BÀI GIẢNG
PHẨM CHẤT VÀ PHONG CÁCH NGƯỜI LÃNH ĐAO QUẢN LÝ
Soạn giảng: TS. Lê Văn Đính
KẾT CẤU:
I. Phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý
1. Khái niệm
2. Những nội dung cấu thành phẩm chất cơ bản của người LĐ, QL
- Phẩm chất chính trị
- Phẩm chất đạo đức
- Phẩm chất tâm lý
- Phẩm chất năng lực
3. Phẩm chất của người LĐ, QL cách mạng
II. Phong cách người lãnh đạo, quản lý
1. Khái niệm
2. Những đặc trưng cơ bản của phong cách LĐ, QL
3. Những yếu tố hình thành phong cách LĐ, QL của người cán bộ
4. Một số (kiểu) phong cách LĐ,QL cơ bản
- Phong cách độc đoán, mệnh lệnh
- Phong cách chung sức, dân chủ
- Phong cách ủy thác, tự do
5. 5.Các tình huống cụ thể cần chú ý khi lựa chon kiểu phong cách LĐ, QL:
III. Xây dựng phẩm chất và phong cách lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ
ở nước ta hiện nay
1. Thực trạng
2. Một số yêu cầu đặt ra
1
Đặt vấn đề:
*Chỉ 2 năm sau khi giành được chính quyền; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10 - 1947, ký tên là XYZ). Khi đó, bộ máy
chính quyền của chúng ta có nhiệm vụ chủ yếu là tập trung sức cho sự nghiệp
kháng chiến giải phóng dân tộc.
Nhưng với tầm nhìn xa, thấu hiểu những vấn đề có quan hệ cốt tử với chính
quyền cách mạng, Người đã viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" nhằm xây dựng
và bồi dưỡng ý thức chính trị, phong cách làm việc của những người cán bộ, để họ
hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Ngày nay đọc
lại tác phẩm này, chúng ta vẫn thấy nguyên vẹn giá trị to lớn của nó, nhất là đối với
việc xây dựng và giữ gìn chính quyền cách mạng của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Các nội dung cơ bản của tác phẩm là:
1.Phê bình và sửa chữa
2.Mấy điều kinh nghiệm
3.Tư cách và đạo đức cách mạng
4.Vấn đề cán bộ
5.Cách lãnh đạo
6.Chống thói ba hoa
*Một trong những bài học thành công trong 80 năm xây dựng và trưởng
thành của Đảng Cộng sản Việt Nam là trong giai đoạn cách mạng mới là Đảng
luôn coi trọng việc “rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng…”
1
và xây dựng
“phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”
2
1
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 285 - 286
2
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG, Hà Nội 2006,tr 293
2
NỘI DUNG:
I. PHẨM CHẤT CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1. Khái niệm
* Phẩm: tư cách; Chất: tính chất – là những giá trị và tính chất tốt đẹp của
con người hay vật (như phẩm chất của người thầy giáo, phẩm chất cách mạng )
3
*Phẩm chất là những đặc trưng cơ bản cần có ở người lãnh đạo quản lý –
bao gồm phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức
4
…
- Là tổng hòa các yếu tố thuộc nhân cách của người lãnh đạo quản lý được
hình thành được hình thành trong quá trình hoạt động và giao tiếp của con người
(thông qua hoạt động thực tiễn)
*Tóm lại Phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý là toàn bộ những đặc
trưng cơ bản cần có ở người lãnh đạo quản lý – bao gồm phẩm chất chính trị,
phẩm chất đạo đức, phẩm chất tâm lý…- tạo nên giá trị địa vị xã hội của họ
nhằm đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý của mình
2. Những nội dung cấu thành phẩm chất cơ bản của người LĐ, QL:
2.1. Phẩm chất chính trị: Chính trị tư tưởng là linh hồn của người lãnh đạo,
nó thể hiện ý thức, lập trường và khuynh hướng hoạt động chính trị của người
LĐ,QL và được biểu hiện ở lý tưởng, thế giới quan, niềm tin, lập trường chính trị
2.2. Phẩm chất đạo đức: là những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức chung
cần có đối với người LĐ, QL; bao gồm những giá trị đạo đức của nhân loại, dân
tộc, giai cấp
*Đạo đức của người LĐ, QL được thể hiện ở những khía cạnh: Trong xử thế
với người bị lãnh đạo, quản lý; trong công việc, trong xử thế với môi trường tự
nhiên, xã hội
Những yêu cầu về đạo đức của người lãnh đạo quan lý trong xử thế với
người bị lãnh đạo là: Khách quan, công bằng, không thiên vị; Chân thành; Khiêm
tốn, tôn trọng mọi người; Chính trực, quang minh chính đại; Nhất quán; Trung
thực; Gương mẫu; Phóng khoáng, cởi mở; Khoan dung; Tế nhị, lịch thiệp
3
Nguyễn Như Ý (chủ biên). Đại Tự điển Tiếng Việt. Nxb VH – TT 1999, tra 1323.
4
Đề cương chuyên đề số 084.
