Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

Luận văn - Vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.77 KB, 114 trang )

VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

BẢNG DANH TỪ VIẾT TẮT
CGCN
HNKTQT
KH - CN
KHTN
KHXH
KT - XH
KTTT
R&D
SHTT
TCH
WTO

Chuyển giao công nghệ
Hội nhập kinh tế quốc tế
Khoa học và công nghệ
Khoa học tự nhiên
Khoa học xã hội
Kinh tế - xã hội
Kinh tế thị trường
Nghiên cứu triển khai
Sở hữu trí tuệ
Tồn cầu hóa
Tổ chức thương mại thế giới

1



MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, nhân loại đã bước sang kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Đến nay, khoa học và công
nghệ đã trở thành động lực phát triển hàng đầu và đóng góp phần rất lớn vào tăng
trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia. Khoa học và công nghệ tác động mạnh mẽ và sâu
rộng đến mọi mặt đời sống của con người, sản xuất, xã hội, chính trị, văn hoá, khả
năng an ninh quốc gia và quan hệ quốc tế của các quốc gia trên thế giới. Nhiều nước
coi phát triển khoa học và công nghệ là "đầu tư cho tương lai". Nhận rõ vai trò to lớn
của khoa học và công nghệ, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đưa ra những định hướng và
biện pháp nhằm thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ trong cả nước. Nhờ đó,
hoạt động khoa học và cơng nghệ trong cả nước có bước chuyển biến đáng kể, trình
độ cơng nghệ của nền kinh tế được nâng cao.
Tuy vậy, so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mới cũng như
so với các nước trong khu vực thì trình độ khoa học và cơng nghệ của nước ta cịn
thấp, thị trường khoa học - cơng nghệ ở nước ta mới hình thành và phát triển sơ khai.
Nước ta hiện nay chưa có thị trường khoa học - công nghệ theo đúng nghĩa đầy đủ.
Nguyên nhân chủ yếu là do vai trò của Nhà nước đối với thị trường khoa học - cơng
nghệ cịn sơ khai và rất mờ nhạt. Từ nhiều năm qua, triển khai các quan điểm, đường
lối, nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế chính sách các văn
bản quy phạm pháp luật tạo môi trường thuận lợi khuyến khích hoạt động khoa học và
cơng nghệ trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh. Những điều kiện cơ bản cần thiết
nhất như chủ trương, đường lối và cơ chế chính sách cho phát triển thị trường khoa
học - công nghệ đủ để bắt đầu xúc tiến phát triển thị trường này. Tuy nhiên, trên thực
tế mức độ đi vào cuộc sống của các chủ trương này còn hạn chế mới dừng lại ở mức
nêu ra cái cần và cái phải làm, chưa có văn bản nêu ra làm gì và làm thế nào để xây
dựng và đưa thị trường khoa học và công nghệ vào hoạt động; Đổi mới cơ chế chính

sách quản lý được triển khai một cách dè dặt, chậm trễ; Thiếu cơ chế cụ thể để điều
phối hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ; Hệ thống

2


các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với thị trường khoa học công nghệ còn thiếu, chưa cụ thể, thiếu đồng bộ, lạc hậu so với thực tiễn, nhiều quy
định không khả thi; Thiếu phân công, phân cấp về quyền hạn và trách nhiệm giữa các
bộ, ngành, giữa trung ương và địa phương. Vậy Nhà nước cần làm gì để khắc phục
những thiếu sót trên?
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
cơng nghiệp hố, hiện đại hố nói riêng đang đặt ra yêu cầu lớn và bức xúc về việc
Nhà nước phải làm gì để tiếp tục đẩy mạnh phát triển thị trường khoa học - công nghệ.
Đứng trước những vấn đề nêu trên, chúng ta muốn phát triển thị trường khoa học
- cơng nghệ thì phải tăng cường vai trò của Nhà nước trong thị trường này. Đó là lý do
để vấn đề “Vai trị Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở
Việt Nam hiện nay" được chọn làm đề tài của luận văn này.
2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do khoa học và cơng nghệ có vai trị quan trọng và phát triển rộng khắp trên thế

giới nên việc nghiên cứu nhằm thúc đẩy phát triển lĩnh vực này đã được chú trọng từ
lâu ở nhiều nước.
Trên thế giới, có nhiều cơng trình nghiên cứu về thị trường khoa học - công nghệ và
phát triển thị trường khoa học - công nghệ của các nhà khoa học, các tổ chức. Chẳng
hạn, cơng trình "Ngun lý phát triển dựa trên cơng nghệ"của Trung tâm Chuyển giao
công nghệ Châu Á - Thái Bình Dương (APCTT) với 6 cuốn sách, trong đó làm rõ
những vấn đề chung về công nghệ và đánh giá công anghệ. Một số tác giả khác đi sâu

vào hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ như Morries Low
(2000), B. Bowonder (1989), Ramanathan (1990), hoặc nghiên cứu một số kinh
nghiệm về ứng dụng công nghệ ở một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung
Quốc... Điều đáng chú ý là phần lớn các cơng trình này chỉ tập trung nghiên cứu thị
trường khoa học - công nghệ và các biện pháp phát triển thị trường khoa học - cơng
nghệ. Cịn quản lý Nhà nước về thị trường khoa học - công nghệ chỉ được xem xét
dưới từng khái cạnh, từng vấn đề như chiến lược, chính sách mà chưa được nghiên
cứu dưới giác độ tổng thể, toàn diện.

