Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh ở Việt Nam thực trạng phát triển và một số đề xuất, kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 116 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI








LÊ THỊ KIM THANH






NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NGOÀI QUỐC
DOANH
Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 60.34.05




LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS, TS HOÀNG VĂN CHÂU







BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG HÀ NỘI






LÊ THỊ KIM THANH






NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI NGOÀI QUỐC
DOANH
Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN

VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 60.34.05




LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH




NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS, TS HOÀNG VĂN CHÂU



HÀ NỘI - 2008


1
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng thƣơng mại là một tổ chức tài chính trung gian, có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Hầu hết các
nƣớc phát triển trên thế giới đều xây dựng đƣợc một hệ thống ngân hàng hiện
đại, mức độ tự động hoá cao, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phong phú, đa
dạng, Dịch vụ ngân hàng trở thành thiết yếu đối với đời sống ngƣời dân,
các công ty và các tổ chức.

Việt nam là nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển muộn, các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng còn nhiều hạn chế. Ngân hàng thƣơng mại quốc
doanh là những ngân hàng dẫn đầu, có tiềm lực vốn mạnh và đã xây dựng
đƣợc một cơ sở khách hàng tƣơng đối vững chắc. Bên cạnh đó, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế-xã hội, đời sống của ngƣời dân đƣợc nâng cao, nhu
cầu về dịch vụ ngân hàng của các cá nhân, tổ chức ngày càng gia tăng, các
ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh đƣợc thành lập nhiều, ngày càng
phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, còn tồn tại một số hạn chế nhất
định, đòi hỏi các ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh phải luôn luôn ý
thức và nỗ lực nhiều hơn để tồn tại, phát triển và cạnh tranh trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, việc thành lập quá nhiều ngân hàng thƣơng
mại thuộc doanh nghiệp, vấn đề đầu tƣ tràn lan vào các lĩnh vực khác đã làm
suy yếu vai trò, chức năng của ngân hàng, gây ảnh hƣởng xấu đến nền kinh tế.
Xuất phát từ tình hình trên, tác giả muốn tập trung tìm hiểu về thực trạng
phát triển ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh Việt nam thời gian qua và
từ đó đƣa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm phát triển lành mạnh hệ thống
ngân hàng.


2
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Phân tích và chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quá trình phát triển ngân
hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh ở Việt nam thời gian qua, từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm phát triển đúng hƣớng ngân hàng thƣơng mại ngoài
quốc doanh ở Việt nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh
Phạm vi nghiên cứu là tập trung vào tìm hiểu, phân tích thực trạng, tình
hình phát triển của ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh ở Việt nam trong

khoảng thời gian từ năm 2000 đến hết quý I/2008.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đƣợc mục đích nghiên cứu trên, cần thực hiện một số
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tìm hiểu một số khái niệm lý thuyết liên quan đến ngân hàng thƣơng
mại nói chung và ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh nói riêng
- Các loại hình ngân hàng thƣơng mại ở Việt nam
- Vai trò của ngân hàng thƣơng mại đối với nền kinh tế
- Phân tích thực trạng phát triển ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh
ở Việt nam thời gian qua, một số thành tựu cũng nhƣ hạn chế trong những
mặt cụ thể
- Đƣa ra quan điểm, định hƣớng chung của Đảng, Nhà nƣớc về phát triển
ngân hàng thƣơng mại thời gian tới
- Tìm hiểu kinh nghiệm phát triển ngân hàng thƣơng mại của một số
nƣớc trên thế giới
- Đƣa ra một số đề xuất, kiến nghị cá nhân để phát triển ngân hàng
thƣơng mại ngoài quốc doanh thời gian tới.


3
5. Tình hình nghiên cứu
Tài liệu và các công trình nghiên cứu về ngân hàng thƣơng mại quốc
doanh đã có rất nhiều. Đối với ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh, trong
đó ngân hàng thƣơng mại cổ phần mới phát triển nổi bật trong vòng 2 năm trở
lại đây, đặc biệt là năm 2007, do vậy cũng chƣa có một tài liệu thống kê, phân
tích cụ thể, chính xác, mang tính chất tổng hợp về các ngân hàng thƣơng mại
cổ phần.
Bên cạnh đó, năm 2007 là năm mà các tập đoàn, các (tổng) công ty có xu
hƣớng thành lập ngân hàng riêng, đây là vấn đề thời sự mang tính chất nóng
bỏng, nhƣng chƣa có tiền lệ ở Việt nam, cũng nhƣ rất ít gặp trên thế giới. Do

vậy, các tài liệu nghiên cứu, tổng kết về vấn đề này cũng không nhiều.
Mặc dù các tài liệu về tập đoàn, đặc biệt là tập đoàn tài chính ngân
hàngkhông nhiều, nhƣng luận văn cũng sử dụng những tài liệu này để phục vụ
thêm cho mục đích nghiên cứu. Những tài liệu đó, cùng với những tài liệu về
ngân hàng thƣơng mại nói chung sẽ đƣợc trích dẫn cụ thể trong phần tài liệu
tham khảo.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-
Lênin đƣợc vận dụng xuyên suốt đề tài để đảm bảo tính liên kết về mặt thời
gian và nội dung giữa các chƣơng, mục và tính hệ thống của đề tài.
- Phƣơng pháp tiếp cận cá biệt và so sánh dùng để tìm hiểu thực trạng
phát triển ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh của Việt nam thời gian
qua trên số mặt cụ thể nhƣ vốn, công nghệ, nhân lực, dựa trên sự so sánh với
ngân hàng thƣơng mại quốc doanh và kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế
giới.
- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu
- Phƣơng pháp thống kê, tổng hợp, phân tích


4


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài “Ngân hàng thương mại ngoài
quốc doanh ở Việt nam - thực trạng phát triển và một số đề xuất, kiến nghị”,
luận văn gồm 03 chƣơng với kết cấu nhƣ sau:
- Chƣơng 1: Ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh và vai trò của nó
đối với nền kinh tế
- Chƣơng 2: Thực trạng phát triển ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc
doanh ở Việt nam thời gian qua

- Chƣơng 3: Một số đề xuất, kiến nghị phát triển ngân hàng thƣơng mại
ngoài quốc doanh ở Việt nam trong thời gian tới.


