Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu Luận - Kinh Tế Quốc Tế - Đề Tài - Mô Hình Phát Triển Kinh Tế Của 3 Nước Nhật Bản, Hàn Quốc Và Singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.96 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN
MƠN KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
MƠ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA 3
NƯỚC: NHẬT BẢN, HÀN QUỐC VÀ
SINGAPORE


MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1.

Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................................1

2.

Đối tượng và mục đích nghiên cứu...............................................................................1

3.

Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................1

4.

Kết quả nghiên cứu.....................................................................................................1

5.


Bố cục của bài thảo luận.............................................................................................1

PHẦN 2: NỘI DUNG...........................................................................................................2
TỔNG QUAN VỀ MƠ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CÁC NƯỚC NHẬT
BẢN, HÀN QUỐC, SINGAPORE......................................................................................2
2.1. Nhật Bản....................................................................................................................2
2.1.1. Tổng quan về đất nước Nhật Bản............................................................................2
2.1.2. Mơ hình phát triển kinh tế của Nhật Bản..................................................................3
2.1.3. Đánh giá về sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản...................................................8
2.2. Hàn Quốc................................................................................................................... 8
2.2.1. Tổng quan về Hàn Quốc........................................................................................8
2.2.2. Mơ hình phát triển kinh tế Hàn Quốc.....................................................................10
2.2.3. Đánh giá sự phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc....................................................14
2.3. Singapore................................................................................................................. 15
2.3.1. Tổng quan về đất nước Singapore.........................................................................15
2.3.2.Mô hình tăng trưởng của Singapore.......................................................................17
2.3.3.Đánh giá về sự phát triển kinh tế của Singapore.......................................................24

PHẦN 3: KẾT LUẬN........................................................................................................25


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Phát triển kinh tế là một trong những mục tiêu quan trọng mà bất kỳ quốc gia
nào cũng muốn đạt đến. Tuy nhiên, mỗi quốc gia khơng hồn tồn giống nhau về
điều kiện phát triển. Có những quốc gia rất được ưu ái, có nhiều thuận lợi để phát
triển, đặc biệt là về mặt tự nhiên, họ có nguồn tài nguyên phong phú, tạo bước đẩy
đưa nền kinh tế phát triển cao. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều quốc gia được xếp
vào danh sách những nước nghèo tài nguyên, mà Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore
…., là những ví dụ điển hình. Như chúng ta biết, thực tế hiện nay đã cho thấy những

sự thật trái ngược nhau, ở một nước có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển đất
nước thì lại có nền kinh tế chưa thực sự phát triển như những gì mong đợi, nói một
cách thẳng thắn hơn, họ vẫn đang cịn trong tình trạng kém phát triển. Như những gì
mà bạn nhìn thấy ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…., thì đây lại là một khác biệt
lớn. Họ có một nền kinh tế phát triển cao, nằm trong nhóm những con rồng Châu Á,
GDP bình qn đầu người cao…. Vậy con đường phát triển mà họ đi ra sao? Họ đã
có mơ hình tăng trưởng kinh tế như thế nào để có được những thành cơng như ngày
hơm nay ?
Và để tìm lời giải đáp cho những câu hỏi trên, nhóm 6 chúng tơi chọn đề tài: “
Mơ hình phát triển kinh tế của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore.”
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: “ Mơ hình phát triển kinh tế của các nước Nhật Bản,
Hàn Quốc và Singapore..”
Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu về mơ hình phát triển kinh tế, các giai đoạn
phát triển của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
3. Phương pháp nghiên cứu
Thu thập thơng tin kết hợp với các phương pháp phân tích, so sánh và diễn
dịch …để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu
4. Kết quả nghiên cứu
Sau quá trình nghiên cứu, nhóm đã hiểu ra được mơ hình phát triển kinh tế của
các nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore.
5. Bố cục của bài thảo luận
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung: Tổng quan về mơ hình phát triển kinh tế của các nước
Nhật Bản, Hàn Quốc,Singapore
Phần 3: Kết luận
1


PHẦN 2: NỘI DUNG

TỔNG QUAN VỀ MƠ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CÁC NƯỚC
NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, SINGAPORE
2.1. Nhật Bản.
2.1.1. Tổng quan về đất nước Nhật Bản
2.1.1.1. Vị trí địa lý, diện tích và địa hình
Nhật Bản nằm ở phía Đơng của châu Á, phía Tây của Thái Bình Dương. Nhật
Bản gồm 4 đảo chính: Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku, nhiều dãy đảo và
khoảng 3.900 đảo nhỏ. Honshu chiếm trên 60% diện tích. Những quốc gia và lãnh
thổ lân cận ở vùng biển Nhật Bản là Nga, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc; ở vùng biển
Đông Hải là Trung Quốc, Đài Loan; đi xa hơn về phía Nam là Philippines và quần
đảo Bắc Mariana.
Tổng diện tích của Nhật Bản là 377.815 km², đứng thứ 60 trên thế giới về diện
tích và chiếm chưa đầy 0,3% tổng diện tích đất tồn thế giới..
2.1.1.2. Kinh tế
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên, ngoại trừ gỗ và hải sản, trong
khi dân số quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá
kiệt quệ trong chiến tranh. Tuy nhiên, với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản
đã nhanh chóng phục hồi trong những năm 1945- 1954, phát triển cao độ trong
những năm 1955- 1973 khiến cho cả thế giới hết sức kinh ngạc và khâm phục.
Nhật Bản là một nước có nền kinh tế-cơng nghiệp-tài chính thương mại-dịch
vụ-khoa học kĩ thuật lớn đứng thứ hai trên thế giới (đứng sau Hoa Kỳ). Cán cân
thương mại và dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra
nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế
giới. Nhật Bản có nhiều tập đồn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Đơn
vị tiền tệ là: đồng Yên Nhật.
2.1.1.3. Tôn giáo
Đạo gốc của Nhật Bản là Thần đạo (đạo Shinto), có nguồn gốc từ thuyết vật
linh của người Nhật cổ. Qua Trung Quốc và Triều Tiên, Phật giáo được du nhập từ
Ấn Độ vào Nhật Bản từ khoảng giữa thế kỷ thứ VI. Khoảng 84% đến 96% dân số
Nhật theo cả đạo Shinto và Phật giáo.


