Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Luận điểm chính về nhà nước và pháp luật của Aristotle (384322 TCN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.15 KB, 22 trang )

Trường Đại học Công nghệ Thông tin

Bài tập nâng cao
Luận điểm chính về nhà nước và pháp luật của
Aristotle (384-322 TCN)

Họ và tên: Nguyễn Lê Bảo Anh
MSSV:
23520061
Lớp:
SS006.O123
Khóa học: 2023-2024

Mục lục
Page 1


Mở đầu.....................................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................................3
2.1. Mục đích nghiên cứu :.................................................................................4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu :................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................4
3.1. Đối tượng nghiên cứu : ..............................................................................4
3.2. Phạm vi nghiên cứu : .................................................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..........................................................4
5. Kết cấu của luận văn ..........................................................................................4
 CHƯƠNG I: Hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm “chính trị luận” của
Arixtơt.......................................................................................................................5
TĨM TẮT .................................................................................................................5
ABSTRACT ............................................................................................................5


BỐI CẢNH LỊCH SỬ ...................................................................................................6
1. Chính trị luận và học thuyết của Aristotle: .........................................................6
2 .Nội dung nghiên cứu:...........................................................................................7
 CHƯƠNG II: Một số nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị Arixtơt trong tác
phẩm “Chính trị luận”........................................................................................9
 QUYỂN I: .................................................................................................................9
1) Nhà nước là một thực thể tự nhiên : ....................................................................9
2) Nhà nước là một tổ chức chính trị-xã hội : .......................................................11
2.1. QUAN NIỆM CỦA ARIXTƠT VỀ NGUỒN GỐC, MỤC ĐÍCH, HÌNH THỨC CỦA NHÀ
NƯỚC .....................................................................................................................11
2.1.1. Quan điểm Arixtơt về nguồn gốc, mục đích của nhà nước: .................11
2.1.2. Quan điểm Arixtơt về các hình thức nhà nước trong lịch sử: .........12
2.2. QUAN NIỆM CỦA ARIXTÔT VỀ NHÀ NƯỚC TỐT NHẤT ..................................14
2.2.1. Quan điểm Arixtôt về hạnh phúc với tính cách là mục đích cao nhất của
một nhà nước tốt nhất: ....................................................................................14
2.2.2. Quan điểm Arixtơt mơ hình nhà nước tốt nhất: .............................14
 CHƯƠNG III: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
ARIXTƠT TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN”...................................................19
3.1. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ARIXTƠT TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH
TRỊ LUẬN”...............................................................................................................19
3.1.1. Những giá trị..........................................................................................19
3.2. NHỮNG HẠN CHẾ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ARIXTƠT TRONG TÁC
PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN”...............................................................................21
Kết luận..................................................................................................................21
Nguồn ....................................................................................................................22

Mở đầu
Page 2



1. Tính cấp thiết của đề tài
Triết học Hy Lạp là một di sản quý giá không chỉ của dân tộc Hy Lạp, mà còn của cả nhân
loại. Với nền văn minh rực rỡ của mình, Hy Lạp ln thu hút sự quan tâm tìm hiểu của
khơng ít người nghiên cứu và cho đến nay, những thành tựu của nền văn minh ấy vẫn luôn
khiến người ta phải ngưỡng mộ, khâm phục. Arixtôt là nhà triết học, nhà giáo dục và nhà
khoa học đã tạo nên ảnh hưởng hết sức lớn lao trong nền văn minh phương Tây. Cùng với
Platon, Arixtôt được coi là một trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất. Là một nhà
bác học, Arixtôt đã để lại cho hậu thế một kho tàng tư tưởng đồ sộ về nhiều phương diện
như triết học, khoa học, tốn học, thiên văn học và chính trị học. Chính trị luận là một trong
những tác phẩm kinh điển của Arixtơt về triết lý và lý thuyết chính trị của Phương Tây và
trên nền tảng những lý thuyết chính trị khác như của Cicero, St. Augustine, Aquinas (cổ,
trung đại), Hobbes, Locke, Rousseau (thời Cận đại và Khai sáng) – đã được xây dựng và
phát triển. Trong tác phẩm Chính trị luận, Arixtơt khái qt các hình thức thể chế chính trị
đã tồn tại ở Hy Lạp, phê phán các lý thuyết về nhà nước, nhất là mơ hình nhà nước lý tưởng
của Platon – người thầy của ông, đồng thời đưa ra nhiều tư tưởng có giá trị về mơ hình thể
chế chính trị được ơng cho là tốt nhất. Nhiều tư tưởng chính trị của Arixtơt vẫn cịn nguyên
giá trị và có thể được vận dụng một cách sáng tạo trong thời đại ngày nay. Chính vì vậy, tơi
chọn đề tài: “Tư tưởng chính trị của Arixtơt trong tác phẩm Chính trị luận” làm đề tài
nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu :
Đề tài có mục đích phân tích những nội dung cơ bản về tư tưởng chính trị trong tác phẩm
Chính trị luận của Arixtơt, chỉ ra được những đóng góp cũng như những hạn chế của
chúng.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu :
Để thực hiện mục đích đã đề ra, đề tài phải thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng
chính trị của Arixtơt.

- Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị trong tác phẩm “Chính trị luận”
của Arixtơt.
- Chỉ ra được những đóng góp cũng như những hạn chế của những nội dung đó.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu :
Nghiên cứu những tư tưởng chính trị trong tác phẩm “Chính trị luận” của Arixtơt.

3.2. Phạm vi nghiên cứu :

Page 3


Tư tưởng triết học của Arixtôt bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn: siêu hình học, vật lý học,
lơgic học, chính trị học, đạo đức học… trong nhiều tác phẩm. Luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu những tư tưởng chính trị của ơng trong tác phẩm “Chính trị luận”.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử và sử dụng kết hợp các phương pháp: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch, trừu tượng và cụ thể, lịch sử và lơgíc, đối chiếu, so sánh, v.v..

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương.
 Chương 1. Hồn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm “chính trị luận” của Arixtơt
 Chương 2. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị Arixtơt trong tác phẩm “Chính
trị luận”
 Chương 3. Những giá trị và hạn chế của tư tưởng chính trị Arixtơt trong tác phẩm
“Chính trị luận”


Page 4


 CHƯƠNG I: Hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác
phẩm “chính trị luận” của Arixtơt

TĨM TẮT
Nhân quyền, hay quyền con người là những quyền tự nhiên của con người. Tư tưởng về
nhân quyền không phải chỉ mới xuất hiện mà từ thời cổ đại, vấn đề về con người và quyền
của con người đã được các nhà triết học quan tâm bàn đến. Aristotle là nhà triết học vĩ đại
của Hy Lạp. Ông đã để lại cho nhân loại một khối lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều lĩnh vực
khác nhau của tri thức. Trong tác phẩm “Chính trị”, lần đầu tiên, ông đã thực hiện sự khảo
sát về bản chất cơng dân và chỉ ra vai trị của nhà nước. Qua đó, Aristotle đã vạch ra những
nét cơ bản về quyền con người. Tư tưởng nhân quyền của ơng đến nay vẫn cịn ngun giá
trị.
Từ khố: Aristotle, nhân quyền, tư tưởng.
Phân loại ngành: Triết học

ABSTRACT
Human rights are natural rights of people. The thought of these rights is not something
recently emerging but was started in ancient times, when philosophers discussed issues on
humans and their rights. Aristotle is a great Greek philosopher who left humanity with a
huge number of works in many different areas of knowledge. Among them, in the work
entitled “Politics”, for the first time, Aristotle surveyed the nature of citizens and pointed
out the role of the state. Thereby, the philosopher outlined the basics of human rights. His
ideology on the rights remains valid today.
Keywords: Aristotle, human rights, thought.
Subject classification: Philosophy.

Lời giới thiệu

BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Xã hội Hy Lạp vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ chứa đựng bên trong những mâu thuẫn gay
gắt giữa các lực lượng, các giai cấp, các tầng lớp khác nhau… được biểu hiện ra thành cuộc
đấu tranh giữa chủ nô và nô lệ, giữa lực lượng dân chủ và chống dân chủ, giữa những người
Hy Lạp bản địa và dân nhập cư… và ngay trong nội bộ của những giai cấp, tầng lớp cũng
nảy sinh những mâu thuẫn. Nếu như phái dân chủ chủ trương đập tan chế độ chuyên chế và
độc đoán của tầng lớp q tộc, giải phóng khỏi sự nơ dịch của giới quý tộc cũ, thì giới quý
tộc lại muốn duy trì trật tự cũ và bằng mọi cách bảo tồn đặc quyền, đặc lợi của mình. Dù
quan điểm của giới quý tộc và giới dân chủ khác biệt nhau đến đâu đi chăng nữa, thì họ vẫn
có quan điểm chung về nhiều vấn đề. Đối với họ, sự thừa nhận sở hữu cá nhân là không thay
đổi, chế độ nơ lệ được coi là tự nhiên phải có; về cơ bản, việc loại trừ nô lệ ra khỏi thành
Page 5


