Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận môn kinh tế chính trị mác lênin phân tích lí luận về các hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư, vai trò của lí luận lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.15 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Đề tài:
PHÂN TÍCH LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH THÁI BIỂU HIỆN CỦA GIÁ
TRỊ THẶNG DƯ, VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN LỢI NHUẬN TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................1
NỘI DUNG: LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ....................................3
I-PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ: ..........................................................3
1- Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản: ...........................................................3
2- Hàng hoá - sức lao động: ...........................................................................4
3- Bản chất giá trị thặng dư: ..........................................................................6
II- CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ: ..................8
1- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối: ........................................8
2- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối: .....................................9
III. CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ................10
1. Lợi nhuận ....................................................................................................10
1.1. Tỷ xuất lợi nhuận......................................................................................11
1.2. Lợi nhuận thương nghiệp ........................................................................12
2. Lợi tức ........................................................................................................13
3. Địa tô...........................................................................................................14
3.1. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa .......................................................14
3.2. Các hình thức địa tơ tư bản chủ nghĩa và sự hoạt động ...........................15
IV. Vai trò của lý luận lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện nay ..............17
1. Cơ chế thị trường: .......................................................................................17
2. Vai trò của lợi nhuận trong kinh tế thị trường.............................................18
2.1. Lợi nhuận là động lực trong nền kinh tế thị trường. ...............................18
2.2. Mặt trái của lợi nhuận trong kinh tế thị trường. ......................................19


2.3. Vai trò của nhà nước. ..............................................................................20
KẾT LUẬN ...................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................23


MỞ ĐẦU
Theo đánh giá của V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là “hòn đá tảng của
học thuyết kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của C. Mác là “nội dung căn
bản của chủ nghĩa Mác”. Để đạt mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản
đã mua sức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra
sản phẩm, thu về giá trị thặng dư. Nhưng nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một
phần giátrị sức lao động cho người cơng nhân thơng qua hình thức tiền lương
và bóc lột giá trị thặng dư do người cơng nhân sáng tạo ra trong quá trình sản
xuất.
Trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ
cơ bản, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó. Giá
trị thặng dư, phần giá trị do lao động của cơng nhân làm th sáng tạo ra ngồi
sức lao động và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ cơ bản nhất
đó. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân làm thuê sáng tạo
ra là nguồn gốc làm giàu của giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá trị thặng
dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Toàn bộ hoạt động của nhà tư bản
hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư thông qua hai phương pháp
cơ bản là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
Do vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung
chính của quy luật giá trị thặng dư. Nó tác động đến mọi mặt của xã hội tư
bản. Nó quyết định sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay
thế nó bằng một xã hội khác cao hơn, là quy luật vận động của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu các hình thức biểu hiện của giá trị thặng
dư trong nền kinh tế thị trường gồm lợi nhuận, lợi tức, địa tơ tư bản chủ

nghĩa, thực chất là phân tích về các quan hệ lợi ích giữa những nhà tư bản với
nhau, giữa nhà tư bản với địa chủ trong việc phân chia giá trị thặng dư thu

1


dược trên cơ sở hao phí sức lao động của người lao động làm thuê. Nên việc
nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư, nhất là hình thức biểu hiện của nó là
vấn đề lợi nhuận, có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy mà tơi đã chọn đề tài “Phân tích lí luận
về các hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư, vai trị của lí luận lợi
nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện nay” cho bài tiểu luận của mình.

2


NỘI DUNG
LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
I- PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ:
1- Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản:
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định.
Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản, mà tiền chỉ biến thành tư bản khi
được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.
Nếu tiền được dùng để mua bán hàng hố thì chúng là phương tiện giản
đơn của lưu thơng hàng hố và vận động theo cơng thức: Hàng- TiềnHàng(H-T-H), nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền tệ, rồi tiền tệ
lại chuyển hố thành hàng. Cịn tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo
cơng thức: Tiền - Hàng - Tiền (T-H-T), tức là sự chuyển hoá tiền thành hàng
và sự chuyển hoá ngược lại của hàng thành tiền. Bất cứ tiền nào vận động
theo cơng thức T-H-T đều được chuyển hố thành tư bản.
Mác lại giả định rằng trong xã hội tư bản có một loại nhà tư bản rất lưu