2


2.1.1.4. Hệ thống chính trị
Hồng gia Nhật do Nhật hồng đứng đầu. Theo Hiến pháp Nhật thì “Hồng đế
Nhật là biểu tượng của quốc gia và cho sự thống nhất của dân tộc”. Nhật hoàng sẽ
tham gia vào các nghi lễ của quốc gia nhưng không giữ bất kỳ quyền lực chính trị
nào, thậm chí trong các tình huống khẩn cấp của quốc gia. Quyền lực này sẽ do Thủ
tướng và các thành viên nghị viện đảm nhận.
2.1.1.5. Văn hoá, phong tục tập quán.
Người Nhật rất coi trọng sự chào hỏi, ở đâu, lúc nào và đối với bất cứ ai họ
cũng đều tỏ ra rất lịch sự và nghiêm túc trong việc chào hỏi lẫn nhau, đó là một tập
quán tốt đẹp của người Nhật.
Tặng quà là một phần trung tâm trong văn hố kinh doanh của người Nhật.
Nói chung, người Nhật rất thích tặng quà. Hay đúng hơn, việc tặng quà đã trở thành
một thói quen, một lễ nghi không thể thiếu được trong đời sống thường ngày của
họ. Tặng quà được xem như một cách thể hiện sự yêu mến và kính trọng lẫn nhau
và để xác định các mối quan hệ xã hội.
2.1.2. Mơ hình phát triển kinh tế của Nhật Bản
2.1.2.1. Giai đoạn 1950 -1973
Sau năm 1945, Nhật Bản gặp khó khăn trong việc xuất khẩu đủ để trả cho
hàng nhập khẩu của mình cho đến giữa những năm 1960, và kết quả là thâm hụt là
nguyên nhân cho các chương trình xúc tiến xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
Các phương pháp thúc đẩy xuất khẩu của Nhật Bản có hai con đường. Đầu
tiên là phát triển các ngành công nghiệp đẳng cấp thế giới, ban đầu có thể thay thế
hàng nhập khẩu và sau đó cạnh tranh trên thị trường quốc tế . Thứ hai là khuyến
khích các doanh nghiệp xuất khẩu.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, lợi thế lớn nhất mà Nhật Bản có là nguồn lao
động rẻ và dồi dào để phát triển sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm sử dụng nhiều

lao động như các sản phẩm dệt và gốm sứ thì các giai đoạn sau đó Nhật Bản đã xác
định được vai trò quan trọng của các ngành cơng nghiệp nặng là hóa chất (cụ thể là
ngành luyện kim, chế tạo máy và hóa dầu) trong việc tạo ra lợi thế so sánh mới
trong tương lai.
Lợi thế so sánh của Nhật Bản đã chuyển dịch từ những sản phẩm ban đầu sử
dụng nhiều lao động sang các sản phẩm có hàm lượng vốn và kỹ thuật ngày càng
cao, chất lượng ngày càng tinh vi và hiện đại. Quá trình chuyển dịch lợi thế so sánh
này diễn ra đồng thời với sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế Nhật Bản dưới tác động
của các chính sách thương mại và cơng nghiệp của chính phủ. Cụ thể:
Từ năm 1960 đến năm 1973, kinh tế Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển
“thần kì”, tốc độ tăng trưởng cao liên tục, nhiều năm đạt tới hai con số (1960-1969
3


là 10,8%). Nhật Bản trở thành một siêu cường quốc kinh tế (sau Mỹ). Lợi thế so
sánh quan trọng trong những năm 60-70 này chính là những sản phẩm cơng nghiệp
nặng và hóa chất như sắt thép, tàu thủy và các sản phẩm hóa dầu.
Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1965 trong thời kỳ tăng trưởng với tốc độ
cao, cung lao động rất co giãn và lực lượng lao động bắt đầu di cư từ nông thôn ra
thành thị tại các khu vực .
Trong giai đoạn nửa sau của thế kỷ, tỷ lệ tiền lương của Nhật Bản tăng vọt, và
cả 2 lĩnh vực đều thay thế đầu vào của họ từ lao động thành vốn .
Tuy nhiên, sau khi gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vào năm 1964, Nhật
Bản đã phải từ bỏ khuyến khích xuất khẩu chính của mình - miễn thuế tồn bộ thu
nhập xuất khẩu - để tuân thủ các thủ tục của IMF. Tuy nhiên, nó đã được duy trì vào
những năm 1970, việc xử lý thuế đặc biệt đối với các chi phí phát triển thị trường và
xúc tiến xuất khẩu.
Trong những năm 1950, các sản phẩm xuất khẩu của Nhật Bản nổi tiếng về
chất lượng kém. Tuy nhiên, hình ảnh này đã thay đổi đáng kể trong những năm
1970. Thép Nhật Bản ,tàu thủy, đồng hồ, máy thu hình, ơ tơ, chất bán dẫn và nhiều

hàng hóa khác đã nổi tiếng vì được sản xuất theo tiêu chuẩn cao và được kiểm sốt
chất lượng nghiêm ngặt.
Mơ hình thương mại:
Giai đoạn này là giai đoạn bắt đầu sự phát triển kinh tế của Nhật Bản, họ bắt
đầu thu hút lượng lao động thất nghiệp vào các ngành nghề và tận dụng cơ hội đó
để phát triển và mở rộng, chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu chúng ra thị
trường nước ngoài như: các lĩnh vực điện tử, lọc dầu, sửa chữa tàu biển và dệt may.
Chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng chứa nhiều vốn như
các sản phẩm cơng nghiệp nặng và hóa chất …….
Chính sách mở cửa và phát triển khoa học kỹ thuật. Việc nhập khẩu các kỹ
thuật nước ngoài để đổi mới kỹ thuật trong nước diễn ra hết sức mạnh mẽ trong 40
năm sau chiến tranh. Đó là một quyết định giúp nền kinh tế Nhật Bản tăng trưởng
với tốc độ chưa từng thấy.
2.1.2.2. Giai đoạn 1974-1985
Từ những năm 1967 đến 1983, mơ hình chun mơn hóa trong sản xuất của
Nhật Bản đã thay đổi đáng kể với việc Nhật Bản chuyển từ chun mơn hóa hàng
hóa thâm dụng lao động phổ thơng sang chun mơn các sản phẩm hàng hóa chứa
nhiều vốn và chuyên sâu về nghiên cứu phát triển.

4


Những năm 1970 bắt đầu với sự kết thúc của tỷ giá hối đoái cố định đối với
đồng yên (sự thay đổi chủ yếu do thương mại Nhật Bản tăng nhanh và thặng dư tài
khoản vãng lai) và giá trị đồng yên tăng mạnh theo hệ thống tỷ giá thả nổi mới.
Cường độ vốn của lĩnh vực tiêu dùng lấn át khu vực đầu tư vào những năm
1975.
Trong những năm 1980, Nhật Bản tiếp tục sử dụng chính sách cơng nghiệp để
thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp mới, phức tạp hơn, nhưng các
biện pháp thúc đẩy xuất khẩu trực tiếp khơng cịn là một phần của gói chính sách.

Trong những năm 1980, Nhật Bản khá sẵn sàng thực hiện các biện pháp hạn
chế xuất khẩu như vậy. Trong số các mặt hàng xuất khẩu của Nhật Bản sang Hoa
Kỳ như : thép, máy thu hình màu và ô tô tất cả đều phải chịu sự hạn chế đó vào
nhiều thời điểm khác nhau.
Người Nhật là những nhà lãnh đạo thế giới được thừa nhận về chất lượng và
thiết kế trong những năm 1980 đối với một số sản phẩm như: tàu thủy, đồng hồ ,
máy thu hình , ơ tơ, chất bán dẫn…. Sự gia tăng về chất lượng sản phẩm cũng làm
tăng nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Nhật Bản.
Năm 1979, giá xăng dầu lại tăng vọt, và cán cân thương mại của Nhật Bản lại
thâm hụt, đạt 10,7 tỷ USD vào năm 1980. Một lần nữa, xuất khẩu tăng nhanh và
nhập khẩu trì trệ đã đưa Nhật Bản nhanh chóng thặng dư vào năm 1981. Trong 5
năm tiếp theo, thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng bùng nổ, đạt mức cao nhất là
82,7 tỷ đô la Mỹ vào năm 1986. Thặng dư thương mại chưa từng có này là do xuất
khẩu tăng vừa phải hàng năm và giảm nhập khẩu đã được ghi nhận trước đó. Nền
tảng của những diễn biến thương mại này là sự suy yếu của đồng yên so với các
đồng tiền khác, điều này đã nâng cao khả năng cạnh tranh về giá xuất khẩu và làm
giảm nhu cầu nhập khẩu.
Mơ hình thương mại:
Ở giai đoạn này, Nhật Bản chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu các linh
kiện chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Châu Á
Nhật Bản nhập khẩu các nguyên liệu thô của Indonesia và Malaysia. Tuy
nhiên, giá dầu giảm đã khiến cho thương mại 2 chiều giữa Nhật Bản và Indonesia
giảm trong những năm 1980 .
2.1.2.3. Giai đoạn 1986-1990
Bước sang thập kỷ 80, nhất là nửa sau những năm 80, Nhật có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, ổn định và tiếp tục khẳng định vị trí siêu cường quốc kinh tế thứ
hai thế giới.
5