3


Ở Việt Nam, quản lý nhà nước về thị trường khoa học - công nghệ đã được
nghiên cứu nhiều ở dạng phương pháp luận chung nhất để dạy ở các trường đại học,
các học viện hoặc được nghiên cứu ở tầm quốc gia do Bộ Khoa học và Công nghệ, ủy
ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội thực hiện dưới dạng đề tài cấp
Nhà nước, đề tài cấp bộ.
Một số cơng trình đã cơng bố chỉ tập trung vào nghiên cứu thị trường khoa học
- công nghệ nói chung chứ chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể vai trò của Nhà nước đối với
thị trường này. Các cơng trình đó nghiên cứu theo hướng:
Một là, lý giải về sự tồn tại của thị trường khoa học công nghệ hay thị trường
công nghệ. Đồng thời gắn với những quan niệm của mình, các nhà khoa học đã phân
tích các bộ phận cấu thành, thực trạng của các thị trường này ở Việt Nam. Đại diện
cho hướng nghiên cứu trên gồm có: Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa
học cơng nghệ với cuốn sách “Cơng nghệ và phát triển thị trường - công nghệ ở Việt
Nam”, Nxb Khoa học và kỹ thuật,H., 2003; Viện Nghiên cứu quản lý Trung ương với
sách tham khảo “
Thị trường công nghệ Việt Nam”, Nxb Khoa học kỹ thuật, H.,2004; GS.TS. Vũ Đình
Cự “ Thị trường khoa học” đăng trên tạp chí hoạt động khoa học tháng 10 năm 2004;
TS. Hồng Xuân Long “Lại bàn về thị trường khoa học - cơng nghệ” đăng trên tạp chí

lý luận số 1 - 2006.
Hai là, hướng nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển thị trường khoa học - công
nghệ của một số nước và rút ra bài học cho Việt Nam. Tiêu biểu có các cơng trình của
Nguyễn Nghĩa, Phạm Hồng Trường “Kinh nghiệm xây dựng thị trường công nghệ của
Trung Quốc” đăng trên tạp chí hoạt động khoa học số 11/2002; Hồng Xuân Long “
Kinh nghiệm của Trung Quốc về vấn đề thương mại hóa hoạt động khoa học cơng
nghệ” đăng trên tạp chí Thơng tin khoa học xã hội số 12 - 2000; GS. Jon Sigurdon
“Kinh nghiệm các nước Châu Âu về phát triển thị trường khoa học - công nghệ”
trong sách tham khảo “Phát triển thị trường khoa học - công nghệ Việt Nam”, Nxb
Khoa học và Kỹ Thuật,H.,2004.
Ba là, hướng nghiên cứu tập trung vào một vấn đề cụ thể về cung cầu, các giải
pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường khoa học - công nghệ như bài viết

4


của tác giả Trần Việt Lâm “Phát triển thị trường khoa học - cơng nghệ: Những vấn
đề từ phía doanh nghiệp” đăng trên tạp chí kinh tế và phát triển số 12/2005; Danh
Sơn “Tăng cường năng lực nội sinh về khoa học công nghệ trong hội nhập kinh tế
quốc tế” trên tạp chí Hoạt động khoa học số 1/2004; Lê Uy linh “Phát triển thị
trường khoa học công nghệ - Khổ vì thiếu luật” trên Thời báo Kinh tế Sài Gịn ngày
2/12/2004; Nguyễn Văn Tri “Mơi trường pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị
trường cơng nghệ” trên tạp chí Hoạt động khoa học số 4/2005
Như vậy, đến nay các cơng trình đã cơng bố chưa có cơng trình nào xem xét
phân tích một cách đầy đủ có hệ thống về lý luận và thực tiễn tác động của Nhà nước
đến sự phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam theo nội
dung và tiêu chí đánh giá thống nhất và phù hợp với điều kiện thị trường này.
Do đó, việc nghiên cứu “ Vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học
- công nghệ ở Việt Nam hiện nay" sẽ kế thừa những kết quả đạt được, đồng thời bổ
sung những nội dung mới nhằm hệ thống hóa các vấn đề nêu trên để nâng cao nhận

thức và kiến nghị những giải pháp thúc đẩy vai trò của Nhà nước trong việc phát triển
thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Từ việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà nước
trong việc phát triển thị trường khoa học - cơng nghệ, phân tích thực trạng vai trò của
Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học - công nghệ Việt Nam Luận văn đề
xuất các quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong phát triển thị
trường khoa học - công nghệ giai đoạn hiện nay.
- Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
* Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học
- cơng nghệ và kinh nghiệm phát huy vai trị nhà nước trong phát triển thị trường khoa
học - công nghệ ở một số nước trong khu vực và thế giới.
* Phân tích, đánh giá vai trị của Nhà nước trong việc phát triển thị trường khoa
học - công nghệ ở Việt Nam.

5


* Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong
việc phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò của Nhà nước với tư cách là “
bà đỡ"cho sự ra đời của các quan hệ thị trường. Đồng thời Nhà nước cịn có chức năng
khắc phục các khuyết tật thị trường, thúc đẩy sự phát triển thị
trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam.
* Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong việc phát triển thị
trường khoa học - công nghệ chủ yếu từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới nhưng trọng
tâm trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Đây là giai đoạn Luật Khoa học và công
nghệ ra đời năm 2000. Giai đoạn này là đủ dài để đưa ra đánh giá, phân tích về thị

trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trên cơ sở quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Ngồi ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, tổng
hợp, lịch sử kết hợp với logic, thống kê và phương pháp tiếp cận hệ thống, dự báo.
- Phương pháp lịch sử kết hợp với logic được sử dụng trong việc phân tích tổng
hợp tác động của Nhà nước đến thị trường khoa học - công nghệ.
- Luận văn tổng hợp và phân tích các lý luận cơ bản về vai trò của Nhà nước đến
phát triển thị trường khoa học - cơng nghệ. Luận văn phân tích tổng hợp kinh nghiệm
của một số nước trong việc phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển thị trường
khoa học - cơng nghệ và có sự đối chiếu, so sánh với Việt Nam để rút ra những bài
học kinh nghiệm.
- Phương pháp phân tích định tính, định lượng và thống kê được sử dụng trong
luận án để đánh giá vai trò của Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học - cơng
nghệ ở Việt Nam.Phân tích định tính để đưa ra nhận xét, đánh giá, làm rõ tác động của
Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học - công nghệ. Các số liệu của phương

6


pháp thống kê và phân tích định lượng để kiểm chứng, chứng minh các nhận xét, đánh
giá được đưa ra.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống để xem xét thị trường khoa học - công nghệ
như một hệ thống chỉnh thể bao gồm nhiều chủ thể nhân tố gắn kết hữu cơ với nhau
như hàng hóa, cung, cầu, thể chế.
- Luận văn sử dụng phương pháp dự báo để dự báo bối cảnh quốc tế, bối cảnh
trong nước và các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường khoa học - cơng nghệ trong thời
gian tới.

6. Những đóng góp mới của luận văn.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về vai trò Nhà nước trong phát triển thị
trường khoa học - cơng nghệ.
- Phân tích làm rõ vai trị Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học - công
nghệ ở Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất được các giải pháp nhằm nâng cao vai trò Nhà nước trong phát triển
thị trường khoa học - công nghệ Việt Nam trong thời gian tới.
7.

Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được cấu

thành 3 chương:
Chương 1: Vai trò Nhà nước trong việc phát triển thị trường khoa học - công
nghệ: cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế
Chương 2: Thực trạng vai trò của Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học
- công nghệ ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong
việc phát triển thị trường khoa học - công nghệ trong thời gian tới

7


Chương 1
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1.

Phát triển thị trường khoa học- công nghệ

1.1.1. Những khái niệm cơ bản

Thứ nhất, khái niệm về khoa học và công nghệ
* Khoa học:
Thế giới vật chất và tinh thần bao gồm các hiện tượng và quá trình hết sức
phong phú, đa dạng và phức tạp. Từ khi xuất hiện, lồi người ra sức tìm hiểu, khám
phá ra bản chất bên trong, các quy luật chi phối sự vận động, phát triển của các sự vật,
hiện tượng, các quá trình của thế giới hiện thực và của bản thân con người. Chính q
trình tìm tịi, khám phá đó làm cho khoa học ra đời và khơng ngừng phát triển.
Khoa học theo nghĩa rộng bao gồm những đặc trưng:
- Khoa học là một lĩnh vực hoạt động của con người. Để tồn tại và phát triển,
con người phải tiến hành nhiều hoạt động khác nhau: Kinh tế, chính trị, tơn giáo, văn
hố, giáo dục, thể dục thể thao, quốc phịng-an ninh trong đó có hoạt động khoa học.
- Đối tượng nghiên cứu của khoa học là các sự vật, hiện tượng và quá trình của
tự nhiên, xã hội và tất cả những gì thuộc về con người. Sở dĩ đối tượng nghiên cứu của
khoa học rộng lớn như vậy vì để tồn tại và phát triển, con người phải quan tâm đến
chính bản thân mình và tất cả những gì ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc
sống của mình.
- Mục đích của hoạt động nghiên cứu khoa học là tìm ra các thuộc tính, tính
chất, kết cấu bên trong của mỗi sự vật và mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Những kết quả của hoạt động khoa học là làm tăng hiểu biết của con người về thế giới
hiện thực. Những kết quả đó được gọi là tri thức khoa học. Tri thức khoa học là
những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và về con người; được thể hiện bằng các phát
minh dưới dạng lý thuyết, định lý, định luật, công thức, nguyên tắc.
Theo nghĩa hẹp, khoa học là hệ thống tri thức về các sự vật, hiện tượng và quá
trình của tự nhiên, xã hội và con người.

8


Để khám phá ra bản chất, quy luật vận động của sự vật hiện tượng, khoa học sử
dụng nhiều phương pháp khác nhau: thống kê, thực nghiệm, phân tích, tổng hợp. . . .

Sự phát triển của khoa học dẫn đến sự hình thành các ngành, chuyên ngành khoa
học ngày càng sâu. Sự phát triển của khoa học làm cho con người tích luỹ được các tri
thức khoa học ngày càng lớn.
Khoa học được phân chia thành KHTN và KHXH. KHTN bao gồm các ngành
khoa học nghiên cứu các hiện tượng và q trình tự nhiên. Đó là các ngành khoa học
như: toán học, lý học, hoá học, sinh học... KHXH bao gồm các ngành khoa học nghiên
cứu các hiện tượng và q trình xã hội. Đó là các ngành như: kinh tế học, tâm lý học,
xã hội học, luật học... Ngày nay, người ta còn tách một số ngành trong khoa học xã
hội và gọi là khoa học nhân văn như: văn học, sử học... Vì đối tượng nghiên cứu của
các ngành là các hiện tượng và quá trình xã hội nên các ngành khoa học nhân văn
không thể nằm ngoài khoa học xã hội.
Gianh giới giữa KHTN và KHXH chỉ là tương đối và chúng bổ sung, hỗ trợ cho
nhau. Chẳng hạn trong kinh tế học, xã hội học người ta sử dụng rất nhiều các công
thức, định lý toán học. Ngay trong sử học người ta cũng phải sử dụng các phương
pháp lý học, hoá học... để xác định chính xác niên đại của các cổ vật, thậm chí của cả
một nền văn minh.
* Cơng nghệ:
Hiện nay trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về công nghệ. Cuối thập
niên tám mươi của thế kỷ XX, ở nước ta có một cuộc tranh luận về khái niệm khoa
học kỹ thuật hay khoa học - kỹ thuật - cơng nghệ. Khi đó, khái niệm cơng nghệ được
đồng nhất với khái niệm kỹ thuật. Khái niệm kỹ thuật được định nghĩa là: “việc sử
dụng tổng hợp các công cụ lao động, các nguyên liệu sản xuất, các phương pháp do
con người sáng tạo ra, đưa vào quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã
hội” Cùng với sự phát triển của nền sản xuất, hàng loạt khái niệm mới xuất hiện, trong
đó có khái niệm công nghệ.
Tác giả F. R. Root cho rằng: “công nghệ là dạng kiến thức có thể áp dụng được
vào việc sản xuất ra các sản phẩm và sáng tạo ra các sản phẩm mới” Theo quan niệm
này, công nghệ chính là sự vận dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất. Đây là

