tiền cơng

đó thấp hay cao, vì cịn tuỳ theo ngày lao động dài hay ngắn. Do đó,
muốn đánh giáđúng mức tiền cơng khơng chỉ căn cứ vào lượng tiền
mà còn căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động.
Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công
theo thời gian. thức hiện chếđộ tiền công theo thời gian, nhà tư bản
có thể khơng thay đổi công ngày, công tuần, mà vẫn hạ thấp được
giá cả lao động do kéo dài ngày lao động hoặc tăng cường độ lao
động. Trả cơng theo thời gian cịn có lợi cho các nhà tư bản khi tình
hình thị trường thuận lợi, hàng hoá tiêu thụ dễ dàng, thực hiện lối
làm việc thêm giờ, tức là làm việc ngoài số giờ quy định của ngày
lao động. Còn khi thị trường không thuận lợi buộc phải thu hẹp sản
xuất, nhà tư bản sẽ rút ngắn ngày lao động và thực hiện lối trả cơng
theo giờ, do đó hạ thấp tiền cơng xuống rất nhiều. Như vấy, công
nhân không những bị thiệt thòi khi khi ngày lao động bị kéo dài
quáđộ, mà còn bị thiệt hại khi phải làm việc bớt giờ.

13


b) Tiền cơng tính theo sản phẩm là hình thức tiền cơng mà số lượng của
nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận
của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra, hoặc tuỳ theo lượng của
cơng việc đã hồn thành. Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn
giá nhất định. Đơn giá là giá trả công cho mỗi đơn vị sản phẩm đã
sản xuất ra, theo giá biểu nhất định. Khi quy định đơn giá, nhà tưbản
tính đến hai yếu tố: tiền cơng trung bình của cơng nhân trong ngày,
và số lượng sản phẩm mà công nhân sản xuất ra trong ngày. Ví dụ,
tiền cơng tính theo thời gian trong ngày trung bình là 5USD, và số
lượng sản phẩm do cơng nhân làm ra trong ngày là 50 sản phẩm,
thìđơn giá của mỗi sản phẩm là: 5USD : 50 = 0,1USD. Do đó, về

thực chất đơn giá tiền cơng là tiền cơng trả cho thời gian cần thiết
sản xuất một sản phẩm. Vì thế, tiền cơng tính theo sản phẩm là hình
thức chuyển hố của tiền cơng tính theo thời gian. Hình thức tiền
cơng tính theo sản phẩm che dấu và xun tạc bản chất của tiền
cơng hơn cả so với hình thức tiền cơng tính theo thời gian. Nó làm
cho người ta lầm tưởng cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính
là lao động thể hiện trong sản phẩm và tồn bộ lao động đãđược trả
cơng. Chếđộ tiền cơng theo sản phẩm của chủ nghĩa tư bản làm cho
cường độ lao động tăng lên không ngừng. Công nhân buộc phải lao
động khẩn trương hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn để nhận
được số tiền để mua tư liệu sinh hoạt cần thiết. Nhưng, khi đa
sốđông công nhân đãđạt được mức cường độ lao động mới cao hơn,
thì nhà tư bản lại hạ thấp đơn giá của mỗi sản phẩm xuống. Đồng
thời, chế dộ tiền cơng tính theo sản phẩm làm cho nhà tư bản dễ
dàng kiểm sốt cơng nhân, đẻ ra sự cạnh tranh giữa công nhân, buộc
công nhân phải nâng cao cường độ lao động, và như vậy làm tăng
giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Một trong những chếđộ quan trọng
nhất của tiền công dưới chủ nghĩa tư bản là lao động khẩn trương
14