Đặc điểm của thời kỳ này là Nhât Bản tương đối dồi dào về vốn so với lao
động hoặc đất đai
Lợi thế so sánh của thời kỳ này là các ngành công nghiệp điện tử: Nhật đứng
đầu các ngành công nghiệp đóng tàu, luyện thép, ơ tơ, tivi màu, chất bán dẫn, điện
tử tiêu dùng, người máy,…Nhật Bản đã tạo được những loại động cơ, các thiết bị
tiêu dùng hết sức tiết kiệm năng lượng. Ví dụ: Một chiếc máy lạnh dung tích 260l
dùng điện mỗi tháng giảm từ 76,6 kw (1973) xuống còn 26 kw (1987). Nhờ vậy,
sản phẩm vừa tiết kiệm vừa có tính cạnh tranh cao để xuất khẩu.
Thập niên 80 được đánh dấu bằng những tranh chấp thương mại và căng thẳng
về đầu tư cao của Nhật Bản ra nước ngoài. Những căng thẳng này đã biến MITI,
công ty hiện đang khuyên hạn chế tự nguyện đối với xuất khẩu thép, TV và ô tô,
tiến xa hơn đến việc mở một văn phòng xúc tiến nhập khẩu. Thặng dư thương mại
lớn khiến Mỹ kêu gọi định giá lại đồng yên và mở cửa thị trường. Hạn chế nhập
khẩu giảm, nhưng các rào cản phi thuế quan vẫn là một vấn đề.
Đầu những năm 1990, mức thâm dụng vốn của Nhật Bản tương đương với
Tây Đức, nhưng chỉ bằng một nửa của Mỹ.
Tỷ lệ vốn trên một đơn vị lao động đã giảm trong những năm 1990 với sự sụt
giảm của đầu vào lao động nhỏ hơn mức giảm của mức tích lũy vốn. Sự chậm lại
trong tích lũy vốn phản ánh sự suy thối kinh tế sau khi các công ty cơ cấu lại bảng
cân đối kế tốn và giảm nợ thay vì đầu tư. Ngồi ra, tỷ suất lợi nhuận trên vốn giảm
21% trong những năm 1990. Điều này, kết hợp với nhu cầu hàng hóa thiếu hụt, có
thể đã làm giảm động lực cho các doanh nghiệp tích lũy vốn ở mức đã từng trải qua.
Mơ hình thương mại :
Lợi thế so sánh ở giai đoạn này là các ngành cơng nghiệp đóng tàu, luyện thép,
ô tô, tivi màu, chất bán dẫn, điện tử tiêu dùng, người máy
Nhật Bản chủ yếu chun mơn hóa sản xuẩt và xuất khẩu các mặt hàng như: ô
tô, các bộ phận và phụ kiện của quy trình dữ liệu tự động……
Nhật Bản còn nhập khẩu một lượng lớn các mặt hàng mà nước này khơng có
lợi thế như: dầu thơ, dầu mỏ, khí đốt hóa lỏng, tranh, phấn màu…..
2.1.2.4. Giai đoạn 1991-2000

Sau khi kinh tế bong bóng đổ vỡ đầu thập niên 1990, kinh tế Nhật Bản chuyển
sang thời kỳ trì trệ kéo dài. Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm
của giai đoạn 1991-2000 chỉ là -0,5% thấp hơn rất nhiều so với các thời kỳ trước.
Đây phần lớn được cho là một hiện tượng tuần hoàn phản ánh sự sụp đổ của kinh tế
bong bóng vào cuối những năm 1980 đưa ra nhận xét rằng các yếu tố cấu trúc cũng
6


có thể bị liên lụy. Hơn nữa, một số ngành dường như đang mất dần khả năng cạnh
tranh.
Ví dụ, ngành cơng nghiệp điện tử của Nhật Bản có khả năng cạnh tranh xuất
khẩu áp đảo vào những năm 1980, nhưng các nhà sản xuất ở Hàn Quốc, Đài Loan
và các nơi khác ở Đông Á đã bắt kịp, với kết quả là các nhà sản xuất Nhật Bản phải
đối mặt với sự cạnh tranh nghiêm trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực chất bán dẫn và
các thiết bị thông tin khác.
Những thay đổi lớn về thể chế đã xảy ra trong nền kinh tế Nhật Bản trong giai
đoạn từ những năm 1990 đến đầu những năm 2000 được gọi là “Thập kỷ mất tích”.
Hệ thống tài chính và việc làm thay đổi rất nhanh chóng, chịu ảnh hưởng của dư
thừa vốn tồn kho, dư nợ khó địi và dư thừa việc làm.
Năm 1991, các mặt hàng xuất khẩu chính của Nhật Bản là xe có động cơ, máy
móc văn phịng, thiết bị khoa học và quang học, chất bán dẫn và các linh kiện điện
tử khác.
Nguồn vốn dư thừa, do tích lũy quá mức vào cuối những năm 1980, đã gây áp
lực nặng nề lên hệ thống sản xuất, tổ chức công ty và quan hệ giữa các công ty
trong ngành sản xuất, khiến chúng chuyển đổi dần trong những năm 1990. Các công
ty Nhật Bản theo đuổi việc loại bỏ dự trữ vốn, đóng cửa các nhà máy, hợp lý hóa tổ
chức cơng ty và tổ chức lại mạng lưới hợp đồng phụ. Trong tình huống này, các
hoạt động kinh doanh khác nhau giữa các công ty sản xuất đã được chuyển ra bên
ngoài như các dịch vụ liên quan đến kinh doanh với sự gia tăng năng suất trong
ngành sản xuất. Điều này ảnh hưởng đến mơ hình phi cơng nghiệp hóa ở Nhật Bản.