9



ưu điểm nổi bật của khái niệm này: nó làm rõ được quan hệ giữa khoa học và công
nghệ. Tuy nhiên, quan niệm về cơng nghệ như vậy cịn đơn giản.
Cùng quan niệm này là Tác giả P. Strunk. Ông cho rằng: “công nghệ là sự áp
dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng những nghiên cứu và cách xử lý
một cách có hệ thống và có phương pháp” Sự khác nhau giữa Ông và tác giả trên ở
chỗ là Ơng đã cảm nhận được tính phức tạp của công nghệ. Nhiều nhà nghiên cứu
khác cũng đã đưa ra những quan niệm tương tự.
Các nhà nghiên cứu khác tiến xa hơn trong quan niệm về công nghệ khi đặt nó
trong quan hệ với thị trường. R. Jones cho rằng: Cơng nghệ là cách thức mà qua đó
các nguồn lực được chuyển thành hàng hoá”. Theo quan niệm này, cơng nghệ được
gắn với nền kinh tế hàng hố hay kinh tế thị trường. Tuy nhiên, khái niệm này lại có
nhược điểm là khá đơn giản, chưa đề cập đến quan hệ giữa khoa học và công nghệ.
Theo Uỷ ban kinh tế xã hội Châu á - Thái Bình Dương “Cơng nghệ là hệ thống
tri thức về quy trình kỹ thuật chế biến vật liệu và thơng tin. Nó bao gồm tất cả kỹ
năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo dịch vụ công
nghiệp, dịch vụ quản lý”. Khái niệm này sâu rộng hơn những khái niệm trên nhưng
chủ yếu mới đề cập đến mặt kỹ thuật. UNCTAD đưa ra định nghĩa về công nghệ đầy
đủ hơn. “Công nghệ là một đầu vào cần thiết cho sản xuất và như vậy, nó được mua
bán trên thị trường như một hàng hoá được thể hiện ở một trong những dạng sau:
- Tư liệu sản xuất và đôi khi là các sản phẩm trung gian, được mua và bán trên
thị trường, đặc biệt là gắn với các quyết định đầu tư.
- Nhân lực, thông thường là nhân lực có trình độ và đơi khi là nhân lực có trình
độ cao và chun sâu, với khả năng sử dụng đúng các thiết bị và kỹ thuật và làm chủ
được bộ máy giải quyết vấn đề và sản xuất thơng tin.
- Thơng tin, dù đó là thơng tin kỹ thuật hay thông tin thương mại, được đưa ra
trên thị trường hay được giữ bí mật như một phần của hoạt động độc quyền”.
Đây là định nghĩa khá đầy đủ, chỉ ra được cấu trúc của công nghệ và đặc biệt đã
gắn công nghệ với cơ chế thị trường.

Theo Luật khoa học - cơng nghệ năm 2000 thì cơng nghệ “là tập hợp các
phương pháp các quy trình, kỹ năng bí quyết, cơng cụ, phương tiện dùng để biến đổi

10


các nguồn lực thành sản phẩm” [50]. Theo PGS. TS. Vũ Anh Tuấn, công nghệ được
hiểu theo nghĩa là "tập hợp các công cụ, phương tiện để biến đổi các nguồn lực tự
nhiên, nguồn lực sản xuất trung gian thành hàng hoá tiêu dùng hoặc nguồn lực sản
xuất trung gian’” [66]. Cơng nghệ bao gồm phần cứng, hữu hình và phần mềm, vơ
hình. Phát triển cơng nghệ gồm cả phần cứng (máy móc, thiết bị...), phần mềm (phát
minh, sáng chế, giải pháp hữu ích...).
Như vậy, khái niệm cơng nghệ được hiểu đầy đủ là : Công nghệ là tập hợp
những giải pháp kỹ thuật để chế tạo ra hàng hoá và dịch vụ; là tồn bộ q trình biến
các nguồn lực thành sản phẩm hàng hoá theo yêu cầu của thị trường.
Theo khái niệm trên, bản chất của công nghệ là kỹ thuật (Công nghệ là tập hợp
những giải pháp kỹ thuật để chế tạo ra hàng hoá và dịch vụ). Như vậy, giữa khái niệm
công nghệ và khái niệm kỹ thuật khơng có sự khác biệt về bản chất. Tuy nhiên, sự
khác biệt quan trọng giữa 2 khái niệm này là ở chỗ, cơng nghệ thể hiện mục đích của
các hoạt động kỹ thuật trong cơ chế thị trường (là tồn bộ q trình biến các nguồn
lực thành sản phẩm hàng hoá theo yêu cầu của thị trường). Hiện nay, cơ chế kinh tế
thế giới sử dụng là cơ chế thị trường. Do đó, việc sử dụng khái niệm công nghệ phổ
biến hơn khái niệm kỹ thuật là điều dễ hiểu.
Theo quan niệm phổ biến hiện nay, công nghệ gồm bốn thành phần:
- Thành phần kỹ thuật (technoware) bao gồm các thiết bị, máy móc kỹ thuật, nhà
xưởng... mang hình thái vật thể “hữu hình”.
- Là thành phần thơng tin phi vật thể “vơ hình” (inforeware) gồm các bí quyết,
phát minh, sáng chế, quy trình cơng nghệ, phương pháp công nghệ, cách thức xử lý
giải pháp công nghệ...
- Thành phần nhân lực (humanware) gồm kiến thức, kỹ năng, trình độ tay nghề,

kinh nghiệm, về các lĩnh vực của người lao động, khả năng thích ứng với các điều
kiện sản xuất của người lao động...
- Thành phần tổ chức (orgaware) gồm việc tổ chức, quản lý, điều hành, kiểm tra,
điều phối bố trí các nguồn lực...
Từ khái niệm khoa học và khái niệm công nghệ được đề cập ở trên, có thể thấy
rằng, khoa học và cơng nghệ là hai khái niệm khác nhau. Khoa học phải tìm tịi, phát

11


minh ra tri thức mới; công nghệ là việc ứng dụng tri thức đó vào thực tiễn cuộc sống,
là việc ứng dụng những phát minh khoa học vào việc sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ.
Tuy nhiên, hai khái niệm đó có quan hệ chặt chẽ với nhau. Những thành tựu về khoa
học là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển công nghệ. Sự phát triển công nghệ, một mặt,
làm cho các thành tựu khoa học được ứng dụng trong thực tiễn, làm cho hoạt động
khoa học mang tính thực tiễn, phục vụ thực tiễn. Mặt khác, sự phát triển của công
nghệ làm cho hoạt động thực tiễn của con người có hiệu quả cao hơn nên có điều kiện
đầu tư nhiều hơn cho khoa học; thực tiễn đặt ra cho khoa học những đòi hỏi mới cao
hơn. Từ đó, thúc đẩy khoa học tiếp tục phát triển. ăng ghen đã có nhận xét rất sâu sắc
về quan hệ này:" Nếu kỹ thuật phụ thuộc một phần lớn vào tình trạng của khoa học thì
khoa học lại cịn phụ thuộc nhiều hơn nữa vào tình trạng và những địi hỏi của kỹ
thuật. Khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nhu cầu này thúc đẩy khoa học tiến lên
hơn mười trường đại học."[17, tr. 788]
Do quan hệ chặt chẽ đó, chúng ta nên thay thuật ngữ khoa học - công nghệ cho
thuật ngữ khoa học và công nghệ.
Hơn thế nữa, trong thời đại KH - CN phát triển như vũ bão, việc phân chia đâu là
thành tựu khoa học, đâu là phát minh công nghệ không phải lúc nào cũng thực hiện
được. Chẳng hạn, việc phát minh ra một nguồn năng lượng mới; một hệ điều hành
máy tính mới, sinh sản vơ tính... Hơn nữa, ngay cả những thành tựu khoa học cơ bản
(việc phát hiện ra bản đồ gien của con người) cũng không dễ gì xin được, mà phải