5
CHƢƠNG 1:
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI NGOÀI QUỐC DOANH VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ

1.1. Khái niệm ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh Việt nam
1.1.1. Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thƣơng mại là một trong những ngành công nghiệp lâu đời
nhất. Ngân hàng thƣơng mại đầu tiên của Hoa Kỳ đƣợc thành lập vào năm
1782, trƣớc khi Hiến pháp Liên Bang đƣợc thông qua và những ngân hàng
đƣợc thành lập từ những năm 1980 đến nay vẫn đang hoạt động. Trong các
định chế tài chính, ngân hàng thƣơng mại là định chế quan trọng nhất [4].
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý
cho những ngƣời chủ sở hữu, tránh gây mất mát. Đổi lại, ngƣời chủ sở hữu
phải trả cho ngƣời giữ một khoản tiền công. Khi công việc này mang lại nhiều
lợi ích cho những ngƣời gửi, các đồ vật cần gửi ngày càng đa dạng hơn, và đại
diện cho các vật có giá trị nhƣ vậy là tiền, dần dần, ngân hàng là nơi giữ tiền
cho những ngƣời có tiền. Khi xã hội phát triển, thƣơng mại phát triển, nhu cầu
về tiền ngày càng lớn, tức là phát sinh nhu cầu vay tiền ngày càng lớn trong
xã hội. Khi nắm trong tay một lƣợng tiền, những ngƣời giữ tiền nảy ra một
nhu cầu cho vay số tiền đó, vì lƣợng tiền trong tay họ không phải bao giờ
cũng bị đòi trong cùng một thời gian, tức là có độ chênh lệch lƣợng tiền cần
gửi và lƣợng tiền cần rút của ngƣời chủ sở hữu. Từ đó phát sinh nghiệp vụ
đầu tiên nhƣng cơ bản nhất của ngân hàng nói chung, đó là huy động vốn và
cho vay vốn.
Ngân hàng thƣơng mại là tổ chức tín dụng vay tiền của ngƣời gửi và cho

các công ty và cá nhân vay lại. Tiền huy động đƣợc của ngƣời gửi gọi là “tài
sản nợ” của ngân hàng. Tiền cho công ty và cá nhân vay lại cũng nhƣ tiền gửi


6
ở các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu gọi là “tài sản có”
của ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền huy động đƣợc và số tiền đem
cho vay, gửi ngân hàng và mua trái phiếu gọi là vốn tự có của ngân hàng
thƣơng mại. Phần tài sản có tính thanh khoản đƣợc giữ để đề phòng trƣờng
hợp tiền gửi vào ngân hàng bị rút ra đột ngột gọi là tỷ lệ dự trữ của ngân
hàng. Toàn bộ số vốn của ngân hàng đƣợc chia làm hai loại: vốn cấp 1 và vốn
cấp 2. Vốn cấp 1, còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ
cộng với lợi nhuân không chia cộng với các quỹ dự trữ đƣợc lập trên cơ sở
trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng nhƣ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,
quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tƣ phát triển. Vốn cấp 2 về cơ bản bao
gồm: (i) phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng, (ii)
nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển
đổi, cổ phiếu ƣu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp nhất định) và (iii) dự phòng
chung cho rủi ro tín dụng.
Nhƣ vậy, ngân hàng thƣơng mại (ngân hàng trung gian) là tổ chức kinh
doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thƣờng xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phƣơng tiện thanh toán [4].
Cách tiếp cận thận trọng là có thể xem xét ngân hàng trên phƣơng diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất. Một số định
nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu. Luật các Tổ chức tín dụng của nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam: "hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh

toán.”


7
Hệ thống ngân hàng nƣớc ta là hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó
ngân hàng Nhà nƣớc làm nhiệm vụ của Ngân hàng Trung ƣơng, còn các ngân
hàng thƣơng mại và các tổ chức tín dụng khác hoạt động nhƣ là các ngân
hàng trung gian thực hiện chức năng kinh doanh.
1.1.2. Ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh Việt nam
Ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh Việt nam trƣớc hết là một ngân
hàng thƣơng mại (phân biệt với ngân hàng Trung Ƣơng), có hoạt động kinh
doanh và thực hiện các nghiệp vụ của một ngân hàng thƣơng mại nói chung
nhằm mục tiêu lợi nhuận; nhƣng khi nói “ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc
doanh Việt nam” thì tức là chúng ta đang muốn nói đến hình thức và tính chất
sở hữu, phân biệt nó với ngân hàng thƣơng mại quốc doanh Việt nam và ngân
hàng thƣơng mại nƣớc ngoài khác.
Ngân hàng thƣơng mại quốc doanh là ngân hàng thƣơng mại do Nhà
nƣớc thành lập, để thực hiện một hoặc một số mục tiêu kinh tế nhất định của
Nhà nƣớc thông qua các hoạt động, nghiệp vụ kinh doanh cụ thể.
Ngân hàng thƣơng mại nƣớc ngoài ở Việt nam hiện nay bao gồm chi
nhánh ngân hàng nƣớc ngoài, văn phòng đại diện ngân hàng nƣớc ngoài, ngân
hàng 100% vốn nƣớc ngoài khi Việt nam gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế
giới (WTO) và theo lộ trình cam kết của Việt nam thì loại hình ngân hàng
thƣơng mại nƣớc ngoài sẽ đƣợc mở rộng, đa dạng, cạnh tranh bình đẳng hơn
với các ngân hàng thƣơng mại Việt nam trong việc thực hiện các giao dịch,
nghiệp vụ
Sau khi Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt nam tiến hành cổ phần hoá,
nhƣng trong đó Nhà nƣớc vẫn nắm cổ phần chi phối thì hiện nay còn có một
loại hình ngân hàng thƣơng mại mới, tạm gọi là ngân hàng thƣơng mại cổ
phần Nhà nƣớc.