Cường độ thâm dụng vốn của Nhật Bản tăng theo cấp số nhân vào những năm
1995.
Mơ hình thương mại:
Ở giai đoạn này, Nhật Bản dư thừa vốn do tích lũy quá mức, các mặt hàng như
động cơ, máy móc, thiết bị khoa học, ơ tô, điện gia dụng là các sản phẩm mà Nhật
Bản chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
2.1.2.5. Giai đoạn 2001 đến nay
Nhật Bản đã thoát khỏi suy thoái, cải tiến và phát triển kinh tế, cuối năm 2005
nền kinh tế bắt đầu hồi phục bền vững. Mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa, đặc
biệt là thị trường Mỹ và Trung Quốc.
Mặc dù có những suy giảm trong việc xuất khẩu các sản phẩm điện tử và linh
kiện, tuy nhiên đây vẫn là lợi thế so sánh trong thời kì hiện nay của Nhật Bản. Các
sản phẩm công nghệ công nghệ cao và máy móc vẫn là yếu tố quyết định của Nhật
Bản trên thị trường thế giới.
7


Hiện nay, Nhật Bản đang áp dụng việc thâm dụng robot để giảm chi phí lao
động của con người. Trong vòng 5 năm tới, Nhật Bản sẽ chú trọng việc thúc đẩy sử
dụng các loại robot thông minh trong sản xuất, dây chuyền cung ứng, xây dựng và y
tế - chăm sóc sức khỏe.
Năm 2000, giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của Nhật Bản lần lượt là 450 tỷ
USD và 355 tỷ USD. Điều này đã ghi nhận sự gia tăng đáng kể trong cả xuất khẩu
và nhập khẩu từ năm 1998, khi giá trị tương ứng của chúng là 374 tỷ đô la và 251 tỷ
đô la.
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Nhật Bản bao gồm thiết bị và máy móc
điện, thiết bị và bộ phận điện tử, viễn thơng và máy tính, thiết bị vận tải và xe có
động cơ, máy móc phi điện, hóa chất và kim loại. Các mặt hàng nhập khẩu của
nước này chủ yếu là máy móc thiết bị, nguyên liệu, bao gồm khống sản và nhiên
liệu (dầu, khí đốt hóa lỏng và than đá), nông sản và thủy sản.

Sau thảm họa hạt nhân Fukushima năm 2011, người ta bày tỏ lo ngại về sự an
toàn của thực phẩm xuất khẩu của Nhật Bản. Sản lượng của nhà máy cũng bị ảnh
hưởng nặng nề do sự cố cung cấp điện. Xuất khẩu của Nhật Bản cũng bị ảnh hưởng
bởi cuộc chiến thương mại đang diễn ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ và vào tháng 1
năm 2019, Nhật Bản báo cáo xuất khẩu dự kiến sẽ giảm. Kinh doanh thiết bị điện tử
và thiết bị sử dụng để làm chất bán dẫn đã được thực hiện như Trung Quốc đã chậm
lại mua hàng do các yếu tố kết hợp của cuộc chiến tranh thương mại và cũng giảm
nhu cầu đối với điện thoại thơng minh
Mơ hình thương mại:
Nâng cao chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao
như : robot, máy móc….
Thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, bên cạnh việc thực hiện chính sách thắt
chặt tài chính.
Tiếp tục cải cách khu vực dịch vụ tài chính. Mở rộng thị trường xuất khẩu
hàng hóa, đặc biệt là thị trường Mỹ và Trung Quốc
2.1.3. Đánh giá về sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản
Trong những năm qua, Nhật Bản khơng ngừng phát triển. Nó chuyển từ sản
xuất các ngành công nghiệp nhẹ trong những năm 1950 sang các ngành cơng nghiệp
nặng, hóa chất, ơ tơ và điện tử vào những năm 1960, một nền kinh tế dựa vào thâm
dụng vốn. Các mặt hàng mà Nhật Bản xuất khẩu đã thay đổi theo thời gian, từ nơng
sản sang các hàng hóa như dệt may, thép và ô tô. Nhật Bản không còn cạnh tranh
trong nông nghiệp vì nước này có ít đất canh tác. Ngày nay, cơng việc sản xuất đơn
giản là q đắt vì mức chi phí trả cho cơng nhân của Nhật Bản là rất cao. Nhật Bản
8


cũng kém cạnh hơn trong các ngành sử dụng nhiều năng lượng như hóa dầu và
nhơm do nước này có ít nguồn năng lượng trong nước .
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đã có sự thay đổi cơ cấu theo hướng có lợi
cho ngành cơng nghiệp đầu tư và cơ bản (tức là sản xuất sắt, sản xuất hóa chất, cơ

khí, cơng nghiệp đóng tàu và cơng nghiệp xe hơi). Các ngành công nghiệp nhẹ
truyền thống (đặc biệt là ngành dệt may) đã khơng cịn đáng kể nữa. Tốc độ tăng
trưởng cao đặc biệt là trong lĩnh vực vi điện tử và kỹ thuật robot, cũng như trong
ngành kỹ thuật điện và ngành cơ khí.
Nhật Bản đã thể hiện niềm tin trí tuệ thống trị vững chắc trong việc tạo ra lợi
thế so sánh cho sản xuất trong nước, vốn đã thấm nhuần hầu hết các suy nghĩ và
hành vi của học thuật, chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Trong nhiều
năm, MITI đã đưa ra các mục tiêu R&D cho các Công ty Nhật Bản để đảm bảo rằng
Nhật Bản giữ được lợi thế so sánh về cơng nghệ của mình. Sẽ khó có thể duy trì
những lợi thế này trong những năm tiếp theo, nhất là với diễn biến hiện nay của khu
vực. Khả năng cấp vốn dễ dàng hơn của các công ty Nhật Bản có thể bị giảm sút do
hệ thống ngân hàng Nhật Bản ngày càng “làm sạch”. Nhật Bản là một quốc gia có
giá cả cao, với chi phí lao động cao sẽ dẫn đến việc chuyển các cơ sở sản xuất ra
khỏi Nhật Bản. Nhật Bản chỉ có thể tập trung vào các cơ sở R&D mạnh. Giờ đây,
Nhật Bản đang bắt đầu đóng vai trị tích cực trong việc đạt được một hệ thống
thương mại tự do toàn cầu. Bằng cách mở cửa thị trường nội địa, Nhật Bản cũng cố
gắng đối mặt với các vấn đề nội bộ của mình. Hội nhập khu vực ở Đơng Á có thể sẽ
tăng tốc, tạo sức nặng chống lại khối thương mại NAFTA và EC, ngay cả khi sự
phát triển như vậy có thể gây ra các tác động phân kỳ thương mại bằng cách đặt ra
các rào cản thương mại giữa các khu vực.
2.2. Hàn Quốc
2.2.1. Tổng quan về Hàn Quốc.
2.2.1.1. Về địa lý
Hàn Quốc nằm trên Bán đảo Triều Tiên, ở phần đông bắc của lục địa châu Á,
nơi hải phận của bán đảo tiếp giáp với phần cực tây của Thái Bình Dương. Phía bắc
bán đảo tiếp giáp với Trung Quốc và Nga. Phía đơng của bán đảo là Biển Đông, xa
hơn nữa là nước láng giềng Nhật Bản.
2.2.1.2. Về kinh tế
Kinh tế Hàn Quốc là nền kinh tế phát triển, đứng thứ 3 ở châu Á và đứng thứ
10 trên thế giới theo GDP năm 2006. Sau Chiến tranh Triều Tiên, kinh tế Hàn Quốc

đã phát triển nhanh chóng, từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành
một trong những nước giàu nhất.