mua. Do vậy, phải sử dụng thuật ngữ “hàng hố khoa học - cơng nghệ” thay cho thuật
ngữ hàng hố cơng nghệ.
Thứ hai, khái niệm về hàng hóa khoa học - cơng nghệ Hàng hố khoa học - cơng
nghệ chính là một phần hoặc tồn bộ cơng nghệ hồn chỉnh, những kết qủa nghiên cứu
phát triển R&D, các dịch vụ KH - CN có giá trị thương mại....[28, tr. 8-12]. Hàng hố
khoa học - cơng nghệ được phân loại thành các loại cơ bản sau đây:
1- Li-xăng/Pa-tăng sáng chế giải pháp hữu ích. Trong đó, Li-xăng là văn bằng sử
dụng cho mục đích thương mại, các phương pháp, mơ hình, phần mềm về cơng nghệ,
thiết kế. Pa-tăng là văn bằng bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với phát minh, sáng chế. Các

12


hợp đồng Li-xăng về sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng cơng
nghiệp, các thực thể được quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ khác.
2- Kết quả nghiên cứu phát triển (R&D) của các cơ quan, tổ chức khoa học-cơng
nghệ dưới dạng chưa hồn chỉnh cả về kỹ thuật cũng như thương mại, có khả năng
đăng ký Pa-tăng và nó chỉ có giá trị thương mại ở dạng tiềm năng.
3- Bí mật cơng nghệ: các quy trình cơng nghệ, các phần mềm điều khiển, ứng
dụng, các công thức, bản vẽ thiết kế, mô tả... Đây là những thứ có giá trị thương mại
trên thị trường nhưng không đuợc công bố, hoặc được công bố nhưng chỉ một phần
không đầy đủ.
4- Dịch vụ kỹ thuật: Các dịch vụ tư vấn, thiết kế kỹ thuật, dịch vụ tư vấn lựa
chọn thiết bị, công nghệ, dịch vụ đo lường kiểm định, dịch vụ lắp đặt vận hành, dịch
vụ đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ, dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng.
5- Dịch vụ R&D theo đơn đặt hàng của các tổ chức, các công ty. Đây là một loại
chi phí mà tất cả các cơng ty đều phải dành để phát triển hoàn thiện các sản phẩm,
hoặc tung ra các sản phẩm mới để tạo lợi thế cạnh tranh với các đối thủ. Tuy nhiên,
trên thực tế chỉ có những cơng ty, tổ chức có quy mơ lớn mới có thể tự thực hiện được
tất cả các cơng đoạn của hoạt động R&D. Bên cạnh đó có rất nhiều cơng ty vừa và

nhỏ, chính phủ và cả chính những công ty lớn cũng vẫn sử dụng việc đặt hàng R&D
tổng thể hay từng phần đối với các tổ chức chuyên nghiên cứu, như các viện nghiên
cứu, trường đại học... đối với việc phát triển của mình.
6- Thiết bị chứa đựng cơng nghệ, gồm tồn bộ hệ thống thiết bị hoặc một phần
để chế tạo ra một loại, hoặc nhiều sản phẩm có những đặc điểm chung giống nhau,
hoặc thực hiện một vài cơng việc nào đó trong tồn bộ một chu trình sản xuất.
7- Tồn bộ hoặc từng phần một doanh nghiệp bao gồm cả công nghệ quản lý,
những phương thức điều hành quản lý trong nội bộ doanh nghiệp hoặc trong từng bộ
phận doanh nghiệp.
Hàng hóa KH - CN có những đặc điểm sau:
Một là, hàng hóa KH - CN có thể là hữu hình hoặc vơ hình. Hàng hóa KH - CN
có thể tồn tại dưới dạng tri thức thuần túy hoặc tồn tại dưới dạng tri thức được “vật

13


hóa” với các dạng cụ thể như cơng thức, bản vẽ, quy trình cơng nghệ, máy móc, thiết
bị cơng nghệ.
Là một hệ thống tri thức tích luỹ trong q trình lịch sử và đã được thực tiễn
kiểm nghiệm, khoa học phản ánh những quy luật khách quan của thế giới hiện thực,
cũng như của hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo
thế giới hiện thực. Với tư cách là “hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật
của tự nhiên xã hội, tư duy" thì tri thức khoa học thuộc về xã hội.
Sản phẩm KH - CN cũng như bất kỳ loại sản phẩm nào khác phải tồn tại dưới
những hình thức cụ thể nhất định (định luật, định lý, quy trình cơng nghệ, những cơng
trình nghiên cứu khoa học, những bài giảng của các giảng viên, những cuốn sách...).
Lao động tạo ra sản phẩm KH - CN là lao động đặc biệt và sản phẩm KH - CN là
kết qủa của lao động bậc cao. Người lao động tạo ra sản phẩm KH - CN thường là
những nhà khoa học, các nhà thực nghiệm và các nhà hoạt động thực tiễn.
Như vậy, hàng hố KH - CN có nguồn gốc duy nhất là lao động sáng tạo của

con người.
Hai là, cơ chế định giá hàng hóa KH - CN có đặc thù khác rất xa so với hàng hóa
thơng thường. Như đã trình bày, hàng hố KH - CN khơng chỉ biểu hiện ở dạng hữu
hình như một dây chuyền máy móc thiết bị cơng nghệ, mà cịn được thể hiện ở rất
nhiều các trạng thái vơ hình khác như bí quyết, cơng thức, phần mềm... Do vậy, việc
xác lập hoặc tính tốn giá trị của loại hàng hóa này hết sức phức tạp, rất khó đo lường
được mức độ chi phí một cách trực tiếp, cụ thể để có thể làm căn cứ cho việc xác định
giá thành sản phẩm. Hàng hố KH - CN mang tính đơn chiếc nên thị trường khơng có
khả năng xác định chính xác giá trị của chúng. Trong khơng ít trường hợp, giá trị hàng
hoá KH - CN được xác định trong quá trình sử dụng.
Giá trị sử dụng của sản phẩm KH - CN chính là tính ứng dụng của nó trong thực
tiễn và giá trị sử dụng này luôn được thực hiện trong q trình con người tiêu dùng nó.
Giá trị sử dụng của sản phẩm KH - CN mang lại cho con người khả năng nâng cao
trình độ hiểu biết và nhận thức được các quy luật khách quan, từ đó dự đốn được xu
hướng vận động của các lĩnh vực tự nhiên và xã hội; giúp con người đạt được hiệu quả
cao trong mọi hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Những phương pháp, bí quyết