3
Những yêu cầu về đạo đức của người lãnh đạo quan lý trong xử thế với
công việc là: Nhiệt tình, có lương tâm nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm, có
bản lĩnh, có sáng kiến và sáng tạo, có ý thức phối hợp, hợp tác vì mục tiêu chung…
Những yêu cầu về đạo đức của người lãnh đạo quan lý trong xử thế với
công việc là: Thân thiện với môi trường; không gây ô nhiễm môi trường, sử dụng
hợp lý tài nguyên
2.3.Phẩm chất tâm lý: Phẩm chất tâm lý của người lãnh đạo, quản lý được
thể hiện ở 4 thuộc tính tâm lý trong cấu trúc tâm lý chủ thể: Xu hướng, năng lực,
tính cách, tính khí.
- Xu hướng: . Là chiều hướng hoạt động và phát triển của con người:nhu cầu, hứng
thú, thế giới quan, lý tưởng và niềm tin
- Năng lực: Là khả năng hoạt động có kết quả, bao gòm năng lực chung (năng lực
nhận thức – trí tuệ , năng lực dự báo), năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức(khả năng
lôi cuốn, tập hợp)
-Tính cách: là một thuộc tính tâm lý biểu lộ thái độ của người lãnh đạo, quản lý
trong ứng xử với các mối quan hệ xã hội thông qua hệ thống hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ….
Ví dụ: Với xã hội: lòng yêu nước, thái độ chính trị; Với công việc: lòng say mê,
tính kỷ luật; Với mọi người: tính tôn trọng, hợp tác, cởi mở; Với bản thân: tính khiêm
tốn, lòng tự trọng.
-Tính khí: Là sắc thái hành vi cá nhân (Mạnh - Yếu; Nhanh - Chậm; Cân
bằng - Linh hoạt) về các phản ứng tâm lý của chủ thể (có 4 loại tính khí: tính nóng,
tính linh hoạt, tính trầm (điềm đạm), tính thầm lặng ưu tư)
Nếu tính cách biểu lộ thái độ, ý chí của người LĐ, QL qua hành vi, ngôn
ngữ, cử chỉ…thì tính khí biểu lộ qua hành vi, ngôn ngữ, cử chỉ bằng các sắc thái.
Nếu tính cách thể hiện mặt xã hội của cá nhân; thì tính khí phản ánh cấu trúc tâm,
sinh lý “tự nhiên” trong các hoạt động và các mối quan hệ xã hội của chủ thể. Tính
khí chịu sự quy định của cơ chế sinh học trong cấu tạo các kiểu hoạt động thần
kinh cấp cao, do đó, sự hình thành các tố chất trong tâm lý của người lãnh đạo,
quản lý cũng chịu sự ảnh hưởng của bốn kiểu phản ánh tâm lý của tính khí (Nóng
nảy; Hoạt bát; Điềm đạm; Ưu tư…)
2.4.Phẩm chất năng lực
4
3. Phẩm chất của người LĐ, QL cách mạng:
3.1. Về phẩm chất chính trị:
Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường của của giai cấp
công nhân; tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; biết đặt lợi ích của dân tộc, của Đảng, của giai
cấp lên trên hết. Mọi suy nghĩ và hành động của họ không được vi phạm cũng như
đi ngược lại mục tiêu nói trên.
3.2.Phẩm chất đạo đức:
-Gương mẫu về đạo đức, lối sống; có tinh thần phê bình và tự phê bình
nghiêm túc khi mắc phảỉ sai lầm, khuyết điểm; công bằng, không tham lam vụ lợi;
có lối sống giản dị, có khả năng giao tiếp và tạo mối quan hệ tốt với mọi người;
biết lắng nghe ý kiến của người khác, có lòng tin vào chính bản thân mình; có khả
năng tự kiểm tra bản thân, khả năng giữ gìn và bảo vệ uy tín của mình;
-Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam và cán bộ LĐ,
QL cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là : Trung với nước, hiếu với dân; Yêu
thương con người; Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; Tinh thần quốc tế trong
sáng.
3.3.Phẩm chất tâm lý:
- Có tình cảm cách mạng: Yêu thương con người; sống có tình, có nghĩa;
“cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”; có tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.
-Có tinh thần cách mạng sáng tạo, tinh thần dân chủ và tính quyết đoán
chính trị với tinh thần trách nhiệm cao mà không độc đoán.
- Có tài tổ chức, quản lý, điều hành công việc, thực hiện mục tiêu chính trị
đã đề ra; nhạy cảm, năng động với cái mới và có khả năng xử lý các mối quan hệ,
có nghệ thuật lãnh đạo; có khả năng cổ vũ, động viên mọi người làm việc; tận tụy,
toàn tâm toàn ý với công việc; có khả năng giải quyết mọi vấn đề một cách sáng
tạo.
3.4.Phẩm chất năng lực:
- Có trình độ hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực; có trình độ trí tuệ, có tư duy
khoa học; nắm vững được quy luật phát triển theo hướng vận động của quá trình
chính trị; có khả năng dự báo, tiên đoán tình hình, làm chủ được khoa học và nghệ
thuật lãnh đạo, quản lý.
- Có tinh thần cầu tiến, không ngừng học tập, bồi dưỡng để có kiến thức
chuyên sâu và mới nhất về lãnh đạo, quản lý cả lý luận và thực tiễn
-Có tính sáng tạo cao trong công việc; có tầm nhìn xa trông rộng, là người
có khả năng quyết đoán chính xác, kịp thời và dám chịu trách nhiệm.