quá mức. Khi cường độ lao động vượt quá mức lao động nào đó, thì
bất cứ một sự bùđắp nào cũng không ngăn cản được sự phá hoại sức
khoẻ của người lao động. Cái gọi là "tổ chức lao động" chẳng hạn
như chếđộ Tay lo (Taylor), và chếđộ Pho (Ford) xét về mặt phương
pháp tiến hành là khoa học, song xét về thực chất là chếđộ tiền công
làm kiệt sức người lao động. Về mặt lịch sử, tiền cơng tính theo thời
gian được áp dụng rộng rãi trong giai đoạn đầu phát triển của chủ
nghĩa tư bản, còn ở giai đoạn sau tiền cơng tính theo sản phẩm được
áp dụng rộng rãi. Hiện nay, hình thức tiền cơng tính theo thời gian

ngày càng được mở rộng.
4.2 LỢINHUẬN
Quá trình sản ra giá trị thặng dư chỉ là sự tiêu biểu qua sản phẩm cịn thực
tếđể thu được tiền thì sự chuyển hố giá trị thặng dư như thế nào. Vì cơng
thức chung của tư bản là T-H-T' nên mục đích cuối cùng của nhà tư bản là
thu được T' còn m là nền tảng để thu được T' (T' > T). Mác đã giúp chúng ta
giải quyết vấn đề này vìơng đã tìm ra một đại lượng biểu hiện giá trị thặng
dưđó là lợi nhuận (P). Vậy:
"Giá trị thặng dư khi được đem so sánh với tổng tư bản ứng trước thì
mang giá trị hình thức biến tướng thành lợi nhuận" từđó ta có thể thấy P chính
là con đẻ của tổng tư bản ứng trước c + v.
Để hiểu rõ hơn về P chúng ta có thểđi sâu và phân tích chi phí thực tế xã
hội và chi phí sản xuất TBCN xuất phát từ giá trị hàng hoá c + v + m.
Muốn sản xuất hàng hoá phải chi phí lao động nhất định bao gồm chi phí
cho mua tư liệu sản xuất c gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị
mới (c + m). Đứng trên quan điểm xã hội, quan điểm của người lao động thì
chi phíđó là chi phí thực tếđể tạo ra giá trị hàng hoá (c + v + m). Nhưng đối
với các nhà tư bản thì họ khơng hao phí thực tếđể sản xuất ra hàng hố nên
nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản chứ khơng tính xem chi phí hết bao
nhiêu lao động cần thiết. Thực tế, họ chỉứng ra số tư bản để mua tư liệu sản
15


xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phíđóđược C.Mác gọi là chi phí tư bản
chủ nghĩa có sự chênh lệch nhau một lượng đúng bằng m. Do đó nhà tư bản
hàng hoá sẽ thu về một phần lời đúng bằng giá trị thặng dư m, số tiền này gọi
là lợi nhuận.
Giá trị hàng hoá lúc này bằng chi phí sản xuất TBCN cộng với lợi
nhuận:
Giá trị = k + P.

Về mặt lượng, P có nguồn gốc là kết quả của lao động không công của
công nhân làm thuê. Về mặt chất, P có nguồn gốc như tồn bộ tư bản ứng
trước đẻ ra. Do đó P che giấu quan hệ bóc lột TBCN. che giấu quan hệ nguồn
gốc thực sự của nó.
Do chi phí sản xuất TBCN ln ln nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế cho
nên nhà tư bản có thể bán hàng hố cao hơn chi phí sản xuất TBCN và có thể
thấp hơn giá trị hàng hoá. Nếu như nhà tư bản bán hàng hố với giá trị của nó
thì P=m. Nếu bán với giá trị cao hơn giá trị của nó thì P > m , nếu bán với
giá trị nhỏ hơn giá trị của nó thì P< m. Chính điều này đã làm cho họ cho rằng
lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà
tư bản mà có. Điều này dẫn đến sự che dấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư
bản.
4.3 TỈXUẤTLỢINHUẬN
Về tỉ xuất lợi nhuận (P) là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư
và toàn bộ tư bản ứng trước.
P' = m' . 100% : (c + v).
Tỉ xuất lợi nhuận khơng phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nó
nói lên mức lãi của việc đầu tư. Nó cho nhà tư bản biết họđầu tư vào đâu thì
có lợi . Do đó việc thu P và theo đuổi P làđộng lực thúc đẩy nhà tư bản, là
mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Do mục tiêu làđạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản luôn
luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Các quá trình cạnh tranh của các nhà tư
16


bản được Mác phân chia thành 2 loại : cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh
tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hố nhằm mục đích tiêu thụ
hàng hố có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.