14


hay những cơng cụ, phương tiện... chính là sản phẩm cơng nghệ mà nhờ nó con người
có thể biến các nguồn lực trở thành hàng hoá. Việc áp dụng những tiến bộ công nghệ
vào sản xuất sẽ giúp khai thác hiệu quả các nguồn lực trong sản xuất, từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh cho mỗi ngành, mỗi lĩnh vực và cho nền kinh tế nói chung. Trong
q trình chinh phục thế giới tự nhiên, cũng như quản lý xã hội, con người từng bước
khám phá, rút ra những quy luật, nguyên lý vận động và phát triển của sự vật hiện
tượng. Trên cơ sở nhận thức về sự vật, hiện tượng, con người lại tiếp tục tác động đến
thế giớí tự nhiên và xã hội. Nhu cầu hiểu biết và lĩnh hội tri thức khoa học của con
người là khơng có giới hạn vì bản thân tri thức khoa học là vơ tận. Chính vì vậy giá trị
sử dụng của sản phẩm KH - CN luôn cần thiết cho sự phát triển của xã hội. Như vậy,

giá trị sử dụng hàng hoá KH - CN bền vững với thời gian, được kế thừa và phát triển.
Trong quá trình sử dụng, tính hữu ích của hàng hố KH -CN càng cao, lợi ích
người sử dụng càng lớn, giá cả của hàng hố càng lớn. Do đó, giá cả hàng hố KH CNphụ thuộc vào tính hữu ích (giá trị sử dụng) của nó.
Ba là, hàng hóa KH - CN có tính chất hàng hóa cơng cộng, tức là nó có tính
khơng thể cạnh tranh trong tiêu dùng, tính khơng thể ngăn cản. Tính khơng thể cạnh
tranh trong tiêu dùng tức là hàng hóa có thể cung ứng cho người này thì cũng có thể
cung ứng cho người khác mà khơng phải chi phí thêm. Ví dụ: cơng nghệ làm nhà
khung bê tông, công nghệ làm cầu bê tông đúc hẫng... Các doanh nghiệp xây dựng sử
dụng những công nghệ này tăng lên khơng làm tăng chi phí xã hội. Tính khơng thể
ngăn cản là khơng thể ngăn cản một người sử dụng hàng hóa dù cho người đó khơng
trả tiền. Chẳng hạn, không thể ngăn cản các doanh nghiệp xây dựng sử dụng những
công nghệ làm nhà, làm cầu nên trên...
Tuy nhiên, nếu các hàng hóa này được cung cấp như các hàng hóa cơng cộng sẽ
khơng khuyến khích được các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, cũng như các hoạt
động sáng tạo ra các hàng hóa cơng nghệ mới của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
KH - CN là sản phẩm chứa đựng hàm lượng chất xám cao và được sản xuất bởi
những lao động phức tạp. Trong xã hội lại tồn tại những lao động với mức độ khác
nhau làm cho sản phẩm của nó gồm nhiều loại khác nhau. Chính điều này đã làm phân
hoá những người sản xuất trong mọi ngành kinh tế nói chung, cũng như trong nội bộ

15


lĩnh vực KH - CN nói riêng. Ngay trong lĩnh vực khoa học cũng được phân chia thành
KHTN và KHXH với những phạm trù và quy luật mang tính đặc thù riêng. Lĩnh vực
công nghệ cũng được phân chia thành nhiều chuyên ngành khác nhau: công nghệ sinh
học, công nghệ thông tin, công nghệ hạt nhân... Đây là những chuyên ngành đòi hỏi
kiến thức chuyên sâu và nhà sản xuất phải được đào tạo cơ bản theo chun ngành.
Chính vì lẽ đó, sự phân cơng lao động giữa các nhà sản xuất trong lĩnh vực KH - CN
mang tính tất yếu. Trong khi đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu sử

dụng các sản phẩm KH - CN ngày càng tăng và đa dạng đối với mọi ngành, mọi lĩnh
vực sản xuất. Vì vậy, xuất hiện nhu cầu trao đổi sản phẩm KH - CN để thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng của xã hội cũng là một tất yếu.
Để quá trình trao đổi sản phẩm KH - CN được thực hiện, người bán phải là và
chứng minh được là người sở hữu sản phẩm. Điều đó có nghĩa là quyền SHTT đối với
sản phẩm KH - CN phải được xác lập. SHTT có thể được định nghĩa như các sáng tạo
của trí tuệ mà đối với chúng, nhà nước dành cho các cá nhân quyền kiểm soát độc
quyền trong một thời hạn nhất định nhằm ngăn ngừa sự khai thác đối tượng một cách
bất hợp pháp. Quyền SHTT thường được hiểu gồm hai phần: “Quyền sở hữu công
nghiệp”, “Quyền tác giả và các quyền kề cận”. Luật pháp Việt Nam cũng như của các
nước trên thế giới đã chỉ rõ chỉ có các đối tượng là giải pháp kĩ thuật liên quan đến
máy móc thiết bị, dụng cụ linh kiện, vật dụng, (gọi chung là cơ cấu); vật liệu, chất
liệu, sản phẩm hoá học, dược phẩm, (gọi chung là chất) và quy trình cơng nghệ,
phương pháp xử lý, phương pháp đo, phương pháp dự báo (gọi chung là quy trình)
mới thuộc đối tượng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích. Như vậy, các đối tượng có
thể được bảo hộ theo pháp luật sở hữu cơng nghiệp chính là các sản phẩm cơng nghệ.
Quyền tác giả là quyền sở hữu và quyền sử dụng (khai thác) của người phát minh ra
các ý tưởng, tác phẩm. Tác phẩm được hiểu ở đây là các tác phẩm văn học nghệ thuật,
khoa học bao gồm: tác phẩm viết, các bài giảng, bài phát biểu, cơng trình khoa học,
sách giáo khoa, giáo trình... Như vậy, sản phẩm khoa học cũng nằm trong đối tượng
bảo hộ của quyền tác giả. Điều này dẫn đến một tất yếu là sự ra đời của hệ thống luật
bảo hộ quyền SHTT ở tất cả các nước, cũng như những “luật chơi” chung cho các
quốc gia khi tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực cũng như toàn cầu.