5
II.PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO
Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý - phong cách lãnh đạo, quản lý có mối
quan hệ biện chứng với các phương pháp lãnh đạo, quản lý về quan điểm, mục
tiêu, tính chất, đặc điểm và tác phong làm việc của chủ thể lãnh đạo, đồng thời,
phong cách lãnh đạo lại do chính tâm lý người lãnh đạo, quản lý lựa chọn, xây
dựng nên. Nó không chỉ phụ thuộc vào nhân tố tâm lý chủ quan của người lãnh
đạo, quản lý mà còn phụ thuộc vào đặc điểm tâm lý của cá nhân và tập thể dưới
quyền, vào thái độ, hành vi của họ và vào một số nhân tố khách quan khác: Môi
trường và điều kiện kinh tế – xã hội; Tính chất, đặc điểm của lĩnh vực hoạt động
chủ đạo
1.Khái niệm
*Từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn lãnh đạo quản lý, khái niệm phong
cách lãnh đạo thường được hiểu theo các góc độ sau:
- Phong cách lãnh đạo là cách thức làm việc của nhà lãnh đạo; là hệ thống
các dấu hiệu đặc trưng của hoạt động quản lý của nhà lãnh đạo, được quy định
bởi các đặc điểm nhân cách của họ.
-Phong cách lãnh đạo của một cá nhân là dạng hành vi của người đó thể
hiện các nỗ lực ảnh hưởng tới hoạt động của những người khác.
- Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và sự kiện
và được biểu hiện bằng công thức: Phong cách lãnh đạo = cá tính x môi trường.
-Phong cách lãnh đạo, quản lý là tổng thể những phương pháp, biện pháp
tác động, lối ứng xử được lặp đi, lặp lại và trở thành ổn định, tạo nên một kiểu
cách hoạt động riêng, đặc thù mà người lãnh đạo thường xử dụng nhằm thực hiện
có hiệu quả chức năng lãnh đạo, quản lý
5
.
-Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo là tổng hợp những phương pháp,
biện pháp, cách thức riêng có, tiêu biểu, ổn định mà người lãnh đạo sử dụng hàng ngày
để thực hiện nhiệm vụ của mình
6
*Nhìn chung những định nghĩa trên đã đề cập và phản ánh khá rõ nhiều mặt,
nhiều đặc trưng khác nhau của phong cách lãnh đạo. Tuy nhiên phần lớn các định
nghĩa chỉ nhấn mạnh đến mặt chủ quan, mặt cá tính của chủ thể lãnh đạo chứ chưa
đề cập, xem xét phong cách lãnh đạo như một kiểu hoạt động - mà kiểu hoạt động
đó được diễn ra như thế nào còn phụ thuộc vào yếu tố môi trường xã hội trong đó
có sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng, của nền văn hoá
Như vậy chúng ta có thể định nghĩa phong cách lãnh đạo như sau: Phong
cách lãnh đạo là kiểu hoạt động đặc thù của người lãnh đạo được hình thành
trên cơ sở kết hợp chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng giữa yếu tố tâm lý
5
TS. Vũ Anh Tuấn. Bài giảng Tâm lý lãnh đạo quản lý. Học viện CT – QG Hồ Chí Minh
6
Học viện CT – QG Hồ Chí Minh. Khoa Xây dựng Đảng. Giáo trình Xây dựng Đẩng. Nxb CTQG, Hà Nội 1993
6
chủ quan của người lãnh đạo và yếu tố môi trường xã hội trong hệ thống quản
lý
2. Những đặc trưng của PCLĐ, QL:
- PCLĐ một nhân tố quan trọng trong hoạt động của người quản lý, lãnh
đạo; nó gắn liền với nghệ thuật lãnh đạo, quản lý con người (không chỉ thể hiện về
mặt khoa học tổ chức lãnh đạo; quản lý mà còn thể hiện nghệ thuật điều khiển, tác
động người khác của người lãnh đạo).
-Phong cách lãnh đạo là tấm gương phản ánh phẩm chất bên trong của
người LĐ, QL và nó được biểu hiện trong hành động bằng những cử chỉ, hành vi
trong thực thi nhiệm vụ, trong đối nhân xử thế:
- Phong cách lãnh đạo, quản lý có mối quan hệ biện chứng với các phương
pháp lãnh đạo, quản lý về quan điểm, mục tiêu, tính chất, đặc điểm và tác phong
làm việc của chủ thể lãnh đạo: Phương pháp lãnh đạo là bộ phận cấu thành của
phong cách lãnh đạo – đó là biện chứng giữa cái chung và cái riêng (phong cách
làm việc – cái chung, đều được thể hiện thông qua các biện pháp, cách thức làm
việc – cái riêng). Phương pháp, cách thức làm việc phản ánh phong cách làm việc
riêng có của mỗi người lãnh đạo
Tuy nhiên, không nên đồng nhất phong cách LĐ, QL với phương pháp, cách
thức lãnh đạo (ví dụ: đi cơ sở, tiếp xúc quần chúng là một cách thức, biện pháp mà
mọi cán bộ lãnh đạo đều sử dụng; nhưng tùy theo nhân cách, phẩm chất chính trị -
đạo đức, trí tuệ và năng lực thực tiễn của mỗi người sẽ hình thành phong cách làm
việc ở cơ sở riêng có của mỗi người lãnh đạo
-PCLĐ không chỉ phụ thuộc vào nhân tố tâm lý chủ quan của người lãnh
đạo, quản lý (chức năng, nhiệm vụ, nhân cách, phẩm chất, tri thức…); mà còn phụ