9


Cuối thế kỷ 20, Hàn Quốc là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh
tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Hàn Quốc cũng là một nước phát triển
có sự tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là
5% mỗi năm.
Cùng với sự phát triển về kinh tế, đời sống của nhân dân được nâng cao rất
nhanh trở nên ngang bằng thậm chí cao hơn các quốc gia phát triển khác ở châu Âu
và các nước Bắc Mỹ. Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt 0,912 vào năm 2006.
Hiện nay, thu nhập và tài sản của Hàn Quốc đang tăng một phần là do sự đầu
tư và xuất khẩu công nghệ cao sang các nước đang phát triển như Trung Quốc, Việt
Nam, và Indonesia.
2.2.1.3. Về văn hóa- xã hội.
Hàn Quốc vốn là một đất nước chỉ có một dân tộc, một tiếng nói, tuy nhiên,
ngày nay yếu tố này đang có nhiều thay đổi. Hàn Quốc đang chuyển sang xã hội "đa
dân tộc, đa văn hóa".
Do chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, người Hàn Quốc rất coi trọng lễ
nghĩa, trật tự trên dưới, nhất là trong các mối quan hệ đồng huyết thống (gia đình,
họ hàng), đồng mơn (cùng trường), đồng hương (cùng q).
2.2.1.4. Thể chế chính trị
Dân chủ tồn diện và theo chế độ cộng hịa tổng thống- Cộng hòa Tổng thống
chế.
2.2.1.5. Lối sống
Trang phục truyền thống hanbok thường được mặc vào những ngày lễ đặc biệt
như Tết âm lịch và Chuseok - ngày Lễ mùa (Hội mùa rằm trung thu), và các ngày lễ
của gia đình như Hwangap, lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 60.

Trong ba yếu tố cơ bản của cuộc sống - nhà ở, quần áo và thực phẩm - thì
những thay đổi trong thói quen ăn uống đã tác động đến người Hàn Quốc rất nhiều.
Gạo vẫn là lương thực chính của hầu hết người dân Hàn Quốc, nhưng trong thế hệ
trẻ ngày nay, nhiều người lại thích các món ăn phương Tây. Người Hàn Quốc
thường ăn cơm với nhiều thức ăn khác, chủ yếu là các loại rau xanh đã nêm gia vị,
canh, các món hầm trong nồi đất và thịt.
2.2.1.6. Tôn giáo
Nhiều người dân Hàn Quốc không đặt nặng vấn đề tôn giáo, họ tổ chức ngày
lễ của nhiều tôn giáo khác nhau. Những nghi lễ cổ truyền vẫn cịn được duy trì. Các
giá trị của đạo Khổng hiện nay vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống thường ngày
của người dân xứ Hàn.

10


2.2.2. Mơ hình phát triển kinh tế Hàn Quốc.
2.2.2.1. Giai đoạn từ năm 1962 đến năm 1973.
Đất nước lúc bấy giờ vừa thiếu vốn, vừa thiếu kỹ thuật cũng như thiếu nguyên
vật liệu nhưng vẫn có thể đạt được sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng 10% mỗi năm,
chính là nhờ việc phát triển ngành cơng nghiệp chế tạo địi hỏi sử dụng nhiều lao
động.
Trong giai đoạn này, mục tiêu chính của gần như tất cả các chính sách kinh tế
ở Hàn Quốc là xúc tiến xuất khẩu bất cứ sản phẩm nào có thể, mà lại cần nhiều lao
động.
Năm 1962, Hàn Quốc bắt tay vào công cuộc công nghiệp hóa lớn dựa vào xuất
khẩu. Một chiến lược phát triển tập trung vào xuất khẩu đã được đưa ra và việc xuất
khẩu các mặt hàng sản xuất nhẹ, sử dụng nhiều lao động đã được đẩy mạnh. Các ưu
đãi tài chính như miễn thuế nhập khẩu nguyên phụ liệu đã khuyến khích sản xuất
hàng xuất khẩu, kích thích tăng trưởng ngành dệt may và các ngành công nghiệp
máy điện. Hàn Quốc có lợi thế so sánh trong các ngành cơng nghiệp này, nơi thu

hút những lao động có trình độ học vấn tốt và có động cơ cao với mức lương thấp.
Mục tiêu cơ bản của xúc tiến xuất khẩu là kiếm ngoại tệ, rõ ràng nhập khẩu không
được khuyến khích. Thương mại tăng từ 500 triệu đơ la Mỹ năm 1962 lên 2,8 tỷ đơ
la Mỹ năm 1970. Tính theo điểm phần trăm, thương mại đã tăng trưởng 40,8 phần
trăm trong những năm 1960.
Năm 1963, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc đạt trung bình 9,8% trong
phần cịn lại của thập kỷ. Nhưng tình hình có vẻ khơng thỏa hiệp với Chính phủ
Hàn Quốc:
Thứ nhất: Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Đông Nam Á đã nhanh chóng mở
rộng xuất khẩu phi truyền thống. Điều này dẫn đến viễn cảnh Hàn Quốc sớm mất
thị trường xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng lao động.
Thứ hai: vào đầu những năm 1970, chủ nghĩa bảo hộ đang gia tăng ở các nước
cơng nghiệp và nó đã hầu hết hướng đến các sản phẩm sản xuất thâm dụng lao động
từ các nước đang phát triển.
Thứ ba: cán cân thương mại đã trở nên tồi tệ trong giai đoạn đầu do sự phụ
thuộc của xuất khẩu nhập khẩu tăng so với cùng kỳ.
Trong thời kỳ tăng trưởng cao vào những năm 1970, một sự thay đổi quan
trọng đã xảy ra khi nhà nước bắt buộc và thúc đẩy sự chuyển dịch từ các ngành sử
dụng nhiều lao động sang các ngành thâm dụng vốn như hóa chất, ơ tơ, đóng tàu,
máy tính, v.v...

11


Vào đầu những năm 1970, kế hoạch 5 năm lần thứ ba tập trung vào các ngành
công nghiệp nặng và hóa chất . Do đó, động cơ tăng trưởng mới chuyển từ sản xuất
nhẹ sang sản xuất nặng. Trong khi đó, Hàn Quốc tiếp tục với các chính sách khuyến
khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu . Việc sản xuất ô tô bắt đầu trong khi ô tô
nhập khẩu hầu như biến mất khỏi thị trường. Xuất khẩu tăng khoảng 45% một năm.
Mơ hình thương mại:

Mơ hình kinh tế được xác định trong giai đoạn này là mơ hình hướng ngoại
với chiến lược cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, đẩy nhanh q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa vào sự khai thác thị trường thế giới và liên kết
quốc tế nhằm hạn chế bế tắc về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thu hút đầu tư, tiếp thu
khoa học- công nghệ của giai đoạn trước để lại.
Thành lập nhiều chaebol, công ty xuyên quốc gia TNC, công ty đa quốc gia
MNC trong quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu thụ tạo điều kiện đầu tư
thuận lợi, thiết lập các khu chế xuất để xuất khẩu nhằm tăng ngoại tệ.
2.2.2.2. Giai đoạn từ năm 1973 đến 1979
Đầu những năm 1970, nước này tiếp tục với các chính sách hạn chế nhập khẩu
và tăng cường xuất khẩu. Tuy nhiên, xuất khẩu tập trung vào các ngành công
nghiệp nặng. Việc sản xuất ô tô bắt đầu trong khi ô tô nhập khẩu hầu như biến mất
khỏi thị trường. Tăng trưởng xuất khẩu khoảng 45% mỗi năm tại Hàn Quốc.
Trong giai đoạn này, Hàn Quốc muốn chuyển sang sử dụng các ngành công
nghệ chứa nhiều vốn như: thép, kim loại màu, đóng tàu, máy móc, điện tử và hóa
chất.
Những năm 1970 mặc dù 'các ngành mục tiêu' đã được chuyển từ 'sử dụng
nhiều lao động' sang 'thâm dụng vốn '. Các khu vực tư nhân không thể đầu tư vào
các doanh nghiệp quy mơ lớn, tầm xa vì nguồn tài chính hạn chế và khơng sẵn sàng
chấp nhận rủi ro khi đầu tư.
Vào cuối những năm 1970 do giá dầu tăng, chi phí nhập khẩu dầu của nước
này đã tăng 200% trong một năm. Vào đầu những năm 1980, xuất khẩu trong các
ngành công nghiệp nặng đạt 17,5 tỷ đô la UD. Ngay từ giữa những năm 1980, tốc
độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc đã được quốc tế cơng nhận và thế giới chỉ
trích nền kinh tế thâm dụng xuất khẩu của nước này. Điều kiện toàn cầu không
thuận lợi ảnh hưởng đến nền kinh tế chuyên sâu về xuất khẩu của Hàn Quốc. Các
nhà hoạch định chính sách Hàn Quốc nhận thấy sự cần thiết phải mở cửa thị trường
và tạo ra nhiều cạnh tranh hơn cũng như thúc đẩy khả năng cạnh tranh quốc tế của
các ngành công nghiệp trong nước.


12


Do đó, chính phủ Hàn Quốc đã tạo ra 'đặc lợi' một cách giả tạo để thu hút đầu
tư vào 'các lĩnh vực đang lên' bằng cách hạn chế gia nhập mới vào các thị trường
này và cung cấp các khoản vay ưu đãi cần thiết.
Nguồn tăng trưởng sản lượng quan trọng nhất trong việc phát triển các quốc
gia đã tăng vốn dự trữ.Chính phủ Hàn Quốc đã quyết định trong việc xây dựng một
nền kinh tế thâm dụng vốn tiên tiến hơn cơ cấu công nghiệp.
Trong thập kỉ từ năm 1972 đến 1982, sản lượng thép tăng gấp 14 lần. ngành
cơng nghiệp hóa dầu . Đóng tàu là một câu chuyện thành công khác: vào những
năm 1980, Hàn Quốc trở thành nước đóng tàu lớn thứ 2 trên thế giới, nổi tiếng là có
thể hồn thành tất cả các đơn hàng đóng tàu mới một cách nhanh chóng và đúng hạn
Những thành công này phần nào được tạo nên bởi thực tế là các ngành công
nghiệp đã sử dụng nhiều năng lượng đã được tung ra vào thời điểm giá xăng dầu
tăng mạnh vào những năm 1973-1974. Tuy nhiên, đồng ngoại hối đổ ra để trả cho
dầu nhập khẩu đắt hơn đã sớm được bù đắp một phần nhờ thu nhập từ các công ty
xây dựng Hàn Quốc và công nhân của họ ở Trung Đông .
Kế hoạch 5 năm lần thứ ba tập trung vào các ngành công nghiệp nặng và hóa
chất, củng cố nền kinh tế định hướng xuất khẩu. Các chaebol bỏ lỡ hạn ngạch xuất
khẩu do chính phủ áp đặt sẽ mất vị thế được ưa chuộng. Xuất khẩu ô tô cất cánh, và
ô tô nhập khẩu hầu như biến mất khỏi thị trường. Sản xuất hàng tiêu dùng trong
nước giảm do giá cả được kiểm sốt chặt chẽ. Xuất khẩu ước tính tăng 45% một
năm.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế Hàn Quốc trưởng thành trong những năm 1980 đến
1990, một số thay đổi trong nền kinh tế đã diễn ra. Xuất khẩu đa dạng hóa và
chuyển sang hàng hóa cơng nghệ cao và trung bình, trong đó ngành cơng nghiệp trở
nên nhiều vốn hơn và ít thâm dụng lao động hơn. Xuất khẩu hàng dệt may cũng
giảm tương đối trong những năm 1980, được thay thế bằng hàng điện tử tiêu dùng,
máy tính và chất bán dẫn là xuất khẩu hàng đầu.

Mơ hình thương mại:
Hàn Quốc chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có chủ lực sử
dụng nhiều vốn như: thép, kim loại màu, đóng tàu, máy móc, điện tử và hóa chất.
2.2.2.3. Giai đoạn 1980-1993
Kể từ năm 1980, tốc độ tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu của Hàn Quốc
đã được quốc tế cơng nhận. Tuy nhiên, tồn cầu hóa đã ảnh hưởng đến chính sách
xuất khẩu của Hàn Quốc. Các nhà hoạch định chính sách của Hàn Quốc đã nhận
thấy sự cần thiết phải mở cửa thị trường, tạo ra nhiều cạnh tranh hơn và tăng khả
năng cạnh tranh quốc tế của các ngành sản xuất trong nước. Do đó, chính phủ Hàn
13


Quốc đã thực hiện chính sách xuất khẩu hàng điện tử và công nghệ cao để thay thế
hàng xuất khẩu công nghiệp nặng và hàng tiêu dùng. Các hạn chế nhập khẩu đã
được xóa bỏ.
Các ngành may mặc, điện tử, sản phẩm sắt thép, da giày,tàu là những ngành
mà Hàn Quốc có lợi thế so sánh và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế
giới đầu những năm 1980. Q trình đó dẫn đến việc mất dần lợi thế so sánh trong
các ngành công nghiệp ban đầu ( khi tiền lương tăng ) và cho phép nền kinh tế này
chuyển sang các ngành mới, sử dụng nhiều vốn và công nghệ .
Kế hoạch 5 năm lần thứ sáu tiếp tục xu hướng tách khỏi công nghiệp nặng
sang các sản phẩm tiêu dùng hướng đến xuất khẩu, bao gồm điện tử và cơng nghệ
cao. Chính phủ dỡ bỏ các hạn chế để tạo ra một môi trường nhập khẩu thân thiện
hơn, nhưng một loạt các hàng rào phi thuế quan tiếp tục làm phức tạp thêm thương
mại.
Năm 1986, Hàn Quốc lần đầu tiên đạt được cán cân thương mại thuận lợi ,
xuất siêu 4,2 tỷ USD. Tuy nhiên, những thay đổi trong chính sách thương mại cuối
cùng dẫn đến những thách thức trong những năm 1990. Trong những năm 1990,
tiêu dùng hàng xa xỉ trong nước tăng bao gồm các sản phẩm công nghệ cao và điện
tử làm giảm xuất khẩu dẫn đến thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai

của Hàn Quốc . Vào giữa những năm 1990, Hàn Quốc đã giảm thuế suất và hạn chế
nhập khẩu đối với ô tô, sản phẩm công nghệ cao và dịch vụ tài chính..
Cơng nghiệp của Hàn Quốc “cất cánh” rất nhiều nhờ có sự phù hợp khu vực
công nghiệp và lợi thế so sánh hiện tại của quốc gia. Bước vào thập niên 1990, một
số ngành công nghiệp của Hàn Quốc đã xếp hạng cao và tỷ lệ sản lượng trong thị
phần thế giới khá lớn.
Mô hình thương mại :
Có thể cạnh tranh với nhiều nước phát triển trên thế giới về nhiều lĩnh vực như
điện tử, sản xuất oto, hóa chất,... do giá thành rẻ và chất lượng sản phẩm cao. Khoa
học- kỹ thuật cũng phát triển cao thể hiện trong công nghệ vi điện tử, chế tạo robot,
tàu cao tốc, hóa sinh,...
Các kế hoạch 5 năm gắn liền tăng trưởng kinh tế với mô hình cơng nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài, liên tục cải cách kinh tế và cơ cấu
ngành.
2.2.2.4 Từ năm 1993 – nay
Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái nới lỏng lẻo và chính sách
tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng
việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn
và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan,
14


Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngồi khổng lồ. Các cơng ty nợ ngân hàng
trong nước, cịn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ
nợ đã xảy ra.Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu
bán ra chứng khốn của Hàn Quốc ở quy mơ lớn.
Khơng những vậy, Hàn Quốc cịn bảo hộ một số ngành bằng những rào cản
thương mại cao và một trong số đó trường hợp cịn áp dụng một cách tiếp cận xông
xáo để nâng cao công nghiệp thành các ngành sử dụng nhiều vốn. Hàn Quốc sử
dụng rất đa dạng các cơng cụ tài khóa và tài chính để tập trung nguồn lực phát triển

các ngành công nghiệp then chốt đã chọn lựa.
Trong những năm này, các ngành chất bán dẫn, ô tô, tàu, thiết bị viễn thông
không dây, thiết bị điện tử, gia dụng là những ngành mà Hàn Quốc có lợi thế so
sánh và khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Đây đều là những mặt
hàng xuất khẩu địi hỏi trình độ cơng nghệ cao, tiên tiến.
Sự phục hồi của Hàn Quốc sau cuộc khủng hoảng 1997 củng cố niềm tin toàn
cầu, và kết quả đầu tư nước ngồi tăng vọt. Ngày càng có ít mặt hàng bị áp thuế do
các hạn chế nhập khẩu tiếp tục được nới lỏng. Hàn Quốc tự do hóa các quy định đầu
tư nước ngoài đối với tất cả các lĩnh vực ngoại trừ an ninh quốc gia hoặc các ngành
cơng nghiệp văn hóa. Sự suy thối tồn cầu của giai đoạn 2001-02 gây ra lo ngại,
cũng như gia tăng căng thẳng với Triều Tiên
Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 , Hàn Quốc bắt tay vào chính sách
mới, tập trung vào nhu cầu giải quyết những bất cập trong nước và tăng cường tính
minh bạch, trách nhiệm giải trình, tính linh hoạt và khả năng cạnh tranh chung của
nền kinh tế thông qua liên tục tham gia hợp tác quốc tế, tập trung tồn cầu hóa do
thị trường thúc đẩy. và chuyển đổi sang nền kinh tế dựa trên tri thức.
Cho đến gần đây, Hàn Quốc vẫn là một trong số ít các nước thành viên WTO
khơng có bất kỳ FTA song phương hoặc khu vực nào. Sau thành công của các hiệp
định thương mại đa phương, Hàn Quốc hiện đang tham gia vào FTA từ năm 2003.
Với việc tham gia vào FTA, Hàn Quốc sẽ tiếp cận với các thị trường mới trên thế
giới. Các FTA làm giảm các chi phí như hàng rào thuế quan và phi thuế quan. FTA
làm tăng sự cạnh tranh và do đó nâng cao hiệu quả trên thị trường và tăng phúc lợi
người tiêu dùng bằng cách hạ giá hàng hóa nhập khẩu, cũng như đa dạng hóa sự lựa
chọn của người tiêu dùng. Các yếu tố khác như nhu cầu nội tại của Hàn Quốc như
phụ thuộc nhiều vào ngoại thương, nhu cầu đảm bảo thị trường xuất khẩu và tăng
tốc mở cửa và tái cơ cấu nền kinh tế Hàn Quốc cũng khen ngợi quyết định của Hàn
Quốc trong việc ký kết các FTA.Sẽ rất khó để đánh giá tác động của chúng đối với
nền kinh tế Hàn Quốc bởi vì các hiệp định này đã có hiệu lực gần đây và chúng ta
phải chờ các kinh nghiệm tương tự.
Mơ hình thương mại:

15


Ở giai đoạn này, Hàn Quốc có lợi thế về các mặt hàng chủ lực thâm dụng về
vốn, nên họ chun ơn hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm như: các ngành chất
bán dẫn, ô tô, tàu, thiết bị viễn thông không dây, thiết bị điện tử, gia dụng…..sang
các nước khác trên thế giới
2.2.3. Đánh giá sự phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc
Qua các giai đoạn phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc đã cho thấy Chính phủ
Hàn Quốc đã thực hiện các chính sách thương mại phù hợp góp phần vào tăng
trưởng kinh tế. Vào những năm 1960, nền kinh tế Hàn Quốc còn kém phát triển,
chính phủ Hàn Quốc đã huy động vốn bằng cách vay từ nước ngoài và tăng cường
xuất khẩu hàng cơng nghiệp nặng. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc đã hạn chế
nhập khẩu để tạo điều kiện cho sản xuất trong nước. Nhờ đó, Hàn Quốc đã có một
nguồn vốn cũng như môi trường kinh tế ổn định để tránh những cú sốc từ bên ngoài
và bên trong. Mặc dù từ năm 1960 đến trước năm 1997, chính phủ Hàn Quốc đã
thực hiện các chính sách bảo hộ mậu dịch nhưng mỗi thời kỳ lại khác nhau. Việc
bảo hộ xuất khẩu của Hàn Quốc không chỉ dừng lại ở các ngành cơng nghiệp nặng
mà cịn chuyển sang các ngành công nghiệp điện tử và công nghệ cao.
Sự ủng hộ đối với chính sách thương mại tự do đã giúp Hàn Quốc vượt qua
cuộc khủng hoảng năm 1997 và 2008. Cho đến năm 2018, với sự nhạy bén của
mình, chính phủ Hàn Quốc đã khéo léo đóng vai trị trung gian giữa hai nước. đồng
thời tìm kiếm thị trường mới tại các nước ASEAN và Nam Mỹ. Với những thực tế
đã được chứng minh, sự can thiệp của chính phủ Hàn Quốc vào chính sách thương
mại đã tạo nên kỳ tích tăng trưởng cho đất nước này.
Hàn Quốc đã đóng vai trị quan trọng trong việc lựa chọn mơ hình tăng trưởng
kinh tế và các chính sách kinh tế phù hợp trong từng thời kỳ để thúc đẩy phát triển
thương mại. Việc lựa chọn mơ hình và chính sách kinh tế là rất quan trọng. Sau khi
chiến tranh với Triều Tiên kết thúc, nền kinh tế Hàn Quốc vô cùng nghèo nàn và
phụ thuộc nhiều vào viện trợ. Trước tình hình đó, sự hồi sinh của nền kinh tế Hàn

Quốc phải bắt nguồn từ cơng nghiệp. Cơng nghiệp hóa đã giúp Hàn Quốc có cơ sở
vật chất - cơng nghệ để xây dựng nền kinh tế mới. Với chiến lược tăng trưởng nhờ
xuất khẩu hàng công nghiệp nặng, và sau đó là xuất khẩu điện tử, cơng nghệ đã tạo
cho Hàn Quốc như một trung tâm thương mại ở Đơng Bắc Á.Dưới ảnh hưởng của
tồn cầu hóa và khu vực hóa, chính phủ Hàn Quốc nhận thấy sự cần thiết phải lựa
chọn lại mơ hình tăng trưởng kinh tế cũng như chính sách thương mại. Kể từ năm
1997, Hàn Quốc đã theo đuổi mơ hình tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu. Tuy
nhiên, xuất khẩu của Hàn Quốc vào thời điểm đó tập trung vào hàng điện tử và ơ tơ.
Đặc biệt để theo đuổi mơ hình này, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện các biện pháp
kích thích kinh tế nhằm kích thích sản xuất và khuyến khích người tiêu dùng trong
nước.