manh và xảo quyệt, khi mua các yếu tố sản xuất thì rẻ, cịn khi bán thì đắt.
Điều này chỉ giải thích được sự làm giàu của những thương nhân cá biệt chứ
không thể giải thích được sự làm giàu của tất cả giai cấp tư sản, vì tổng số giá
trị trước lúc trao đổi cũng như trong và sau khi trao đổi đều khơng thay đổi
mà chỉ có sự thay đổi trong việc phân phối giá trị giữa những người trao đổi
mà thôi. Và Mác kết luận rằng đây chẳng qua là hành vi móc túi lẫn nhau giữa
các nhà tư bản trong cùng giai cấp.
Vậy từ ba trường hợp cụ thể trong lưu thông Mác cho rằng: Trong lưu
thông không thể tạo ra giá trị và giá trị thặng dư vì vậy khơng thể là nguồn
gốc sinh ra ∆T.
Ở ngồi lưu thơng Mác xem xét cả hai yếu tố là hàng hoá và tiền tệ:

3


Đối với hàng hố ngồi lưu thơng: Tức là đem sản phẩm tiêu dùng hay
sử dụng và sau một thời gian tiêu dùng nhất định thì thấy cả giá trị sử dụng và
giá trị của sản phẩm đều biến mất theo thời gian.
Đối với yếu tố tiền tệ: Tiền tệ ở ngồi lưu thơng là tiền tệ nằm im một
chỗ. Vì vậy khơng có khả năng lớn lên để sinh ra ∆T.
Vậy ngồi lưu thơng khi xem xét cả hai yếu tố hàng hố và tiền tệ đều
khơng tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.
“ Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể
xuất hiện ở bên ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng
thời không phải trong lưu thông” (C.Mác: Tư bản. NXB Sự thật, HN, 1987,
Q1, tập 1,tr 216). Đó là mâu thuẫn của cơng thức chung của tư bản.
Khi Mác trở lại lưu thông lần thứ hai và lần này Mác đã phát hiện ra
rằng: Ở trong lưu thơng người có tiền là nhà tư bản phải gặp được một người
có một thứ hàng hố đặc biệt đem bán, mà thứ hàng hố đó khi đem tiêu dùng
hay sử dụng nó có bản tính sinh ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của

bản thân nó, hàng hố đặc biệt đó chính là sức lao động.
2- Hàng hoá - sức lao động:
Số tiền chuyển hoá thành tư bản không thể tự làm tăng giá trị mà phải
thơng qua hàng hố được mua vào (T-H). Hàng hố đó phải là một thứ hàng
hố đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị.
Thứ hàng hố đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể
con người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình sản
xuất ra một giá trị sử dụng.
Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động
chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định.
C.Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai
điều kiện tiền đề:

4


Một là, người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức
lao động của mình và có quyền đem bán cho người khác. Vậy người có sức
lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình.
Hai là, người lao động phải tước hết tư liệu sản xuất để trở thành
người vô sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì khơng cịn cách nào khác
để sinh sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu dẫn đến chỗ sức lao
động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định của sự chuyển hoá
tiền thành tư bản.
Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai
thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt
cần thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta; những yếu tố tinh

thần, dân tộc, tôn giáo của người công nhân, những chi phí đào tạo người
cơng nhân.
Giá trị hàng hố sức lao động giống giá trị hàng hố thơng thường ở
chỗ: Nó phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng
giữa chúng có sự khác nhau căn bản: Giá trị của hàng hố thơng thường biểu
thị hao phí lao động trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hoá - sức lao
động lại là sự hao phí lao động gián tiếp thơng qua việc sản xuất ra những vật
phẩm tiêu dùng để nuôi sống người cơng nhân. Cịn hàng hố sức lao động
ngồi yếu tố vật chất, nó cịn có yếu tố tinh thần lịch sử, dân tộc, yếu tố gia
đình và truyền thống, nghề nghiệp mà hàng hố thơng thường khơng có.
Cũng giống như các hàng hố thơng thường, hàng hố sức lao động có
khả năng thoả mãn những nhu cầu nhất định nào đó của người mua. Nhưng
giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động có thuộc tính đặc biệt, nó khác hồn
tồn với hàng hố thơng thường ở chỗ: Khi đem tiêu dùng hay sử dụng nó thì
khơng những không bị tiêu biến theo thời gian về giá trị và giá trị sử dụng mà
ngược lại nó lại tạo ra một lượng giá trị mới c + m ( c + m > v, với v là giá trị
5