thuộc vào đặc điểm tâm lý của cá nhân và tập thể dưới quyền, vào thái độ, hành vi
của họ và vào một số nhân tố khách quan khác: Môi trường và điều kiện kinh tế –
xã hội; Tính chất, đặc điểm của lĩnh vực hoạt động chủ đạo
3. Những yếu tố hình thành phong cách LĐ, QL của người cán bộ
Phong cách lãnh đạo của người cán bộ LĐ, QL là sản phẩm tổng hợp của
nhiều yếu tố:
3.1.Phẩm chất chính trị đạo đức: Đây là yếu tố gốc, yếu tố nền tảng để hình
thành và phát triển phong cách LĐ, QL khoa học (như Trung thành với lợi ích giai
cấp, dân tộc; một lòng một dạ phục vụ nhân dân; Gần gủi với nhân dân, sâu sát cơ
sở; Đoàn kết, khiêm tốn, cầu thị, vị tha, khoan dung; Không gia trưởng, độc đoán,
chuyên quyền với cấp dưới và xun xoe, nịnh hót cấp trên)
3.2.Tri thức: Là cơ sở quan trọng để hình thành phong cách LĐ, QL khoa
học, là “chìa khóa” để người lãnh đạo, quản lý tiếp cận những tri thức lý luận,
kinh nghiệm về phong cách LĐ, QL (đó là những kiến thức về chính trị - dân chủ,
7
quyên lực, nhân quyền…- ; tâm lý học lãnh đạo quản lí; Khoa học quản lý; Văn
hóa học…)
Nếu không am hiểu kiến thức; không am hiểu và thành thạo công việc; chỉ
dự vào kinh nghiệm, áp đặt giáo điều, dập khuôn máy móc, bảo thủ trì trệ, hoặc
nhảy sang cực khác là hành động tùy tiện vô nguyên tắc
3.3.Tính cách, Khí chất: Đây là yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành phong
cách làm việc, lãnh đạo của người cán bộ
Thông thường người cán bộ có khí chất trầm, điềm đạm…thì phong cách
làm việc hường thận trọng, chắc chắn, sâu sắc, ít nóng nảy trong công việc. Ngược
lại; người cán bộ có khí chất nóng thường thẳng thắng, trung thực, ứng phó nhanh
nhạy, nhưng độ chắc chắn, bền vững là hạn chế. Do vậy, tổ chức và bản thân người
cán bộ phải thấy được mình và cán bộ dưới quyền ở dạng khí chất nào để có
phương pháp rèn luyện thích hợp
3.4.Cơ chế chính sách: Đây là yếu tố bên ngoài, nhưng tác động rất quan
trọng tới việc hình thành phong cách làm việc của người cán bộ LĐ,QL.
-Cơ chế “tập trung quan liêu bao cấp” sản sinh ra những cán bộ thụ động,
trông chờ ỷ lại “đập đi, hò đứng” nó triệt tiêu năng lực sáng tạo của cán bộ
-Cơ chế kinh tế thị trường, hạch toán kinh doanh XHCN nuôi dưỡng và phát
triển phong cách làm việc, năng động sáng tạo, sâu sát cơ sở, bám sát nhu cầu thị
trường; loại bỏ lối làm ăn giả dối, chụp dật, phô trương hình thức
3.5. Ngoài 4 yếu tố trên thì quá trình rèn luyện, phấn đấu của mỗi cá
nhân và sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lơi của tổ chức cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành phong cách lãnh đạo, quản lý
4. Một số (kiểu) phong cách lãnh đạo, quản lý cơ bản:
* phong cách lãnh đạo, quản lý qua các công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học
+Một số nhà nghiên cứu cho rằng có ba phong cách lãnh đạo cơ bản là:
-Lãnh đạo trực tiếp (Directing);
-Lãnh đạo dựa trên nền tảng của sự trao đổi, thảo luận (Discussing)
-Lãnh đạo ủy thác (Delegating).
Ba phong cách này theo tiếng Anh đều bắt đầu bằng chữ cái D nên còn
được gọi là “Phong cách lãnh đạo 3-Ds” (The 3-Ds of Management Style).
+Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng có ba phong cách lãnh đạo cơ bản
là:
- Phong cách độc đoán
8
- Phong cách dân chủ
- Phong cách tự do
4.1.Phong cách độc đoán, chuyên quyền, mệnh lệnh (Authoritarian, Autocractic):
*Phong cách này dựa trên uy quyền tổ chức hay uy tín vượt trội của cá nhân
lãnh đạo và đòi hỏi sự phục tùng, không hoài nghi của cấp dưới – nó thường mang
nặng yếu tố mệnh lệnh, áp đặt chủ quan của người lãnh đạo đó.
Người lãnh đạo thường lấy mình làm chuẩn – là trung tâm, đồng thời là người có
“quyền hành cao nhất”. Khi ra quyết định và giải quyết công việc thường ít tiếp thu ý
kiến của người khác, thiên về ý chí và nhận thức chủ quan hơn là tình cảm.
*Ưu thế của phong cách độc đoán phản ánh tâm lý người lãnh đạo, quản lý là tính
quyết đoán và tính trách nhiệm cao, ra quyết định, ban hành và tổ chức thực hiện quyết
định nhanh, có tính cập nhật, có “tinh thần dám làm, dám chịu”, khắc phục được tính
chần trừ, do dự, sợ trách nhiệm cá nhân trong việc ban hành quyết định trong những
trường hợp cần thiết…Đối với người lãnh đạo có uy tín - đủ đức, tài: biết lựa chọn và xử
dụng phong cách độc đoán là thiết thực và có hiệu quả đối với hoạt động lãnh đạo, quản
lý hiện nay.