Do bản chất của cạnh tranh chính là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa
những người sản xuất hàng hoá dựa trên chếđộ tư hữu về tư liệu sản xuất,
nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất của sản xuất và tiêu thụ hàng
hố. Vì vậy cho nên cạnh tranh trong nội bộ ngành buộc các xí nghiệp giảm
giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội để giành thắng lợi trong
cạnh tranh. Kết quả là do điều kiện sản xuất bình quân trong một ngành thay
đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành
sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Ở các ngành sản xuất
khác nhau có những điều kiện khác nhau, do đó tỉ suất lợi nhuận cũng khác
nhau. Các nhà tư bản chọn ngành có lợi nhuận cao đểđầu tư.
C.Mác viết :"Do ảnh hưởng của cạnh tranh những tỉ xuất lợi nhuận khác
nhau đó san bằng đi thành một tỉ suất lợi nhuận chung, đó là con số bình qn
của tất cả những tỉ xuất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của một tư bản có
một lượng nhất định thu được, theo tỉ xuất lợi nhuận chung đó, khơng kể cấu
tạo hiện có như thế nào gọi là lợi nhuận bình qn".
Q trình bình qn hố tỉ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỉ
suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của quy luất tỉ suất
lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của quy luật giá trị
thặng dư trong thời kì tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Sự hình thành tỉ xuất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che
giấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành P' và P
khơng làm chấm dứt q trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh
tranh vẫn tiếp diễn.
17


4.4 LỢINHUẬNTHƯƠNGNGHIỆP
Tổng doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà doanh nghiệp đó kiếm
được nhờ bán hàng hố, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. và quá trình bán

này cũng được tư bản công nghiệp chia cho một phần lợi nhuận. Lợi nhuận đó
sau này được gọi là lợi nhuận thương nghiệp.
Khác với tư bản thương nghiệp trước TBCN, tư bản thương nghiệp dưới
chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra phục vụ
q trình lưu thơng hàng hố của tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp
chỉ hạn chếở chức năng mua và bán, nó khơng sáng tạo ra giá trị và giá trị
thặng dư. Nó chỉ làm nhiệm vụ giá trị và giá trị thặng dư. Nhìn bề ngồi lợi
nhuận thương nghiệp là do mua rẻ, bán đắt do lưu thông tạo ra. Nhưng thực
chất " lợi nhuận thương nghiệp là một phần nhường cho nhà tư bản thương
nghiệp ". Nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một
phần bởi vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thơng, đó
là một khâu, một giai đoạn của q trình sản xuất, khơng có giai đoạn đó thì
q trình tái sản xuất khơng thể tiếp diễn tiếp tục được. Và dĩ nhiên nhà tư
bản thương nghiệp cũng không phải là hoạt động không cơng được mà họ
cũng địi hỏi phải có lợi nhuận. Điều này bắt buộc nhà tư bản công nghiệp
phải nhường một phần lợi nhuận của mình cho tư bản thương nghiệp.
Vậy "lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua
hàng hố ".
Nhưng điều đó khơng có nghĩa là tư bản thương nghiệp bán hàng hố
cao hơn giá trị của nó, mà là nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp
hơn giá trị và khi bán thì anh ta bán đúng giá trị của nó. Vì nhà tư bản thương
nghiệp tham gia vào việc phân chia m nên đời sống của xã hội tư bản hình
thành hai loại giá cả sản xuất : giá cả sản xuất thương nghiệp và giá cả sản
xuất thực tế. Sự hình thành P thương nghiệp đã che giấu thêm một bước quan
hệ bóc lột TBCN. Do việc phân phối P giữa tư bản công nghiệp và tư bản