8
Ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh Việt nam có thể bao gồm các
ngân hàng thƣơng mại cổ phần thông thƣờng (Nhà nƣớc không nắm cổ phần
chi phối), ngân hàng liên doanh (trong đó có bên Việt nam tham gia góp vốn
thành lập), nhƣng trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ xin đi sâu nghiên cứu, phân
tích tìm hiểu về thực trạng phát triển ngân hàng thƣơng mại cổ phần thông
thƣờng.
1.2. Chức năng, vai trò của ngân hàng thƣơng mại
Nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng thƣơng mại rất phong phú, đa
dạng. Với việc đƣa vào hoạt động hình thức công ty nắm giữ một ngân hàng
và với sự nới lỏng một số hạn chế mà các ngân hàng phải thực hiện trƣớc đây,
một số lớn các dịch vụ khác nhau do các ngân hàng thƣơng mại và các chi
nhánh của nó cung cấp đƣợc mở rộng. Những đổi mới gần đây trong nghiệp
vụ ngân hàng bao gồm việc đƣa vào sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ kiểm toán
đối với các doanh nghiệp, factoring, tín dụng thuê mua, máy trả tiền tự động,
môi giới, chiết khấu
Tầm quan trọng của các ngân hàng thƣơng mại có thể đƣợc minh họa
một cách chi tiết thông qua các chức năng, vai trò cơ bản của nó.
1.2.1. Tạo tiền
Chức năng này đƣợc thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu
tƣ của các ngân hàng thƣơng mại trong mối quan hệ với hệ thống các ngân
hàng. Sức mạnh của hệ thống ngân hàng nhằm tạo tiền mang ý nghĩa kinh tế
to lớn. Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần thiết cho sự phát triển
kinh tế theo một hệ số tăng trƣởng vững chắc. Nếu tín dụng ngân hàng không
tạo đƣợc tiền để mở ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và
những hoạt động của nó thì trong nhiều trƣờng hợp, sản xuất không thực hiện
đƣợc và nguồn tích lũy từ lợi nhuận và các nguồn khác sẽ bị hạn chế. Hơn thế
nữa, đơn vị sản xuất có thể phải gánh chịu tình trạng ứ đọng vốn luân chuyển



9
không đƣợc sử dụng trong quá trình sản xuất, nhƣng trong các thời kỳ cao
điểm mang tính thời vụ của các hoạt động, doanh nghiệp lại không đủ vốn để
thúc đẩy nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Một trong những nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nƣớc là nhằm đƣa ra một
khối lƣợng tiền cung ứng phù hợp với chính sách ổn định giá cả, sự tăng
trƣởng kinh tế lành mạnh, và tạo đƣợc nhiều việc làm
Các ngân hàng thƣơng mại đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực
hiện thắng lợi chính sách này. Chúng phục vụ nhƣ là một kênh dẫn để thông
qua đó, tiền cung ứng đƣợc tăng lên hoặc giảm xuống nhằm đạt đƣợc những
mục tiêu quan trọng nói trên.
1.2.2. Cơ chế thanh toán
Việc đƣa ra một cơ chế thanh toán, hay nói một cách khác, sự vận động
vốn là một trong những chức năng quan trọng do các Ngân hàng thƣơng mại
thực hiện và nó càng trở nên quan trọng khi đƣợc sự tín nhiệm trong việc sử
dụng séc và thẻ tín dụng.
Phần lớn séc trong nƣớc đƣợc thanh toán bù trừ thông qua hệ thống
Ngân hàng thƣơng mại. Việc phát hành séc để rút ra và ký thác trong cùng
một ngân hàng đơn thuần chỉ là sự chuyển vốn từ tài khoản này sang tài
khoản khác. Việc thanh toán séc giữa hai ngân hàng có thể đƣợc thực hiện
thông qua việc trao đổi trực tiếp hoặc thông qua tổ chức thanh toán bù trừ nhờ
vào hệ thống các ngân hàng đại lý.
Các ngân hàng đã và đang trang bị máy vi tính và các phƣơng tiện kỹ
thuật nhằm làm cho quá trình thanh toán bù trừ thực hiện nhanh chóng, giảm
bớt chi phí và đạt độ chính xác cao.
Trong những năm gần đây, ngân hàng đã sử dụng một vài hình thức
chuyển tiền bằng điện tử. Thẻ tín dụng ngân hàng đƣợc sử dụng cho các máy
tự động trong cửa hàng bán lẻ. Các máy tính trong các ngân hàng đặt khắp nơi