*Nhược điểm: Nhiều khi dễ bị lạm dụng để biện hộ cho tính gia trưởng; Hiệu quả
làm việc cao khi có mặt lãnh đạo, thấp khi không có mặt lãnh đạo.
4.2. Phong cách lãnh đạo chung sức (dân chủ) – Participative (Democratic):
-Phong cách này phản ánh tâm lý người lãnh đạo, quản lý là tính cầu thị,
biết lắng nghe, biết tôn trọng người khác, tạo điều kiện để mọi người đều được
tham gia vào quá trình ra quyết định.
-Ưu điểm: Tranh thủ và phát huy được trí tuệ và sức mạnh của tập thể, số
đông. Tạo được bầu không khí tâm lý đồng thuận, đoàn kết, cởi mở, nhờ đó, uy tín
chủ thể lãnh đạo thường được củng cố bền vững, được sự tín nhiệm cao của cấp
dưới. Năng suất cao, kể cả không có mặt của lãnh đạo.
-Tuy nhiên; Lãnh đạo, quản lý theo phong cách dân chủ; đòi hỏi người lãnh đạo,
quản lý cần chú ý khẳng định tính quyết đoán cao và vai trò trách nhiệm cá nhân; đồng
thời cần chú ý đến đặc điểm tâm lý cá nhân và tập thể dưới quyền; trình độ chuyên môn,
văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ của họ và các nhân tố khác - nhằm khắc phục nét hạn
chế trong sử dụng thuần tuý phong cách lãnh đạo “kiểu” dân chủ.
4.3. Phong cách lãnh đạo ủy thác, tự do (Delegative– Free reign): Hướng tới sự ủy
9
quyền tối đa cho cấp dưới, khuyến khích tối đa tính tích cực chủ động của cấp dưới ; ý
kiến lãnh đạo chỉ mang tính định hướng chung, tùy biến vào kết quả giao tiếp hàng
ngang của cấp dưới “Dĩ bất biến ứng van biến”
-Ưu thế: Khắc phục được những khoảng cách tâm lý bởi quan hệ kiểu “thứ bậc”
với tính trật tự tổ chức theo trên dưới (thủ trưởng và nhân viên); phát huy tối đa tính cởi
mở, dân chủ, nhờ đó chủ thể lãnh đạo, quản lý kích thích và khai thác hữu hiệu tiềm năng
sáng tạo và sức cống hiến trong lao động của cấp dưới.
-Tuy nhiên; phong cách này nên sử dụng đối với những tập thể, nhân viên có
tính kỷ luật và tự giác cao, nó sẽ khích lệ tốt năng xuất, chất lượng lao động trong
họ và ngược lại, sẽ dẫn đến tình trạng vô tổ chức, thiếu tính kỷ luật, dân chủ quá
trớn khi người lãnh đạo sử dụng phong cách lãnh đạo “kiểu” tự do không tương
xứng với đối tượng quản lý (và năng suất sẽ thấp, khi người lãnh đạo vắng mặt
thường xuyên).
Tóm lại: Người lãnh đạo, quản lý cần chú ý và biết kết hợp hài hoà giữa
phong cách Lãnh đạo, quản lý khác nhau tương thích với từng tình huống,
từng đối tượng trong một quá trình lãnh đạo, quản lý
7
.
Qua phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng việc áp dụng một kiểu phong
cách lãnh đạo nào đó vào trong hoạt động LĐ,QL không đơn giản, việc áp dụng
nguyên bản một kiểu phong cách nào đó vào trong thực tiễn LĐ, QL mà đòi hỏi
người quản trị phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo để tìm ra kiểu phong
cách lãnh đạo thích hợp tuỳ vào những điều kiện, tình huống cụ thể của đơn vị, cơ
quan.
Một phong cách lãnh đạo, quản lý phù hợp với các đặc điểm “đặc thù” của
Việt Nam sẽ là phong cách lãnh đạo mà ở đó người lãnh đạo phải có tính quyết
đoán thể hiện qua các phẩm chất dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tự tin,
ra được những quyết định kịp thời trong những tình huống khó khăn. Bên cạnh đó
người lãnh đạo tạo ra được nhiều những điều kiện thuận lợi để cấp dưới phát huy
hết năng lực, trí lực, óc sáng tạo, lòng nhiệt tình vào công việc, có hệ thống chế độ
đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật kịp thời thích đáng nhằm động viên người lao động
phát huy mọi tiềm năng, ổn định tinh thần và đảm bảo được cuộc sống.
Các luồng thông tin trong quản lý phải luôn được đảm bảo theo các kênh từ
trên xuống dưới, từ cấp dưới lên trên. Và một đặc điểm quan trọng trong phong
cách quản lý này đó là phải tính tới những đặc điểm dân tộc, đạo đức, văn hoá của
người Việt Nam.
Như vậy có thể nói rằng một phong cách lãnh đạo, quản lý tốt là một sản
phẩm mang tính trí tuệ cao của người lãnh đạo, thể hiện sự nhuần nhuyễn trong
7
10
cách sử dụng các phong cách lãnh đạo khác nhau vào các tình huống khác nhau
đồng thời nó phù hợp với các đặc điểm văn hóa Việt Nam.