16


Có thể khẳng định việc thực hiện quyền SHTT chính là cơ sở để xác lập quyền
sở hữu đối với các sản phẩm KH - CN. Để đảm bảo quyền sở hữu đối với các sản
phẩm KH - CN, cần phải thiết lập một hệ thống các văn bản pháp luật về SHTT, đảm

bảo việc thực thi quyền một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Đồng thời, sớm thiết
lập và đẩy mạnh các hoạt động bổ trợ, trong đó có hệ thống thơng tin SHTT và hệ
thống dịch vụ SHTT.
Như vậy, thiết lập và đảm bảo thực thi quyền SHTT đối với các sản phẩm KH CN là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để hình thành hàng hoá KH CN, phát triển thị trường KH - CN.
Bốn là, hàng hố KH - CN có tác động lan tỏa rất lớn đối với mọi lĩnh vực sản
xuất, tiêu dùng, cũng như cho toàn xã hội. Hàng hóa KH - CN được sử dụng sẽ đem
lại ngoại ứng tích cực cho nền kinh tế. Chi phí nghiên cứu để phát minh ra sản phẩm
KH - CN là xác định. Do đó, phạm vi ứng dụng những thành tựu đó càng lớn, chi phí
của việc ứng dụng trên một đơn vị sản phẩm càng thấp.
Lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp sở hữu hàng hoá KH - CN địi hỏi phải giữ bí
mật KH - CN nhưng lợi ích xã hội lại đòi hỏi phải mở rộng việc ứng dụng đó. Giải
quyết mâu thuẫn này là nhiệm vụ của nhà nước. Điều đó có nghĩa là, nhà nước cũng
chỉ nên bảo hộ quyền sở hữu loại hàng hoá này với thời hạn hợp lý.
Thứ ba, khái niệm thị trường khoa học - công nghệ
Đến nay, khái niệm thị trường KH - CN vẫn cịn có những ý kiến khác nhau.
Trước đây, Trung Quốc sử dụng khái niệm thị trường khoa học kỹ thuật, còn bây giờ
là thị trường công nghệ. ở Mỹ, khái niệm “thị trường cho công nghệ” (market for
technology) được sử dụng phổ biến. Bộ Tư pháp Mỹ cũng định nghĩa: “Thị trường
cho công nghệ là thị trường dành cho những sở hữu trí tuệ được cấp li-xăng hoặc
dành cho những loại hình thay thế trực tiếp nghĩa là những cơng nghệ hoặc những
hàng hố có đủ năng lực thay thế một cách rõ rệt những sở hữu trí tuệ được cấp lixăng nhằm thể hiện sức mạnh của thị trường”. Theo quan điểm của một số nhà
nghiên cứu khác thì: “Thị trường khoa học-cơng nghệ là một phương thức tương tác
hiệu quả giữa các nhà khoa học và các nhà các nhà doanh nghiệp dưới sự quản lý của
nhà nước, trong đó sản phẩm hàng hố khoa học- cơng nghệ là đối tượng giao dịch

17


trực tiếp”. Cũng có nhà nghiên cứu lại cho rằng “thị trường khoa học- công nghệ là
một thuật ngữ chung để chỉ một bộ phận của thị trường liên quan đến hoạt động mua

bán trao đổi một loại hàng hoá đặc biệt là sản phẩm của hoạt động khoa học-công
nghệ và các thể chế đảm bảo cho nó”.
Với sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ như hiện nay, trong khơng ít
trường hợp, khó có thể phân biệt rạch ròi giữa phát minh khoa học và phát minh công
nghệ (Chẳng hạn, việc phát minh ra một nguồn năng lượng mới). Do vậy, sử dụng
thuật ngữ “thị trường khoa học và công nghệ” hoặc “thị trường khoa học - cơng
nghệ” là chấp nhận được.
Từ những phân tích trên, có thể đi tới khái niệm thị trường khoa học - công
nghệ: Thị trường khoa học-công nghệ là thị trường mà ở đó hàng hố là các phát
minh khoa học, cơng nghệ; các dịch vụ khoa học-công nghệ gồm cả hữu hình và vơ
hình, vật chất và phi vật chất trong một môi trường thể chế xác định.[28, tr. 13]
1.1.2. Nội dung phát triển thị trường khoa học-công nghệ
Phát triển thị trường khoa học - công nghệ là các hoạt động của các chủ thể trên
thị trường (đặc biệt là nhà nước) nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng hàng hố và
dịch vụ khoa học-cơng nghệ; làm cho các hoạt động trên thị trường tuân thủ ngày
càng đầy đủ hơn yêu cầu của các quy luật thị trường.[28, tr. 33-34]
Trên thị trường KH - CN có các chủ thể chính tham gia là người cung, người cầu
sản phẩm khoa học, dịch vụ KH - CN. Người cung sản phẩm KH - CN là các tổ chức
cá nhân, các nhà sáng chế độc lập hoạt động trong lĩnh vực KH - CN. Nguồn cầu về
các sản phẩm KH - CN trên thị trường KH - CN là doanh nghiệp, nhà nước, các tổ
chức xã hội và các nhân khác. Các chủ thể trên thị trường KH - CN không ngừng giao
dịch mua bán hàng hóa dịch vụ KH - CN làm cho số lượng giá trị hàng hóa được giao
dịch tăng lên, số lượng các chủ thể tham gia trị trường ngày càng nhiều làm cho quy
mô thị trường KH - CN tăng trưởng nhanh chóng. Sự gia tăng về số lượng, giá trị sản
phẩm KH - CN và các loại giao dịch trên thị trường thể hiện ở sự tăng trưởng có tốc
độ và biên độ đều, liên tục, ổn định hàng năm các loại hình sản phẩm KH - CN như
đối tượng sở hữu cơng nghiệp, máy móc, thiết bị, cơng nghệ thuần túy...Chính hoạt
động của các chủ thể trên thị trường đã mở rộng hàng hóa và dịch vụ KH - CN. Nhu