10
trong nƣớc đƣợc mạng hoá, thực hiện việc chuyển vốn của ngƣời mua sang tài
khoản của ngƣời bán. Điểm thuận lợi cơ bản của hệ thống này là nhờ vào việc
lắp đặt và sử dụng hệ thống máy tự động, thẻ tín dụng ngân hàng có thể đƣợc
sử dụng để rút tiền từ một tài khoản cụ thể, thực hiện việc gửi tiền, thanh toán
nợ và chuyển vốn giữa tiền gửi tiết kiệm và tài khoản séc của cùng một chủ
tài khoản.
1.2.3. Huy động tiết kiệm
Các ngân hàng thƣơng mại thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với
tất cả các khu vực của nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận
lợi cho việc gửi tiết kiệm của dân chúng. Ngƣời gửi tiền đƣợc nhận một
khoản tiền thƣởng dƣới danh nghĩa lãi suất trên tổng số tiền gửi tiết kiệm ở
các ngân hàng, với mức độ an toàn và hình thức thanh khoản cao. Số tiền huy
động đƣợc thông qua hình thức tiết kiệm luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay
vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nhằm mở rộng khả năng sản xuất và các
mục đích sinh hoạt cá nhân nhƣ mua sắm các mặt hàng tiêu dùng và nhà cửa.
Phần lớn tiền gửi tiết kiệm đƣợc thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng
thƣơng mại.
1.2.4. Mở rộng tín dụng
Chức năng quan trọng của các ngân hàng thƣơng mại là mở rộng tín
dụng đối với các khách hàng đáng tin cậy. Ngay từ khi mới bắt đầu, những
ngƣời tổ chức ngân hàng thƣơng mại đã luôn tìm kiếm các cơ hội để thực hiện
cho vay, coi đó nhƣ là chức năng quan trọng nhất của mình, và trong một số
trƣờng hợp việc cho vay đó đƣợc chính phủ bảo lãnh đối với một số nhu cầu
tín dụng.
Tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại có ý nghĩa quan trọng thiết yếu
đối với toàn bộ nền kinh tế, nó tạo ra khả năng tài trợ cho các hoạt động công



11
thƣơng nghiệp và sản xuất nông, lâm nghiệp, của đất nƣớc, giúp cho nền
sản xuất, thƣơng mại, đầu tƣ trong nền kinh tế phát triển thuận lợi, trôi chảy.
1.2.5. Tạo điều kiện để tài trợ ngoại thương
Các ngân hàng thƣơng mại cung ứng các dịch vụ ngân hàng quốc tế cần
thiết đối với các hoạt động ngoại thƣơng, nguyên nhân là do mỗi nƣớc có một
hệ thống tiền tệ riêng, không đồng nhất, và với năng lực tài chính của ngƣời
mua (nhập khẩu) và ngƣời bán (xuất khẩu) ở các nƣớc khác nhau cũng không
giống nhau; trong một số trƣờng hợp còn có một số hạn chế về ngôn ngữ,
chính trị, văn hoá, hệ thống pháp luật
Các hoạt động tài trợ ngoại thƣơng có thể đƣợc các ngân hàng thƣơng
mại thực hiện bằng nhiều nghiệp vụ khác nhau nhƣ phát hành thƣ bảo lãnh,
tài trợ xuất nhập khẩu, hay phát hành thƣ tín dụng
1.2.6. Dịch vụ ủy thác
Khi mà thu nhập tăng lên đã tạo khả năng tích lũy lành mạnh, góp phần
phát triển dịch vụ ủy thác của ngân hàng thƣơng mại, trong đó các ngân hàng
thƣơng mại nhận vốn góp của các cá nhân, các tổ chức trong xã hội, thực hiện
việc quản lý, đầu tƣ theo danh mục nhất định, mang lại lợi nhuận cho khách
hàng dựa trên những nguyên tắc, mục tiêu cụ thể.
1.2.7. Bảo quản an toàn vật có giá
Đây là một trong những dịch vụ lâu đời nhất đƣợc các ngân hàng thƣơng
mại thực hiện. Chức năng này bao gồm bảo quản an toàn các vật có giá và
bảo quản an toàn các giấy tờ có giá và các chứng từ quan trọng khác có liên
quan. Trái phiếu, cổ phiếu đƣợc giữ lại làm thế chấp đối với nợ vay cũng đòi
hỏi các ngân hàng thƣơng mại phải thực hiện công việc bảo quản an toàn giấy
tờ có giá để đảm bảo việc thực hiện quyền và lợi ích cho các bên liên quan.
Các ngân hàng nhỏ thƣờng không có điều kiện thiết lập kho riêng biệt để
bảo quản an toàn các chứng khoán nhƣ các ngân hàng lớn. Một thực tế phổ



12
biến đối với các công ty tài chính và phi tài chính - là các chứng khoán nợ bao
giờ cũng đƣợc bảo quản ở các ngân hàng. Đôi khi những ngƣời sở hữu chứng
khoán đòi hỏi ngân hàng không những giữ hộ những chứng khoán đó của họ
trong kho bảo quản trong một thời kỳ dài mà còn yêu cầu làm dịch vụ thu lãi
chứng khoán và đƣa vào tài khoản của khách hàng.
Chức năng này của các ngân hàng thƣơng mại Việt nam chƣa thực sự
đƣợc chú trọng phát triển, một phần do điều kiện cơ sở vật chất chƣa vững
chắc, đầy đủ, một phần do nhu cầu bảo quản an toàn của ngƣời dân còn chƣa
xuất hiện nhiều.
1.2.8. Dịch vụ kinh kỷ
Rất nhiều ngân hàng thƣơng mại cung cấp dịch vụ kinh kỷ, đó là việc
mua và bán các chứng khoán cho khách hàng. Mặc dù quyền hạn trong dịch
vụ tài chính của các ngân hàng đƣợc nâng lên nhƣng không vƣợt quá giới hạn
các hoạt động bảo lãnh hoặc cung ứng các dịch vụ nghiên cứu, kết hợp với
các hoạt động môi giới. Nhiều ngân hàng đã biểu hiện sự quan tâm trong việc
cung cấp những dịch vụ này rất rõ ràng, sự tham gia của ngân hàng thƣơng
mại vào việc kinh doanh, môi giới chứng khoán chắc chắn sẽ đƣợc mở rộng
trong tƣơng lai, đặc biệt là đối với những ngân hàng lớn.
Nhƣ vậy, ngân hàng là một loại hình tổ chức, có vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phƣơng nói riêng. Từ một
góc độ khác hơn, rõ ràng, ngân hàng có thể đƣợc định nghĩa qua chức năng
(các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề ở chỗ không chỉ
các chức năng của các ngân hàng đang thay đổi, mà chức năng của các đối thủ
cạnh tranh của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là rất nhiều tổ
chức tài chính, bao gồm cả các công ty chứng khoán, công ty môi giới chứng
khoán, các quỹ tƣơng hỗ và các công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng
cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngƣợc lại, ngân hàng cũng đối phó với các