sử dụng của bản thân nó). Khoản lớn lên được sinh ra trong q trình sử dụng
sức lao động chính là ∆T hay giá trị thặng dư.
Từ đó Mác kết luận: Hàng hoá - sức lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị
hơn thế nữa là tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Bởi vì, sức lao động
càng đem tiêu dùng hay sử dụng thì người cơng nhân hay người lao động
càng tích luỹ được kinh nghiệm nghề nghiệp, càng nâng cao năng suất lao
động. Vì vậy sẽ làm giảm giá trị hay mức tiền lương mà nhà tư bản đã trả cho
họ. Vì vậy, dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư bản rất ưa thích loại hàng hố
đặc biệt này.
Vậy q trình người cơng nhân tiến hành lao động là quá trình sản xuất
ra hàng hố và đồng thời là q trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản

thân giá trị sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư
bản đã chiếm đoạt. Như vậy, hàng hố - sức lao động có thuộc tính là nguồn
gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá - sức lao động so
với các hàng hố khác. Nó là chìa khố để giải thích tính mâu thuẫn của cơng
thức chung của tư bản.
3- Bản chất giá trị thặng dư:
Nói chung, trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản
xuất chỉ vì nó là vật mang giá trị trao đổi.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi,
nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hố
có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà
nhà tư bản đã bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình
sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác
viết: “ Với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình
tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hố; với tư
cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì
6


quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư
bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hố”.
Q trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao
động có hai đặc trưng:
Một là, người cơng nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản
giống như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho
có hiêụ quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ khơng phải
của người cơng nhân

C.Mác đã lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh làm đối tượng
nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mác đã sử
dụng phương pháp giả định khoa học thông qua giả thiết chặt chẽ để tiến hành
nghiên cứu: Không xét đến ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn
bộ giá trị tư liệu sản xuất đem tiêu dùng chuyển hết một lần vào giá trị sản
phẩm và chỉ nghiên cứu trong nền kinh tế tái sản xuất giản đơn.
Từ các giả định đó, Mác đưa ra một loạt các giả thiết để nghiên cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi; giá 1 kg bơng là 1 đơla; hao mịn
thiết bị máy móc để kéo 5 kg bơng thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao
động 1 ngày là 4 đôla; giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và
chỉ cần 4 giờ người công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi.
Từ đó, Mác đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngồi giá trị sức lao động
do cơng nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị
vượt khỏi điểm mà ở đó sức lao động của người cơng nhân đã tạo ra một
lượng giá trị mới ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà
nhà tư bản đã trả cho họ. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra
giá trị vượt khỏi giới hạn tại điểm đó giá trị sức lao động được trả ngang giá.

7


8


II- CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ:
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó
giai cấp tư sản đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng
dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị

thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
1- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối:
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách kéo dài
tuyệt đối thời gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện
thời gian lao động cần thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công
nhân là không đổi).
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần
thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư
bản là 100%. Giả định ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời
gian lao động cần thiết khơng đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên
một cách tuyệt đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng
lên đạt 200%

(m’ = 200%)

Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo
dài ngày lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho
các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của cơng
nhân là hàng hố, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì
vậy, ngồi thời gian người cơng nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí
nghiệp, người cơng nhân địi hỏi cịn phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi
nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hố đặc
biệt vì vậy ngồi yếu tố vật chất người cơng nhân địi hỏi cịn phải có thời
gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tơn giáo của mình.
Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vơ sản đấu tranh địi giai cấp tư
sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới
tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
9



2- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối:
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn
thời gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian
lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài của ngày lao động là không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần
thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc lột là 100%. Bây
giờ chúng ta lại giả thiết rằng, công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra
được một giá trị bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân
chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động
thặng dư trong trường hợp đó cũng thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần
thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư
bản lúc này là 300%

(m’ = 300%).

Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải
tìm mọi biện pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và công nghệ vào trong
quá trình sản xuất để nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành và
tiến tới giảm giá cả thị trường của sản phẩm. Đặc biệt nâng cao năng suất lao
động xã hội trong những ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu
dùng để nuôi sống người cơng nhân. Từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao
động.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát triển,
sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm vị trí chủ yếu. Hai phương pháp trên
được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột
cơng nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Trong nền kinh tế tư bản người công nhân sau quá trình làm việc cho
nhà tư bản sẽ nhận được một khoản thu nhập dưới hình thức tiền cơng hay

tiền lương. Với cách trả lương như vậy các nhà lí luận tư sản khẳng định rằng
tiền lương hay tiền công là giá cả của lao động. Và trong quá trình sản xuất
nhà tư bản trả đúng giá cả của lao động. Vì vậy dưới chủ nghĩa tư bản khơng
10


có bóc lột. Nhưng C.Mác đã khẳng định tiền lương khơng phải là giá cả của
người lao động. Bởi vì, lao động là một phạm trù trừu tượng nên người ta
không thể bán cái trừu tượng. Hơn nữa, lao động chỉ thể hiện khi vận dụng
sức lao động để tiến hành q trình sản xuất.
III. CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Lợi nhuận
Quá trình sản ra giá trị thặng dư chỉ là sự tiêu biểu qua sản phẩm cịn
thực tế để thu được tiền thì sự chuyển hố giá trị thặng dư như thế nào. Vì
cơng thức chung của tư bản là T-H-T' nên mục đích cuối cùng của nhà tư bản
là thu được T' còn m là nền tảng để thu được T' (T' > T). Mác đã giúp chúng
ta giải quyết vấn đề này vì ơng đã tìm ra một đại lượng biểu hiện giá trị thặng
dư đó là lợi nhuận (P). Vậy:
"Giá trị thặng dư khi được đem so sánh với tổng tư bản ứng trước thì
mang giá trị hình thức biến tướng thành lợi nhuận" từ đó ta có thể thấy P
chính là con đẻ của tổng tư bản ứng trước c + v.
Để hiểu rõ hơn về P chúng ta có thể đi sâu và phân tích chi phí thực tế
xã hội và chi phí sản xuất TBCN xuất phát từ giá trị hàng hoá c + v + m.
Muốn sản xuất hàng hố phải chi phí lao động nhất định bao gồm chi
phí cho mua tư liệu sản xuất c gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá
trị mới (c + m). Đứng trên quan điểm xã hội, quan điểm của người lao động
thì chi phí đó là chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá (c + v + m). Nhưng
đối với các nhà tư bản thì họ khơng hao phí thực tế để sản xuất ra hàng hoá
nên nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản chứ khơng tính xem chi phí hết
bao nhiêu lao động cần thiết. Thực tế, họ chỉ ứng ra số tư bản để mua tư liệu

sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó được C.Mác gọi là chi phí tư
bản chủ nghĩa có sự chênh lệch nhau một lượng đúng bằng m. Do đó nhà tư
bản hàng hố sẽ thu về một phần lời đúng bằng giá trị thặng dư m, số tiền này
gọi là lợi nhuận.

11


Giá trị hàng hố lúc này bằng chi phí sản xuất TBCN cộng với lợi
nhuận:
Giá trị = k + P.
Về mặt lượng, P có nguồn gốc là kết quả của lao động không công của
công nhân làm thuê. Về mặt chất, P có nguồn gốc như tồn bộ tư bản ứng
trước đẻ ra. Do đó P che giấu quan hệ bóc lột TBCN. che giấu quan hệ nguồn
gốc thực sự của nó.
Do chi phí sản xuất TBCN ln ln nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế
cho nên nhà tư bản có thể bán hàng hố cao hơn chi phí sản xuất TBCN và có
thể thấp hơn giá trị hàng hoá. Nếu như nhà tư bản bán hàng hoá với giá trị của
nó thì P=m. Nếu bán với giá trị cao hơn giá trị của nó thì P > m, nếu bán với
giá trị nhỏ hơn giá trị của nó thì P< m. Chính điều này đã làm cho họ cho rằng
lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà
tư bản mà có. Điều này dẫn đến sự che dấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư
bản.
1.1. Tỷ xuất lợi nhuận
Về tỉ xuất lợi nhuận (P) là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng
dư và toàn bộ tư bản ứng trước.
P' = m'. 100%: (c + v).
Tỉ xuất lợi nhuận khơng phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nó
nói lên mức lãi của việc đầu tư. Nó cho nhà tư bản biết họ đầu tư vào đâu thì
có lợi. Do đó việc thu P và theo đuổi P là động lực thúc đẩy nhà tư bản, là

mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Do mục tiêu là đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản
luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Các quá trình cạnh tranh của các nhà
tư bản được Mác phân chia thành 2 loại: cạnh tranh trong nội bộ ngành và
cạnh tranh giữa các ngành.