16


Năm 2018, khi xung đột thương mại diễn ra, chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện
mơ hình tăng trưởng hướng tới các thị trường xuất khẩu tiềm năng với sự phát triển
của các ngành công nghiệp mới. Với triết lý kinh tế này, Hàn Quốc dần độc lập với
thương mại thế giới mà còn khai thác các thị trường mới và các ngành cơng nghiệp
mới.
Chính phủ Hàn Quốc ln nỗ lực hồn thiện các chính sách cơng cũng như
hồn thiện các quy định về hàng rào kỹ thuật thương mại để tạo điều kiện thúc đẩy
thương mại phát triển. Sau khủng hoảng kinh tế, Hàn Quốc đã thay đổi chính sách
thương mại và cải cách thuế nhằm góp phần tăng trưởng và thu hút thương mại và
đầu tư. Chính phủ đã và đang tiếp tục hỗ trợ một số doanh nghiệp lớn (đóng tàu, ơ
tơ, điện tử) có ngành nghề cạnh tranh và chiếm thị phần lớn trên thế giới. Hàn Quốc
cũng đã ưu tiên và lựa chọn 3 nhóm ngành làm động lực cho tăng trưởng bền vững
là công nghệ xanh, công nghiệp cao và dịch vụ giá trị gia tăng. Ngành này sẽ tạo ra
sự tăng trưởng và mở rộng thị trường xuất khẩu trong tương lai.
2.3. Singapore

2.3.1. Tổng quan về đất nước Singapore
2.3.1.1. Về địa lý
Singapore, tên chính thức là Cộng hịa Singapore, là một thành bang và đảo
quốc tại Đơng Nam Á. Đảo quốc nằm ngồi khơi mũi phía nam của bán đảo Mã Lai
và cách xích đạo 137 km về phía Bắc . Lãnh thổ Singapore gồm có một đảo chính
hình thoi, và khoảng 60 hịn đảo nhỏ hơn.
2.3.1.2. Về kinh tế
Singapore hầu như khơng có tài nguyên, nguyên liệu chủ yếu đều phải nhập từ
bên ngoài, hàng năm đều phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và nước ngọt để
đáp ứng nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, Singapore đã xây dựng được hệ thống cơ
sở hạ tầng và các ngành công nghiệp phát triển hàng đầu châu Á và trên thế giới
như: cảng biển, hệ thống giao thơng, cơng nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển, công
nghiệp lọc dầu, chế biến, điện tử và lắp ráp linh kiện...
Singapore có nền kinh tế thị trường tự do phát triển cao và rất thành công.
Người dân Singapore được hưởng một môi trường kinh tế mở cửa đa dạng, lành
mạnh và khơng tham nhũng, thu nhập bình quân đầu người vào hàng cao nhất thế
giới. Tuy nhiên, năm 2014 Singapore cũng được đưa vào danh sách 10 quốc gia đắt
đỏ nhất thế giới.
Singapore hiện là quốc gia đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri
thức với mục tiêu đến năm 2018 sẽ trở thành một thành phố hàng đầu thế giới, một
đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế toàn cầu và khu vực châu Á.
17


2.3.1.3. Về chính trị
Singapore là một nước cộng hịa nghị viện, có chính phủ nghị viện nhất viện
theo hệ thống Westminster đại diện cho các khu vực bầu cử. Hiến pháp của quốc
gia thiết lập hệ thống chính trị dân chủ đại diện.
Quyền hành pháp thuộc về Nội các Singapore, do Thủ tướng lãnh đạo, và ở
một mức độ thấp hơn rất nhiều là Tổng thống.

Quốc hội đóng vai trị là nhánh lập pháp của chính phủ. Các thành viên của
Quốc hội gồm có các thành viên đắc cử, phi tuyển khu và được chỉ định.
Hệ thống tư pháp của Singapore dựa trên thơng luật Anh, song có các khác
biệt địa phương đáng kể. Việc bồi thẩm đoàn xử án bị bãi bỏ vào năm 1970, các
phán quyết tư pháp sẽ hoàn toàn nằm trong tay các thẩm phán được chỉ định.
2.3.1.4. Về văn hóa
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của Singapore là cơ cấu dân số đa
dạng gồm nhiều chủng tộc nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi và những thành tựu thương
mại của đất nước.
Bị lôi cuốn bởi viễn cảnh tương lai tươi đẹp, những người nhập cư đã mang
theo những nét riêng về văn hóa, ngơn ngữ, phong tục tập qn và các lễ hội của
mình đến Singapore. Các cuộc kết hơn chéo và sự chung sống hòa hợp giữa các dân
tộc đã dệt nên một bức tranh văn hóa đầy màu sắc, hình thành một xã hội Singapore
đa dạng và mang lại cho đảo quốc này một di sản văn hóa phong phú đầy sức sống.
Cho đến cuối thế kỉ 19, Singapore đã trở thành một trong những thành phố đa chủng
tộc – đa văn hóa nhất của châu Á với các dân tộc chủ yếu là người Hoa, người Mã
Lai, người Ấn, người Peranakan và những người Á Âu.
2.3.1.5. Về tôn giáo
Phật giáo là tôn giáo được thực hành phổ biến nhất tại Singapore, với 33% số
cư dân tuyên bố bản thân họ là tín đồ đạo Phật trong cuộc điều tra dân số gần đây
nhất. Tôn giáo được thực hành phổ biến thứ nhì là Ki-tơ giáo, sau đó là Hồi giáo,
Đạo giáo, và Ấn Độ giáo. 17% dân số không gia nhập tơn giáo nào. Tỷ lệ tín đồ Kitơ giáo, Đạo giáo, và người không tôn giáo tăng trong khoảng thời gian giữa năm
2000 và 2010, mỗi nhóm tăng 3%, trong khi tỷ lệ tín đồ Phật giáo thì giảm xuống.
Các đức tin khác vẫn ổn định trên quy mơ lớn về tỷ lệ dân số.
2.3.2.Mơ hình tăng trưởng của Singapore
2.3.2.1.Giai đoạn 1959 đến 1965
Sau khi đạt được quyền tự trị vào năm 1959, Singapore đã phải chịu đựng tình
trạng nghèo đói trầm trọng và tình trạng thất nghiệp triền miên của dân số kém học.
Các hoạt động kinh tế truyền thống của Singapore - thương mại trung chuyển và các
dịch vụ hỗ trợ liên quan và các ngành công nghiệp chế biến - đã suy giảm do sự

18



×