13
đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng
phạm vi cung cấp dịch vụ, hƣớng về lĩnh vực bất động sản, bảo hiểm môi giới
chứng khoán, đầu tƣ vào các quỹ tƣơng hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới
khác.
Một ví dụ về nỗ lực của các tổ chức tài chính thế giới trong việc cung
cấp dịch vụ ngân hàng đƣợc ghi nhận từ những năm 1980 khi rất nhiều công
ty bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán lớn, bao gồm cả Merrill Lynch,
Prudential nhảy vào lĩnh vực ngân hàng bằng cách thành lập cái mà họ gọi là
“các ngân hàng phi ngân hàng”. Những điều đó đã dẫn đến sự nhầm lẫn trong
công chúng khi phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Từ đó,
một số quan điểm cho rằng, cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét
các tổ chức này trên phƣơng diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung
cấp: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục và dịch
vụ tài chính đa hạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán-và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế.” Sự đa hạng trong các dịch vụ và chức năng
của ngân hàng dẫn đến việc chúng đƣợc gọi là các “bách hóa tài chính”
(financial department stores) [4].
Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay đƣợc thể hiện
trong biểu đồ 1.1 sau đây:


14
Sơ đồ 1.1. Chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng

(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
1.3. Các khuynh hƣớng ảnh hƣởng tới hoạt động ngân hàng
- Thứ nhất, khuynh hƣớng gia tăng nhanh chóng trong danh mục các

dịch vụ ngân hàng. Quá trình mở rộng danh mục dịch vụ đã tăng tốc trong
những năm gần đây dƣới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính
khác và áp lực cạnh tranh trong nội bộ ngành ngân hàng, từ sự hiểu biết và
đòi hỏi cao hơn của khách hàng và từ sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ.
Nó cũng làm tăng chi phí của ngân hàng và dẫn đến rủi ro phá sản cao hơn.
Các dịch vụ mới đã có ảnh hƣởng tốt đến ngành này thông qua việc tạo ra
những nguồn thu mới cho ngân hàng - các khoản lệ phí của dịch vụ không
phải lãi - một bộ phận có xu hƣớng tăng trƣởng nhanh hơn so với nguồn thu
truyền thống từ lãi cho vay.
- Thứ hai là sự gia tăng cạnh tranh. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ
tài chính - ngân hàng đang ngày càng trở nên quyết liệt khi ngân hàng và các
đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ cung cấp. Hầu hết các ngân
hàng cung cấp dịch vụ tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hƣu trí, dịch vụ


15
tƣ vấn tài chính cho các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng. Đây là những dịch
vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các
hiệp hội tín dụng, các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, các tập
đoàn bảo hiểm, áp lực cạnh tranh này đóng vai trò nhƣ một lực đẩy tạo ra sự
phát triển dịch vụ ngân hàng cho tƣơng lai.
- Thứ ba là khuynh hƣớng phi quản lý hóa. Cạnh tranh và quá trình mở
rộng dịch vụ ngân hàng (hai khuynh hƣớng trên) cũng đƣợc thúc đẩy bởi sự
nới lỏng các quy định - giảm bớt sức mạnh kiểm soát của Nhà nƣớc và Chính
phủ. Điều này bắt đầu bằng việc Ngân hàng Nhà nƣớc nâng lãi suất trần đối
với tiền gửi tiết kiệm nhằm cố gắng giúp ngƣời dân có mức thu nhập cao hơn
từ tiền gửi tiết kiệm, các ngân hàng thƣơng mại thì có thể linh hoạt, tự chủ
hơn trong điều chỉnh lãi suất. Nhiều loại tài khoản tiền gửi mới đƣợc phát
triển giúp ngƣời dân có thể hƣởng lãi trên các tài khoản giao dịch. Tuy nhiên,
cùng với sự nới lỏng quản lý của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nƣớc đối với

các ngân hàng thƣơng mại thì chi phí và rủi ro tổn thất chung đối với nền kinh
tế cũng theo đó mà tăng lên, nguy cơ khủng hoảng, nguy cơ “bong bóng”
cũng tăng lên.
- Thứ tƣ là sự gia tăng chi phí vốn. Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia
tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi -
nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc
phải trả lãi cao hơn do thị trƣờng cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi.
Điều đó buộc phải cắt giảm các chi phí hoạt động khác; ngân hàng cũng phải
tìm các nguồn vốn mới nhƣ chứng khoán hóa một số tài sản. Cũng do cạnh
tranh mà các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho
vay để sử dụng hiệu quả nguồn vốn, làm cho chênh lệch lãi suất của ngân
hàng bị giảm xuống, chi phí vốn tăng theo.