12


Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hố nhằm mục đích tiêu thụ
hàng hố có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Do bản chất của cạnh tranh chính là một hình thức đấu tranh gay gắt
giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất của sản xuất và tiêu thụ
hàng hố. Vì vậy cho nên cạnh tranh trong nội bộ ngành buộc các xí nghiệp
giảm giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội để giành thắng lợi
trong cạnh tranh. Kết quả là do điều kiện sản xuất bình quân trong một ngành
thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các
ngành sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Ở các ngành sản
xuất khác nhau có những điều kiện khác nhau, do đó tỉ suất lợi nhuận cũng
khác nhau. Các nhà tư bản chọn ngành có lợi nhuận cao để đầu tư.
C.Mác viết: "Do ảnh hưởng của cạnh tranh những tỉ xuất lợi nhuận
khác nhau đó san bằng đi thành một tỉ suất lợi nhuận chung, đó là con số bình
qn của tất cả những tỉ xuất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của một tư bản
có một lượng nhất định thu được, theo tỉ xuất lợi nhuận chung đó, khơng kể
cấu tạo hiện có như thế nào gọi là lợi nhuận bình qn".
Q trình bình qn hố tỉ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỉ
suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của quy luất tỉ suất

lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của quy luật giá trị
thặng dư trong thời kì tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Sự hình thành tỉ xuất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã
che giấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành P' và
P khơng làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh
tranh vẫn tiếp diễn.
1.2. Lợi nhuận thương nghiệp

13


Tổng doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà doanh nghiệp đó kiếm
được nhờ bán hàng hố, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. và quá trình bán
này cũng được tư bản công nghiệp chia cho một phần lợi nhuận. Lợi nhuận đó
sau này được gọi là lợi nhuận thương nghiệp.
Khác với tư bản thương nghiệp trước TBCN, tư bản thương nghiệp
dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra phục
vụ q trình lưu thơng hàng hố của tư bản công nghiệp. Tư bản thương
nghiệp chỉ hạn chế ở chức năng mua và bán, nó khơng sáng tạo ra giá trị và
giá trị thặng dư. Nó chỉ làm nhiệm vụ giá trị và giá trị thặng dư. Nhìn bề
ngồi lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ, bán đắt do lưu thông tạo ra.
Nhưng thực chất " lợi nhuận thương nghiệp là một phần nhường cho nhà tư
bản thương nghiệp ". Nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương
nghiệp một phần bởi vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu
thơng, đó là một khâu, một giai đoạn của q trình sản xuất, khơng có giai
đoạn đó thì q trình tái sản xuất khơng thể tiếp diễn tiếp tục được. Và dĩ
nhiên nhà tư bản thương nghiệp cũng không phải là hoạt động không cơng
được mà họ cũng địi hỏi phải có lợi nhuận. Điều này bắt buộc nhà tư bản
công nghiệp phải nhường một phần lợi nhuận của mình cho tư bản thương
nghiệp.

Vậy "lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua
hàng hố ".
Nhưng điều đó khơng có nghĩa là tư bản thương nghiệp bán hàng hoá
cao hơn giá trị của nó, mà là nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp
hơn giá trị và khi bán thì anh ta bán đúng giá trị của nó. Vì nhà tư bản thương
nghiệp tham gia vào việc phân chia m nên đời sống của xã hội tư bản hình
thành hai loại giá cả sản xuất: giá cả sản xuất thương nghiệp và giá cả sản
xuất thực tế. Sự hình thành P thương nghiệp đã che giấu thêm một bước quan
hệ bóc lột TBCN. Do việc phân phối P giữa tư bản công nghiệp và tư bản

14


thương nghiệp diễn ra theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình qn thơng qua
cạnh tranh
2. Lợi tức
Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một
người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó. số
lời đó gọi là lợi tức.
Tư bản cho vay dưới thời CNTB là một bộ phận của tư bản công ngiệp
tách ra. Sở dĩ như vậy là vì sự xuất hiện và tồn tại của tư bản cho vay vừa là
sự cần thiết và vừa có khả năng thực hiện. điều đó được thực hiện ở chỗ:
trong q trình tuần hồn và chu chuyển của tư bản cơng nghiệp, ln có số
tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà tư bản nhàn rỗi không sinh lời. Nhưng đối
với tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy nhà tư bản cho vay để kiếm lời, cũng
chính trong thời gian đó, có những nhà tư bản khác cần tiền. Từ hai mặt trên
tất yếu sinh ra sự vay mượn lẫn nhau, sinh ra quan hệ tín dụng TBCN.
Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng
tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức
đã che dấu mất thực chất bóc lột TBCN.