18


thương nghiệp diễn ra theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình qn thơng qua

cạnh tranh
4.5. LỢITỨC
Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người
khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó. số lời đó
gọi là lợi tức.
Tư bản cho vay dưới thời CNTB là một bộ phận của tư bản công ngiệp tách
ra . Sở dĩ như vậy là vì sự xuất hiện và tồn tại của tư bản cho vay vừa là sự
cần thiết và vừa có khả năng thực hiện. điều đóđược thực hiện ở chỗ : trong
q trình tuần hồn và chu chuyển của tư bản công nghiệp , luôn có số tư bản
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà tư bản nhàn rỗi không sinh lời. Nhưng đối với tư
bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy nhà tư bản cho vay để kiếm lời , cũng
chính trong thời gian đó , có những nhà tư bản khác cần tiền. Từ hai mặt trên
tất yếu sinh ra sự vay mượn lẫn nhau, sinh ra quan hệ tín dụng TBCN.
Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra
trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức đã
che dấu mất thực chất bóc lột TBCN.
4.6 ĐỊATƠ
1 - Bản chất của địa tơ tư bản chủ nghĩa
Quan hệ sản xuất TBCN khơng chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vức
cơng nghiệp, mà nó cũng được hình thành, phát triển trong lĩnh vực nơng
nghiệp. Khi quan hệ sản xuất TBCN được hình thành, nếu khơng kểđến một
sốít nơng dân cá thể tự canh tác trên mảnh đất của họ, thì trong nơng nghiệp
TBCN có ba giai cấp chủ yếu: Giai cấp địa chủ, giai cấp các nhà tư bản kinh
doanh trong nông nghiệp (các nhà tư bản thuê ruộng đất để kinh doanh) và
giai cấp các công nhân nông nghiệp làm thuê.
Chúng ta đều thấy rằng, cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong công
nghiệp, nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi
nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nơng nghiệp thì họ phải
19



thuê ruộng đất của các địa chủ (chủ ruộng đất). Vì vậy, ngồi lợi nhuận bình
qn ra, nhà tư bản kinh doanh phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư
dơi ra ngồi lợi nhuận bình qn đó, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận
siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài, họ phải trả nó cho chủ ruộng đất
dưới hình thức địa tơ TBCN.
Vậy, địa tơ TBCN là một phần giá trị thặng dư cịn lại sau khi đã khấu
trừđi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Giữa địa
tô TBCN vàđịa tơ phong kiến cóđiểm giống nhau và khác nhau.
Sự giống nhau trước hết là quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt
kinh tế. Đồng thời, cả hai loại địa tơđều là kết quả của sự bóc lột đối với
những người lao động.
Song hai loại địa tô khác nhau về lượng và chất.
a) Về mặt lượng:Địa tô phong kiến gồm tồn sản phẩm thặng dư do nơng
dân tạo ra, có khi cịn lạm sang cả sản phẩm cần thiết. Cịn địa tơ
TBCN chỉ là một phần giá trị thặng dư ngồi lợi nhuận bình qn của
nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
b) Về mặt chất:Địa tô phong kiếnphản ánh mối quan hệ giữa hai giai cấp:
địa chủ và nơng dân, trong đó giai cấp địa chủ trực tiếp bóc lột của
nơng dân. Cịn địa tơ TBCN phản ánh mối quan hệ giữa ba giai cấp:
Giai cấp địa chủ, giai cấp tư bản kinh doanh ruộng đất và cơng nhân
nơng nghiệp làm th, trong đóđịa chủ gián tiếp bóc lột cơng nhân
thơng qua tư bản hoạt động.
Vấn đềđặt ra là : tại sao nhà tư bản kinh doanh có thể thu được phần giá trị
thặng dư dơi ra ngồi lợi nhuận bình qn để trả cho ruộng đất? Việc nghiên
cứu địa tô chênh lệch vàđịa tô tuyệt đối sẽ trả lời cho việc đó.
2 - Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa và sự hoạt động

20




×