16
- Thứ năm là sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất. Các quy
định của Nhà nƣớc đối với ngân hàng phần nào đó giúp cho ngƣời dân có khả
năng nhận đƣợc khoản thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhƣng chỉ có ngƣời dân
mới làm cho khả năng đó thành hiện thực. Những tài khoản có tỷ lệ thu nhập
cũng thay đổi theo xu hƣớng và điều kiện của thị trƣờng. Ngày càng có nhiều
kênh đầu tƣ hấp dẫn giúp cho ngƣời dân có thể có khả năng tái đầu tƣ và gia
tăng thu nhập. Ngân hàng cũng nhận ra rằng họ đang phải giao dịch với khách
hàng ngày càng đòi hỏi cao hơn và nhạy cảm hơn với lãi suất. Các khoản tiền
gửi tiết kiệm “trung thành” của họ có thể bị tăng khả năng cạnh tranh trên
phƣơng diện thu nhập và nhạy cảm hơn với ý thích thay đổi của xã hội trong
vấn đề phân phối các khoản thu nhập đó.
- Thứ sáu là xu hƣớng cách mạng trong công nghệ ngân hàng. Đối mặt
với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây, các ngân hàng đã và
đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho
hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong việc nhận tiền gửi,

thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất là các máy rút tiền
tự động ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản của họ 24/24; máy
chấp nhận thanh toán thẻ (POS) đƣợc lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán
hàng thay thế cho các phƣơng tiện thanh toán qua quầy bằng giấy; hệ thống
máy vi tính hiện đại cho phép xử lý nhanh chóng hàng ngàn giao dịch. Ngân
hàng đang trở thành ngành sử dụng nhiều vốn và chi phí cố định. Các giao
dịch điện tử ngày càng trở nên thuận tiện. Tuy nhiên, một ngành ngân hàng
hoàn toàn tự động vẫn là điều xa vời, nhu cầu về nhân sự cao cấp trong ngân
hàng vẫn đang là nhu cầu cấp bách; một tỷ lệ lớn khách hàng vẫn ƣa chuộng
các dịch vụ do con ngƣời và những cơ hội để nhận đƣợc sự tƣ vấn cá nhân về
các vấn đề tài chính.


17
- Thứ bảy là khuynh hƣớng củng cố và mở rộng hoạt động về mặt địa lý.
Sử dụng có hiệu quả quá trình tự động hóa và những đổi mới công nghệ đòi
hỏi ngân hàng phải có quy mô lớn để tận dụng hết những lợi thế về quy mô,
giảm chi phí cố định bình quân. Vì vậy ngân hàng phải mở rộng cơ sở khách
hàng bằng cách tìm kiếm các thị trƣờng mới, gia tăng số lƣợng các tài khoản
của khách hàng, tăng thêm số lƣợng chi nhánh và các điểm giao dịch. Hiện
nay các ngân hàng đang tìm mọi cách để đạt đƣợc sự đa dạng hóa và ngân
hàng không còn muốn duy trì mô hình ngân hàng cổ điển, mà muốn nhấn
mạnh vai trò của nó nhƣ là các tổ chức tài chính đa năng, đổi mới và hƣớng
về khách hàng. Công nghệ hiện đại cũng giúp ngân hàng có thể gia tăng khả
năng tiếp cận bƣớc đầu với khách hàng ở những vùng miền xa xôi thông qua
việc lắp đặt các thiết bị giao dịch điện tử.
- Cuối cùng là khuynh hƣớng toàn cầu hóa ngân hàng. Sự bành trƣớng
địa lý và hợp nhất ngân hàng đã vƣợt qua ranh giới lãnh thổ quốc gia để lan
rộng với quy mô toàn cầu. Các ngân hàng lớn trên thế giới đặt trụ sở ở nhiều
quốc gia khác nhau. Sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng vì thế không phải

chỉ diễn ra giữa các ngân hàng trong nƣớc; sự cạnh tranh đó ngày càng quyết
liệt hơn do có sự tham gia của các ngân hàng nƣớc ngoài.
1.4. Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
1.4.1. Cho vay tiêu dùng
Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng đều không tích cực cho vay đối với
cá nhân và hộ gia đình bởi họ cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói
chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tƣơng đối cao và do đó làm cho
chúng có mức sinh lời thấp. Hiện nay, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn
vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thƣơng mại lớn.
Sau đó là sự cạnh tranh khốc liệt trong việc huy động tiền gửi và cho vay đã
buộc các ngân hàng phải hƣớng tới ngƣời tiêu dùng nhƣ là một khách hàng


18
tiềm năng, trung thành. Hình thức tín dụng tiêu dùng này đã rất phát triển trên
thế giới và đang bắt đầu đƣợc các ngân hàng thƣơng mại Việt nam chú trọng
khai thác, phát triển.
1.4.2. Tư vấn tài chính
Trƣớc đây, các ngân hàng thƣờng đƣợc khách hàng yêu cầu cung cấp
dịch vụ tƣ vấn tài chính, nhƣng chủ yếu là trong dịch vụ gửi tiết kiệm và đầu
tƣ. Ngày nay, ngân hàng đã thực hiện cung cấp dịch vụ tƣ vấn tài chính đa
dạng, từ chuẩn bị về thuế, tƣ vấn lập dự án, tƣ vấn lập kế hoạch tài chính cho
cả khách hàng cá nhân và doanh nghiệp, tƣ vấn về các cơ hội thị trƣờng trong
và ngoài nƣớc…
1.4.3. Quản lý tiền mặt
Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà
họ làm cho họ cũng có ích cho khách hàng. Một trong những ví dụ nổi bật là
dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho
các công ty kinh doanh và tiến hành đầu tƣ phần thặng dƣ tiền mặt tạm thời
vào các chứng khoán hoặc các khoản đầu tƣ sinh lợi khác, hay các khoản tín

dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trên thế
giới, các ngân hàng đã tiến hành quản lý tiền mặt không chỉ cho các công ty
lớn mà còn cho cả những khách hàng cá nhân, nhƣng hiện nay ở Việt nam,
dịch vụ này mới chỉ đƣợc các ngân hàng thực hiện cho những doanh nghiệp
lớn, hơn nữa chất lƣợng dịch vụ cũng chƣa cao, chƣa tạo thành một nguồn thu
đáng kể cho ngân hàng thƣơng mại.
1.4.4. Thuê mua thiết bị
Đây là dịch vụ mà trong đó ngân hàng mua thiết bị rồi cho khách hàng
thuê lại. Sau khi hợp đồng cho thuê kết thúc, hai bên hoàn thành nghĩa vụ và
thanh lý hợp đồng, tài sản, thiết bị, máy móc cho thuê có thể thuộc quyền sở
hữu của ngân hàng, cũng có thể bán lại luôn cho khách hàng thuê theo giá trị