5.Các tình huống cụ thể cần chú ý khi lựa chon kiểu phong cách LĐ, QL:
5.1. Theo thâm niên công tác
- Sử dụng phong cách lãnh đạo độc đoán đối với các nhân viên mới, những người
còn đang trong giai đoạn học việc.
- Nhà lãnh đạo sẽ là một huấn luyện viên tốt với đầy đủ năng lực và trình độ.
Nhờ đó, nhân viên sẽ được động viên để học hỏi những kỹ năng mới. Đây sẽ là
một môi trường hoàn toàn mới dành cho các nhân viên.
5.2. Theo các giai đoạn phát triển của tập thể
- Giai đoạn bắt đầu hình thành: Là giai đoạn tập thể chưa ổn định, mọi thành viên
thường chỉ thực hiện công việc được giao theo nhiệm vụ, nhà lãnh đạo nên sử
dụng phong cách độc đoán.
- Giai đoạn tương đối ổn định: Khi các thành viên chưa có sự thống nhất, tự giác
trong hoạt động, tính tích cực, sự đoàn kết chưa cao, nên dùng kiểu lãnh đạo mềm
dẻo, linh hoạt.
- Giai đoạn tập thể phát triển cao: Tập thể có bầu không khí tốt đẹp, có tinh thần
đoàn kết, có khả năng tự quản, tự giác cao, nên dùng kiểu dân chủ hoặc tự do.
5.3 Dựa vào tính khí của nhân viên:
- Đối với tính khí sôi nổi – nóng nảy?.
- Đối với tính khí trầm tư – nhút nhát?.
5.4. Dựa vào giới tính:
5.5. Theo trình độ của nhân viên:
- Sử dụng phong cách lãnh đạo uỷ thác đối với các nhân viên hiểu rõ về công việc
hơn chính bản thân nhà lãnh đạo.
- Nhà lãnh đạo không thể ôm đồm tất cả mọi thứ! Các nhân viên cần làm chủ công
việc của họ.
- Cũng như vậy, trường hợp này sẽ giúp nhà lãnh đạo có điều kiện để làm những công
việc khác cần thiết hơn.
5.6. Dựa theo tuổi:
- Nên dùng kiểu lãnh đạo tự do đối với người hơn tuổi.
- Trái lại đối với người nhỏ tuổi thì dùng kiểu độc đoán.
5.7 Cần độc đoán với:
- Những người ưa chống đối
- Không có tính tự chủ.
- Thiếu nghị lực
11
- Kém tính sáng tạo
5.8. Cần dân chủ với
- Những người có tính thần hợp tác.
- Có lối sống tập thể.
III. XÂY DỰNG PHẨM CHẤT VÀ PHONG CÁCH LĐ,QL CHO ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.Thực trạng:
1.1.Về Phẩm chất
1.2.Về Phong cách
(Xem tư liệu các Văn kiện của Đảng)
2.Những yêu cầu đặt ra
2.1. Đối với phong cách lãnh đạo, quản lý:
Mỗi cán bộ LĐ, QL sẽ có một phong cách LĐ, QL mang sắc thái riêng; tuy
nhiên chúng cũng cần đảm bảo các những đặc trưng chủ yếu sau:
*Đó là sự thống nhất giữa tính Đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng
động, sắng tạo, sự nhạy cảm với cái mới:
-Phẩm chất hàng đầu của người cán bộ lãnh đạo, quản lý là trung thành với
lý tưởng cách mạng của Đảng, trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động – nghĩa là làm một việc gì, trong điều kiện hoàn cảnh nào cũng
phải xuất phát từ quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, phải đặt lợi ích của cách mạng, tổ quốc và của nhân dân lên trên hết
-Tuy nhiên trong quá trình thực thi nhiệm vụ; đồng thời với việc giữ vững
quan điểm lập trường, tính nguyên tắc, thì người cán bộ lãnh đạo cần chủ động,
sáng tạo, nhanh nhạy với sự phát triển mới của tình hình để tìm chọn giải pháp tối
ưu , phù hơp với điều kiện, không gian, thời gian và đối tượng cụ thể
*Sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng với tính trung thực, khách
quan, khoa học
-Nhiệt tình cách mạng là yếu tố cơ bản của người cán bộ lãnh đạo – đó là
lòng yêu nước thương dân; say mê, tận tụy, trăn trở với công việc
-Song, nhiệt tình cách mạng chỉ đem lại hiệu quả thiết thực cho cuộc sống
của nhân dân khi nó thống nhất với tính trung thực, tôn trọng quy luật khách quan
– phải đứng trên quan điểm toàn diện, lịch sử - cụ thể và phát triển …để có những
quyết định chính xác, tối ưu (xem xét yếu tố bên trong – bên ngoài, trước mắt – lâu
dài, hiệu quả công việc; tránh chủ quan, nóng vội)
12
-Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu tri thức
khoa học – nhiệt tình cách mạng của người cán bộ chỉ đem lại hiệu quả cao khi họ
có tri thức, am hiểu công việc, tinh thông nghiệp vụ theo cương vị mình phụ trách
“Nhiệt tình cộng với dốt nát bằng đại phá hoại”
*Sự thống nhất giữa cách làm việc dân chủ, tập thể với tính quyết đoán và
tinh thần trách nhiệm cá nhân cao
-Phong cách làm việc tập thể, dân chủ là yêu cầu không thể thiếu với người
cán bộ lãnh đạo – nghĩa là phải biết khơi dậy và thực hiện phong cách làm việc dân
chủ, khai thác được trí tuệ sáng tạo trong các tập thể lãnh đạo và quảng đại quần
chúng (Không được lợi dụng danh nghĩa tập thể để thực hiện những mưu đồ cá
nhân);
-Tuy nhiên; nếu chỉ có ý thức tập thể cao, phát huy trí tuệ của tập thể, biết