3. Địa tơ
3.1. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa
Quan hệ sản xuất TBCN khơng chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh
vức cơng nghiệp, mà nó cũng được hình thành, phát triển trong lĩnh vực nông
nghiệp. Khi quan hệ sản xuất TBCN được hình thành, nếu khơng kể đến một
số ít nông dân cá thể tự canh tác trên mảnh đất của họ, thì trong nơng nghiệp
TBCN có ba giai cấp chủ yếu: Giai cấp địa chủ, giai cấp các nhà tư bản kinh
doanh trong nông nghiệp (các nhà tư bản thuê ruộng đất để kinh doanh) và
giai cấp các công nhân nông nghiệp làm thuê.
Chúng ta đều thấy rằng, cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong
công nghiệp, nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi
nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nơng nghiệp thì họ phải
15


thuê ruộng đất của các địa chủ (chủ ruộng đất). Vì vậy, ngồi lợi nhuận bình
qn ra, nhà tư bản kinh doanh phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư
dơi ra ngồi lợi nhuận bình qn đó, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận
siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài, họ phải trả nó cho chủ ruộng đất
dưới hình thức địa tơ TBCN.
Vậy, địa tơ TBCN là một phần giá trị thặng dư cịn lại sau khi đã khấu
trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Giữa
địa tơ TBCN và địa tơ phong kiến có điểm giống nhau và khác nhau.
Sự giống nhau trước hết là quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về
mặt kinh tế. Đồng thời, cả hai loại địa tô đều là kết quả của sự bóc lột đối với
những người lao động.
Song hai loại địa tô khác nhau về lượng và chất.
a) Về mặt lượng: Địa tơ phong kiến gồm tồn sản phẩm thặng dư do
nơng dân tạo ra, có khi cịn lạm sang cả sản phẩm cần thiết. Cịn địa tơ TBCN
chỉ là một phần giá trị thặng dư ngoài lợi nhuận bình quân của nhà tư bản

kinh doanh ruộng đất.
b) Về mặt chất: Địa tô phong kiến phản ánh mối quan hệ giữa hai giai
cấp: địa chủ và nông dân, trong đó giai cấp địa chủ trực tiếp bóc lột của nơng
dân. Cịn địa tơ TBCN phản ánh mối quan hệ giữa ba giai cấp: Giai cấp địa
chủ, giai cấp tư bản kinh doanh ruộng đất và công nhân nông nghiệp làm
thuê, trong đó địa chủ gián tiếp bóc lột công nhân thông qua tư bản hoạt động.
Vấn đề đặt ra là: tại sao nhà tư bản kinh doanh có thể thu được phần giá
trị thặng dư dơi ra ngồi lợi nhuận bình quân để trả cho ruộng đất? Việc
nghiên cứu địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối sẽ trả lời cho việc đó.
3.2. Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa và sự hoạt động
a/ Địa tô chênh lệch
Trong các phần trên, chúng ta đã nghiên cứu và thấy rằng lợi nhuận
siêu ngạch trong công nghiệp chỉ là một hiện tượng tạm thời, không ổn định
với nhà tư bản cá biệt nào đó do họ có những điều kiện sản xuất tốt hơn điều
16


kiện sản xuất trung bình của xã hội. Lợi nhuận siêu ngạch này lại xuất hiện ở
các nhà tư bản khác khi họ có điều kiện sản xuất tốt hơn, thuận lợi hơn.
Trái lại, trong nơng nghiệp thì lại khác, do ruộng đất là tư liệu sản xuất
cơ bản, ruộng tốt, xấu khác nhau, đại bộ phận là xấu. Do đó người ta khơng
tạo thêm được ruộng đất, mà những ruộng tốt lại bị độc quyền kinh doanh
kiểu TBCN cho thuê hết nên buộc phải thuê ruộng đất xấu. Điều đó làm cho
những nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi
ln ln thu được lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối
ổn định và lâu dài, vì nó dựa trên tính chất kiên cố của ruộng đất và độ màu
mỡ của đất đai. Lợi nhuận siêu ngạch này sẽ chuyển hố thành địa tơ chênh
lệch.
Về giá cả trong nơng nghiêp cũng có sự khác biệt với trong cơng
nghiệp. Trong cơng nghiệp, giá cả sản xuất là do điều kiện trung bình quyết