19
còn lại (sau khi đã khấu hao). Dịch vụ này tạo điều kiện cho khách hàng
không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để đầu tƣ máy móc thiết bị, mà vẫn có
máy móc, thiết bị để sử dụng trong quá trình kinh doanh, nhất là đối với
những máy móc, thiết bị mà doanh nghiệp chỉ cần sử dụng một lần. Điều này
thúc đẩy nền kinh tế sản xuất phát triển thuận lợi. Về phía ngân hàng, hoạt
động này cũng đƣợc xem là một hoạt động đầu tƣ mà trong đó khách hàng là
ngƣời vay dƣới hình thức trả góp, đối tƣợng đầu tƣ là tài sản, máy móc, thiết
bị, ngoài việc thu phí dịch vụ, trong một số trƣờng hợp ngân hàng còn hƣởng
sự chênh lệch từ việc đầu tƣ này. Trƣờng hợp khác, khi kết thúc hợp đồng,
ngân hàng vẫn là chủ sở hữu của tài sản thì ngân hàng vẫn có thể cho thuê
tiếp khách hàng khác, khi tài sản vẫn có giá trị sử dụng; mặt khác, ngân hàng
có thể tính khấu hao chúng trong một số kỳ nhất định nhằm tăng lợi ích về
thuế.
1.4.5. Bán các dịch vụ bảo hiểm tín dụng
Đây là hoạt động rất phát triển trên thế giới, trong đó ngân hàng thƣơng
mại bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả

trong trƣờng hợp khách hàng vay vốn gặp phải rủi ro nhất định nào đó quy
định trong hợp đồng (thông thƣờng là khi khách hàng bị tử vong hoặc tàn
phế). Hiện nay, trên thế giới, ngân hàng thƣờng bảo hiểm cho khách hàng
thông qua các liên doanh hoặc các đại lý kinh doanh độc quyền (theo thoả
thuận), theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại
hành làng của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một khoản thu nhập từ các
dịch vụ đó. Trong một số trƣờng hợp, ngân hàng có thể đƣợc phép cung cấp
trực tiếp dịch vụ bảo hiểm tín dụng đó. Đối với những tập đoàn tài chính -
ngân hàng lớn thì đây là một lợi thế khi họ đƣợc phép hoạt động trong cả lĩnh
vực ngân hàng, bảo hiểm.


20
1.4.6. Cung cấp các kế hoạch hưu trí
Đây là dịch vụ phổ biến trên thế giới, trong đó ngân hàng thƣơng mại
thƣờng có một phòng ban gọi là phòng uỷ thác, họ đƣợc các doanh nghiệp
hoặc bản thân cá nhân ngƣời lao động uỷ thác để lập ra các kế hoạch hƣu trí
từ quỹ lƣơng hƣu của họ, quản lý quỹ đó cho đến khi ngƣời sở hữu kế hoạch
này cần đến. Ngân hàng không chỉ thu đƣợc phí dịch vụ mà ngoài ra đây còn
là một nguồn vốn góp phần quan trọng vào hoạt động của ngân hàng thƣơng
mại. Khách hàng đƣợc tƣ vấn kế hoạch sử dụng cũng nhƣ đƣợc hƣởng lợi từ
sự an toàn, bên cạnh đó có thể đƣợc hƣởng lãi suất nhất định nếu giữa ngân
hàng và khách hàng có thoả thuận về việc sử dụng quỹ để đầu tƣ tài chính,
mức lãi suất tuỳ thuộc vào tính chất khoản đầu tƣ mà khách hàng chấp thuận
uỷ thác cho ngân hàng thực hiện. Dịch vụ này có nét tƣơng đồng với dịch vụ
uỷ thác đầu tƣ, nhƣng với đối tƣợng khách hàng khác biệt, ngân hàng cũng có
chính sách tƣ vấn và chiến lƣợc hoạt động khác, trong đó đặc trƣng cơ bản
vẫn là cung cấp kế hoạch hƣu trí, giữ hộ nguồn tiền gửi.
1.4.7. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Trên thị trƣờng hiện nay, không ít ngân hàng đang cố gắng để trở thành

một “bách hoá tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trong những
lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán,
cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán
khác mà không phải nhờ đến ngƣời kinh doanh chứng khoán khác bên ngoài.
Trong một vài trƣờng hợp, ngân hàng mua lại công ty môi giới chứng khoán
đang hoạt động hoặc thành lập các liên doanh với công ty môi giới. ở Việt
nam thời gian qua, các hầu hết các ngân hàng thƣơng mại cổ phần cũng cố
gắng thành lập công ty chứng khoán riêng, nhƣng việc thu hút khách hàng của