tạo bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của tập thể …
nhưng không có tính quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập
thể, thì không thể có những quyết định kịp thời đáp ứng yêu cầu cuộc sống đòi hỏi
và công việc cũng không thể tiến triển được
- Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã nêu tấm gương sáng ngời về về cách
làm việc dân chủ, lắng nghe ý kiến tập thể; nhưng Người cũng dám chịu trách
nhiệm cá nhân trước tập thể “trước quốc dân đồng bào” để đưa ra những quyết
định đúng. Lê - nin cũng đã nhiều lần phê phán hiện tượng “thái quá” về tính tập
thể, nặng về bàn cãi suông dẫn đến tình trạng “nhiều sãi không ai đóng cử chùa”
*Sự thống nhất giữa nhận thức và hoạt động thực tiễn, lời nói đi đôi với
việc làm:
-Tránh hiện tượng “nói hay nhưng làm dỡ, nói nhiều nhưng làm ít, nói mà
không làm, hoặc nói một đằng làm một nẻo” (“Ăn như rồng cuốn, uống như rồng
leo, làm như mèo mửa”; “mồm miệng đỡ chân tay” “vụng chèo khéo chống”)– làm
phai mờ niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, sự hoài nghi về thanh
danh và uy tín của cán bộ lãnh đạo của Đảng
-Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Xem xét cán bộ không chỉ xem xét ngoài mặt
mà còn phải xét tính chất của họ. Không chỉ xem xét một việc, một lúc mà phải
xem toàn bộ lịch sử, toàn cả công việc của họ”
Nghị quyết của Đảng: “Phải lấy hiệu quả thực hiện nhệm vụ chính trị làm
thước đo phẩm chất và năng lực”
*Sâu sát cơ sở, thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân
-Yêu cầu này xuất phát từ mối liên hệ bản chất giữa Đảng Cộng sản với
quần chúng nhân dân – để thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân;
kiểm nghiệm sự sai đúng của chủ trương, chính sách trong cuộc sống để cớ cơ sở
13
khoa học hoạc định những chủ trương mới, mới thấy được nhân tố mới, điển hình
tiên tiển để ủng hộ và nhân rộng
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: ‘Cán bộ là những người đem chủ trương chính
sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
dem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt
chính sách cho đúng”
8
. Người yêu cầu: “Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện, các
xã.Cán bộ huyện phải đến các xã, thôn”
9
; “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân,
hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với nhân dân đặt kế hoạch cho thiết thực
với hoàn cảnh đị phương, rồi động viện và tổ chức toàn dân ra thi hành”
10
. Người
căn dặn những cán bộ phụ trách “Phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”
11
2.2.Đối với phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
*Trong tình hình hiện nay, theo đánh giá của các cấp ủy Đảng đã có nhiều
vấn đề tác động và làm ảnh hưởng đến sự xa sút về phẩm chất, suy thoái về đạo
đức, lối sống của một số ít không nhỏ cán bộ, đảng viên trong Đảng, do nhiều
nguyên nhân kể cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan mang lại.
Nhưng điều mà chúng ta phải đặt ra lúc này là phải đi sâu tìm hiểu các nguyên
nhân về mặt chủ quan tác động trực tiếp đến sự xa sút về phẩm chất, suy thoái về
đạo đức, lối sống. Đó mới chính là thể hiện tính Đảng, tính chiến đấu, tính giáo dục
trong mọi người đảng viên.
*Để góp phần giữ vững phẩm chất đạo đức, lối sống của người đảng viên
trong tình hình mới hiện nay; các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị- xã
hội các cấp phải tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:
-Thứ nhất; tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cuộc vận động "Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh": Hiện nay trong cả nước, từ Trung
ương cho đến các địa phương, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị-
xã hội đang ra sức tiếp tục thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh" và bước đầu đã mang lại một số kết quả đáng kể.
Song, vẫn còn nhiều điều cần suy nghĩ trong mỗi đảng viên của chúng ta là phải
thật sự thấm nhuần và thật sự làm theo tấm gương đạo đức của Người, đó là những
việc làm bình dị nhưng thật cao quí trong đời sống hàng ngày mà mỗi cán bộ, đảng
viên chúng ta phải noi theo, có như thế sự sa sút về phẩm chất, suy thoái về đạo
8
Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 4. Nxb Sự thật. Hà Nội 1985, tr 487
9
Sđd, tr 487
10
Sđd, tr 300
11
Sđd, tr 301
14
đức, lối sống của một số ít không nhỏ cán bộ, đảng viên trong Đảng sẽ từng bước
giảm dần và cuộc vận động ấy thật sự mang lại hiệu quả cao trong đời sống.