định. Trong nơng nghiệp, nếu như vậy thì nhà tư bản kinh doanh trên ruộng
đất xấu không thu được lợi nhuận bình qn, và do đó họ sẽ chuyển sang kinh
doanh nghề khác. Song nếu chỉ kinh doanh trên ruộng đất tốt và trung bình thì
sẽ khơng đủ nơng sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của xã hội. Vì những lẽ trên
mà trong nơng nghiệp, giá cả nơng sản do điều kiện sản xuất trên ruộng đất
xấu quyết định.
Như vậy, địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận thừa ra ngồi lợi nhuận
bình qn, thu được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn.
Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung được quyêt định bởi điều kiện
sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất hạng
trung bình và tốt nhất.
Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch, nguồn gốc của
nó là một phần giá trị thặng dư do cơng nhân nông nghiệp tạo ra. Địa tô chênh
lệch gắn liền với sự độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối TBCN. Đó là
ngun nhân sinh ra địa tơ chênh lệch.
Có hai loại địa tô chênh lệch: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II.
17


- Địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên những trên những ruộng đất
có độ màu mỡ tự nhiên thuận lợi (trung bình và tốt), có vị trí gần với nơi tiêu
thụ hay gần đường giao thơng.
- Địa tô chênh lệch II là địa tô thu được nhờ thâm canh mà có. Thâm
canh ruộng đất là đầu tư thêm tư bản vào một đơn vị diện tích để nâng cao
chất lượng canh tác, nhằm tăng độ màu mỡ trên mảnh ruộng đó, nâng cao sản
lượng trên một đơn vị diện tích.
Chừng nào mà cịn thời hạn hợp đồng thuê ruộng thì nhà tư bản kinh
doanh bỏ túi số lợi nhuận siêu ngạch. Nhưng khi hết hạn hợp đồng, chủ ruộng
sẽ tìm cách nâng mức địa tơ để chiếm lấy số lợi nhuận siêu ngạch đó, tức là
biến lợi nhuận siêu ngạch thành địa tơ chênh lệch.

Vì lẽ đó mà chủ ruộng đất chỉ muốn cho thuê ruộng trong thời hạn
ngắn, cịn nhà tư bản kinh doanh thì muốn th với thời gian dài hơn. Cũng vì
lẽ đó mà nhà tư bản kinh doanh không muốn đầu tư vốn lớn để cải tiến kỹ
thuật, cải tạo đất đai, vì làm như vậy phải mất một thời gian dài mới thu hồi
được số vốn lớn đã bỏ ra, rốt cuộc chủ ruộng sẽ được hưởng những lợi ích do
việc cải tiến đem lại. Vì vậy, trong thời hạn thuê ruộng, nhà tư bản kinh doanh
tìm mọi cách tận dụng hết độ màu mỡ của đất để thu được lợi nhuận nhiều
hơn. Đó là mục đích kinh doanh của họ. Điều này giúp chúng ta dễ dàng đi
đến kêt luận là đất đai trong điều kiện canh tác theo lối TBCN thì độ màu mỡ
ngày càng giảm sút.
b/ Địa tơ tuyệt đối
Khi nghiên cứu địa tô chênh lệch, ta thấy hình như những nhà kinh
doanh trên ruộng đất xấu khơng phải nộp tô cho chủ ruộng. Nhưng thực tế
trong điều kiện chế độ tư hữu TBCN về ruộng đất thì chủ ruộng có ruộng đất
xấu vẫn thu được địa tơ. Vấn đề đặt ra là nhà tư bản kinh doanh trên ruộng
đất xấu lấy lợi nhuận siêu ngạch ở đâu để nộp cho chủ ruộng đất ?
Chúng ta đều biết, dưới chế độ TBCN do có sự độc quyền về tư hữu
ruộng đất, nên đã cản trở sự phát triển của TBCN trong lĩnh vực nông
18



×