21
ngân hàng và khách hàng của công ty chứng khoán về một mối còn là vấn đề
cần nhiều nỗ lực của cả ngân hàng và công ty chứng khoán thành viên.
1.4.8. Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp
Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất
thấp, nhiều khách hàng đã hƣớng tới việc sử dụng sản phẩm đầu tƣ, đặc biệt
là các tài khoản của quỹ tƣơng hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung
cấp mang lại triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn, cam kết
thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày
nhất định trong tƣơng lai (chẳng hạn là ngày nghỉ hƣu). Quỹ tƣơng hỗ bao
gồm các chƣơng trình đầu tƣ đƣợc quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào
việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của
quỹ (tối đa hoá thu nhập, hay đạt đƣợc sự tăng giá trị vốn, hay đảm bảo mức
an toàn và lợi nhuận tối thiểu). Dịch vụ này mang lại nguồn thu nhập đáng kể
cho khách hàng, giúp khách hàng sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả hơn,
chuyên nghiệp hơn. Ngân hàng ngoài việc thu phí dịch vụ, cũng có thể có
nguồn vốn dồi dào luân chuyển, cân đối đầu tƣ, mang lại lợi nhuận cho quỹ.
1.4.9. Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn
Ngân hàng ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong

việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tƣ và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho
các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài
trợ mua lại công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng, bảo lãnh phát
hành chứng khoán, cung cấp công cụ marketing chiến lƣợc, các dịch vụ hạn
chế rủi ro cho khách hàng, hoặc các dịch vụ tƣ vấn cơ hội kinh doanh trong và
ngoài nƣớc cho khách hàng. Ngoài ra các ngân hàng thƣơng mại cũng tham
gia vào thị trƣờng bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do Chính phủ và công ty phát
hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị
trƣờng tự do hay từ các tổ chức cho vay khác trong và ngoài nƣớc. Riêng với


22
dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, ngân hàng không chỉ giúp cho
khách hàng một kênh vay vốn dài hạn mới với chi phí thấp hơn hình thức tín
dụng truyền thống, mà điều này còn cho phép nhân viên tín dụng ngân hàng
cộng tác chặt chẽ với công ty môi giới chứng khoán trong quá trình tài trợ,
tìm nguồn vốn cho khách hàng.
Nhìn chung trên thế giới đã phát triển những dịch vụ ngân hàng nói trên,
tuy nhiên ở Việt nam, một số dịch vụ mới đƣợc phát triển thời gian gần đây,
các NHTMCP là những ngân hàng chịu khó học hỏi, nắm bắt nhanh nhạy để
thu hút khách hàng, trong khi còn một số dịch vụ còn chƣa đƣợc các ngân
hàng thƣơng mại chú trọng khai thác, làm hạn chế nguồn thu của ngân hàng
thƣơng mại Việt nam nói chung và các NHTMCP Việt nam nói riêng. Các
NHTMCP cần tìm ra lợi thế của riêng mình để bắt đầu lựa chọn hƣớng đi,
phát triển sản phẩm, dịch vụ cho phù hợp.
1.5. Các loại hình ngân hàng thƣơng mại ở Việt nam
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài, có thể tạm phân chia
các loại hình ngân hàng thƣơng mại ở Việt nam theo hai tiêu chí cơ bản sau:
1.5.1. Phân loại theo tính chất sở hữu
a) Ngân hàng thƣơng mại quốc doanh Việt nam

b) Ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh Việt nam
c) Ngân hàng nƣớc ngoài tại Việt nam
1.5.2. Phân loại theo tính chất liên kết ngành, lĩnh vực (theo tính chất
của quá trình hình thành)
a) Ngân hàng thƣơng mại hình thành độc lập
b) Ngân hàng thƣơng mại hình thành từ tập đoàn, (tổng) công ty.
Đó có thể là tập đoàn, (tổng) công ty tài chính (bảo hiểm, chứng khoán), khi
thành lập ngân hàng sẽ hình thành nên tập đoàn tài chính-ngân hàng; đó cũng


23
có thể là tập đoàn, (tổng) công ty công nghiệp, thành lập ngân hàng sẽ chuyển
đổi cơ cấu và hoạt động theo mô hình tập đoàn công nghiệp-ngân hàng.
Ngoài ra cũng có thể phân chia ngân hàng theo các tiêu thức khác tùy
yêu cầu quản lý. Nếu phân theo hình thức sở hữu thì có ngân hàng sở hữu tƣ
nhân, ngân hàng sở hữu của các cổ đông (ngân hàng cổ phần), ngân hàng sở
hữu Nhà nƣớc, ngân hàng liên doanh Nếu phân chia theo tính chất hoạt
động thì có ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng, ngân hàng hoạt
động bán buôn và ngân hàng bán lẻ. Nếu phân chia ngân hàng thƣơng mại
theo cơ cấu tổ chức thì có ngân hàng sở hữu công ty và công ty sở hữu ngân
hàng, ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh.
1.6. Vai trò của ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh đối với nền
kinh tế Việt nam
- Tăng tính cạnh tranh, giảm độc quyền của ngân hàng thƣơng mại quốc
doanh. Các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh đƣợc hình thành từ vốn sở hữu
của Nhà nƣớc, do đó cũng khó tránh khỏi sự “ƣu ái” của Nhà nƣớc dành cho
khối ngân hàng này trong quá trình thực hiện nghiệp vụ, cung cấp dịch vụ cho
khách hàng. Hơn nữa, với qui mô lớn, các ngân hàng này cũng dễ dàng hơn
trong quá trình chiếm lĩnh thị phần, thu hút lƣợng khách hàng lớn, trung
thành. Bên cạnh những lợi thế, thì khối ngân hàng này cũng có những sự hạn

chế nhất định, đó là sự cồng kềnh trong bộ máy quản lý, trong quá trình ra các
quyết định hoạt động. Sự hình thành nhanh và nhiều các ngân hàng thƣơng
mại ngoài quốc doanh, với sự năng động, nhạy bén trong quá trình chuyển đổi
nhanh của nền kinh tế thị trƣờng cùng với nhu cầu dịch vụ ngân hàng ngày
cao của ngƣời dân đã đem lại cho khách hàng những cơ hội chọn lựa cho họ
những ngân hàng phục vụ khác ngoài khối ngân hàng thƣơng mại quốc doanh.
- Nâng cao chất lƣợng phục vụ khách hàng. Chính sự ra đời, phát triển
của khối ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh làm gia tăng tính cạnh

×