- Thứ hai, tiếp tục thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức
cơ sở Đảng: Các chi, đảng bộ cơ sở thực hiện 05 nhiệm vụ cụ thể được Điều lệ
Đảng (khóa X) qui định, đồng thời Ban Bí thư Trung ương còn qui định thêm các
chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình tổ chức cơ sở Đảng cụ thể. Nhưng trong
thực tế thời gian vừa qua, tính chiến đấu, tính giáo dục ở một số ít tổ chức cơ sở
Đảng chưa cao, ít được phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể và đảng viên, việc
đấu tranh tự phê bình và phê bình trong tổ chức còn yếu, ít phát hiện được các dấu
hiệu vi phạm của cán bộ, đảng viên trong chi, đảng bộ mình, mà chủ yếu do nhân
dân và giới báo chí cung cấp thông tin. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước ban hành về nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chức cơ sở Đảng; xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và chống tham nhũng lãng phí, thực hành tiết kiệm; thực hiện vai
trò giám sát của các chi bộ, là những giải pháp cấp bách, hiệu quả nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, để các tổ chức cơ sở Đảng hoàn
thành tốt các nhiệm vụ được giao và xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững
mạnh.
- Thứ ba, phát huy tính tiên phong, gương mẫu và thực hiện tốt vai trò,
trách nhiệm của mỗi đảng viên: Bốn nhiệm vụ của đảng viên đã được ghi trong
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa X), đó là nhiệm vụ bắt buộc để tất cả đảng
viên chúng ta phải thường xuyên thực hiện, đây cũng là chuẩn mực để xác định
ranh giới giữa người quần chúng ưu tú với người đảng viên và trong thực tế tất cả
đảng viên chúng ta đã phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu của mình trong
phong trào cách mạng quần chúng, đem lại những việc làm thiết thực, góp phần
xây dựng Đảng ngày trong sạch, vững mạnh. Nhưng trong cơ chế thị trường hiện
nay, một số ít cán bộ, đảng viên có chức, có quyền đã bị cám dỗ của ma lực đồng
tiền, đô la, mặt trái của nền cơ chế thị trường dẫn đến tha hóa, biến chất, suy thoái
về đạo đức, lối sống, mà những khuyết điểm này cũng ít được các tổ chức cơ sở
Đảng và đồng chí mình cùng sinh hoạt kịp thời phát hiện, đấu tranh; chủ yếu cũng
do các phương tiện thông tin đại chúng và quần chúng nhân dân tích cực cung cấp.
Điều đó, thể hiện tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình chưa cao, tính Đảng,
tính chiến đấu, tính giáo dục của mỗi người đảng viên chưa phát huy tác dụng. Từ
đó, Đảng đã có qui định những điều đảng viên không được làm; phải thực hiện tốt
cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" bằng
những việc làm cụ thể trong đời sống thường ngày về đạo đức, lối sống cho quần
chúng nhân dân noi theo. Thực hiện được như vậy thì những phẩm chất, đạo đức
lối sống, những cái đẹp của người đảng viên ngày càng nâng lên và được quần
chúng nhân dân tín nhiệm, tạo niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng
và tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, tất cả vì: "Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh".
15
- Thứ tư, tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy Đảng:Công
tác kiểm tra của Đảng là nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng và của các Ủy ban Kiểm
tra các cấp được qui định trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa X). Trong
thời gian qua, các cấp ủy Đảng đã thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
mình, góp phần giáo dục, phát hiện, ngăn ngừa và xử lí mọi vụ việc vi phạm của
tập thể và cá nhân đảng viên vi phạm; đồng thời, các cấp ủy Đảng triển khai thực
hiện tốt chức năng giám sát của các chi bộ được giao theo Hướng dẫn 06-
HD/KTTW của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, góp phần nâng cao năng lực và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Trước yêu
cầu hiện nay, đòi hỏi công tác kiểm tra của Đảng luôn đổi mới và thực hiện tốt các
nhiệm vụ của Trung ương đề ra, có như thế góp phần thực hiện tốt cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay và xây dựng Đảng vững mạnh trên 3 mặt chính
trị, tư tưởng và tổ chức.
- Thứ năm, phát huy vai trò giám sát của các tổ chức đoàn thể nhân dân:
"Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng"; "lấy dân làm gốc" đó là những tư tưởng
đúng đắn của Bác Hồ và của Đảng ta đã đặt ra trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Ngày nay, sự nghiệp cách
mạng của nước ta giành nhiều thắng lợi đều có không nhỏ sự đóng góp của quần
chúng nhân dân, đưa nền kinh tế tăng trưởng nhanh, văn hóa xã hội ngày càng tiến
bộ, quốc phòng an ninh được giữ vững Và cũng chính quần chúng nhân dân góp
phần tích cực cho cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay; tích cực
tham gia đóng góp ý kiến, tham gia giám sát về đạo đức, lối sống của đảng viên
nơi cư trú. Từ đó, ngày tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận
trong xã hội, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh.
- Thứ sáu, thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng:
Đây là một trong những giải pháp góp phần vào sự thành công các nhiệm vụ của
các tổ chức Đảng. Mọi thắng lợi của Đảng là do sự lãnh đạo đúng đắn và tổ chức
thực hiện của mình. Thời gian qua Đảng ta đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo đề
ra những nghị quyết, chính sách đúng đắn trên tất cả lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng chính quyền, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tạo
sự đoàn kết nhất trí cao trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đưa nước ta ra khỏi
tình trạng của nước kém phát triển, xây dựng một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020 mà Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra. Và trước yêu
cầu hiện nay, để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng và ngang tầm với
nhiệm vụ mới, đòi hỏi mỗi cấp ủy phải thường xuyên tăng cường vai trò lãnh đạo
của mình trên tất cả các mặt, phát huy sức mạnh và trí tuệ tập thể, cùng với trách
nhiệm của các cấp ủy Đảng trong cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
16
17