18



cầu các sản phẩm KH - CN ngày càng nhiều do đó nguồn cung hàng hóa dịch vụ KH CN cũng phong phú. Các doanh nghiệp tổ chức cá nhân KH - CN cạnh tranh nhau để
cung cấp các sản phẩm mới tiên tiến hiện đại làm cho chất lượng hàng hóa dịch vụ
KH -CN ngày được nâng cao. Việc gia tăng nhanh chóng nhu cầu về sản phẩm KH CN đặc biệt là nhu cầu đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp cũng làm gia tăng
quy mô của thị trường KH - CN. Như vậy, hoạt động của các chủ thể trên thị trường
KH - CN làm cho hàng hóa, dịch vụ KH - CN mở rộng về số lượng và nâng cao về
chất lượng do đó làm gia tăng quy mô và tốc độ tăng trưởng thị trường KH - CN làm
cho thị trường KH - CN không ngừng phát triển. Hoạt động của các chủ thể trên thị
trường làm cho các hoạt động trên thị trường tuân thủ ngày càng đầy đủ hơn yêu cầu
của các quy luật thị trường như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá
trị...Các chủ thể trên thị trường KH - CN đặc biệt là Nhà nước đã xây dựng hệ thống
văn bản pháp luật đầy đủ cho phát triển thị trường KH - CN trên các lĩnh vực về
SHTT, CGCN, và cạnh tranh. Nhiều văn bản dưới dạng các luật, nghị định, thông tư...
được ban hành như luật KH - CN năm 2000, Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi bổ sung
năm 2009), Luật CGCN năm 2006; Luật tiêu chuẩn và các quy chuẩn kỹ thuật năm
2006; Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007; Luật cơng nghệ cao năm
2008;...và các văn bản dưới luật để quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện các luật
nói trên như các nghị định thông tư. Nhà nước cũng điều tiết cung cầu hàng hóa KH CN, thực hiện các chính sách hỗ trợ thị trường và làm cầu nối găn kết các chủ thể trên
thị trường KH - CN. Nhờ có Nhà nước và các chủ thể trên thị trường KH - CN mà
hoạt động trên thị trường KH - CN ngày càng sôi động, hiệu quả và tuân thủ đúng các
văn bản pháp luật đã ban hành, tuân thủ đúng các quy luật của thị trường. Nhờ đó thị
trường KH - CN ngày càng phát triển.
Như vậy, phát triển thị trường KH - CN tức là phát triển những yếu tố và thể
chế cần thiết, thúc đẩy tăng số lượng, chất lượng sự đa dạng của các hàng hóa và giao
dịch hoạt động mua bán cơng nghệ và các yếu tố liên quan nhằm đáp ứng nhu cầu và
khả năng của các bên tham gia cũng như yêu cầu phát triển KT - XH chung của đất
nước và địa phương phù hợp với cơ chế thị trường.
Những nội dung chủ yếu của phát triển thị trường khoa học-công nghệ là:


19


Thứ nhất, xây dựng khuôn khổ pháp lý cho thị trường khoa học-công nghệ.
Cụ thể là xây dựng hệ thống luật pháp về SHTT, luật pháp về CGCN, và luật
pháp về cạnh tranh. Luật pháp về SHTT của mỗi một quốc gia là khác nhau nhưng
nhìn chung đều thống nhất với những nguyên tắc chung của tổ chức SHTT thế giới và
các quy định trong hiệp định thương mại liên quan đến SHTT của WTO. Nếu sản
phẩm KH - CN được bảo hộ quyền SHTT thì sẽ có khả năng kích thích mạnh mẽ hoạt
động mua bán chuyển giao các sản phẩm KH - CN. Việc xác lập quyền SHTT đồng
thời cũng tạo ra địa vị độc quyền của chủ sở hữu sản phẩm KH - CN trên thị trường.
Vì vậy trong rất nhiều trường hợp đã xẩy ra hành vi lạm dụng quyền SHTT để chống
cạnh tranh. Vì vậy song song với thiết lập luật pháp về SHTT các nước đồng thời phải
xây dựng luật pháp về cạnh tranh. ở nhiều nước công nghiệp quyền SHTT tuân thủ
luật canh tranh chung kể cả các điều khoản luật định, cũng như các hướng dẫn khác.
Các quyền SHTT và hiệu lực thi hành chung trở thành vấn đề trung tâm trong luật
cạnh tranh. ở các nước đang phát triển, luật pháp và chính sách cạnh tranh thường
khơng đầy đủ và thiếu các thể chế để giải quyết vấn đề lạm dụng độc quyền đối với
quyền SHTT nên đã gây ra tổn thất phúc lợi xã hội do hành vi độc quyền gây nên.
Luật pháp về CGCN bao gồm các dạng hợp đồng KH - CN. Theo luật pháp Việt Nam
hợp đồng KH - CN bao gồm : hợp đồng nghiên cứu và phát triển công nghệ, hợp đồng
CGCN và hợp đồng dịch vụ KH - CN. Để thị trường KH - CN vận hành và phát triển
cần thực thi nghiêm túc hệ thống luật pháp hỗ trợ thị trường KH - CN.
Thứ hai, tăng cung về hàng hoá khoa học - cơng nghệ.
Hàng hóa KH - CN bao gồm sản phẩm KH - CN và dịch vụ KH - CN. Sản phẩm
KH - CN là kết quả hoạt động của bộ óc con người thu được qua quá trình nghiên cứu
sáng KH - CN và có một giá trị sử dụng nhất định. Dịch vụ KH - CN là hoạt động liên
quan đến q trình tạo ra và lưu thơng sản phẩm của KH - CN trên thị trường. Hàng
hóa KH - CN là một loại hàng hóa đặc biệt khác với nhiều loại hàng hóa thơng thường
khác bởi hàng hóa KH - CN là những sản phẩm vơ hình chúng chỉ được vật chất hóa

khi con người sử dụng, nhiều hàng hóa KH -CN mang tính chất của hàng hóa công
cộng. Để phát triển thị trường KH - CN cần phải tăng cường các hoạt động mua bán
hàng hóa KH - CN, đặc biệt sản xuất nhiều hàng hóa KH - CN mới và tiên tiến. Cung

20



×