phần công dân là vấn đề không cần bàn cãi; bất công xã hội là hiện tượng tất yếu và tự
nhiên. Nhà nước là thiết chế của con người tự do và chỉ dành cho người tự do. Vấn đề về
con người cùng với những khát vọng của họ đã đặt ra cho các nhà tư tưởng cần phải vạch ra
một thiết chế xã hội dành cho con người và quan tâm đến quyền con người.
Aristotle sinh ra trong một xã hội có sự chuyển biến về chính trị sâu sắc. Trong đó, các
nhà nước thành bang nhỏ bé rơi vào các cuộc khủng hoảng triền miên và cuối cùng bị thơn
tính bởi đế chế Macedonia. Bản thân Aristotle là người có mối liên hệ khá chặt chẽ với
vương triều Macedonia; tuy nhiên ơng cũng chẳng hề có chút quyền lực nào vì hầu hết cuộc
đời ơng sống như một cư dân “ngoại lai” của thành Macedonia. Có lẽ vì thế, ông luôn cho
rằng, cuộc sống tốt đẹp nhất của con người là cuộc sống của một cơng dân có quyền tham
gia vào đời sống chính trị. Chính điều này đã đặt những viên gạch đầu tiên cho tư tưởng về
quyền con người của ông.
Tất cả những bối cảnh của thời đại đã in đậm dấu ấn trong các tác phẩm của Aristotle.
Trong điều kiện khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô, sự gia tăng những căng thẳng và
xung đột xã hội, sự mất phương hướng của con người trong đời sống tinh thần đã gợi mở
những giải pháp vượt qua hiện trạng để vươn đến những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.

“Chính trị” được xem là kinh điển của khoa chính trị học tại phương Tây cho đến ngày nay.
Ra đời trong hoàn cảnh trên, tác phẩm “Chính trị” đã phản ảnh xã hội Hy Lạp vào thời kỳ
khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô, cuộc đấu tranh của các lực lượng xã hội xung quanh
vấn đề quyền lực và thể chế chính trị, vấn đề dựng xây mơ hình nhà nước lý tưởng thay cho
nhà nước hiện tồn để mang lại những điều tốt cho con người, vì con người và của con
người. Bài viết này phân tích tư tưởng nhân quyền của Aristotle trong tác phẩm “Chính trị”
và ý nghĩa lịch sử của nó.

1. Chính trị luận và học thuyết của Aristotle:


Tổng quan Chính trị luận :

Aristotle viết Chính Trị Luận năm 350 trước Công nguyên. Cuốn sách này được xem là
căn bản cho Chính trị học Tây phương và ảnh hưởng sâu rộng tới các tư tưởng gia đời sau
như Cicero, St. Augustine, Aquinas, và các lý thuyết gia khác thời Trung Cổ. Các lý thuyết
gia hiện đại như Machiavelli, Hobbes, và các nhà tư tưởng thời Khai Sáng đều dựa trên nền
tảng này mà phê phán lý thuyết và mơ hình chính trị kiểu Aristotle. Nhờ vậy, họ đã phát
triển nên các hệ tư tưởng mới. Vì thế, dù ta đồng ý hay không với lập luận và lý thuyết của
Aristotle, hiểu rõ các nguyên lý căn bản mà Aristotle đã đề ra vẫn là điều cần thiết để có thể
hiểu được các nhà tư tưởng thời Khai sáng và Hậu hiện đại.
Trong Chính Trị Luận, Aristotle dùng phương pháp luận lý quy nạp, đi từ đơn vị xã hội
nhỏ nhất là gia đình tới xã hội và cuối cùng là quốc gia, để tìm ra những đặc tính thiết yếu
mà nhà nước phải có để trở thành một nhà nước lý tưởng. Ngoài phương pháp quy nạp,
Aristotle cũng dùng phương pháp so sánh giữa mơ hình nhà nước “lý tưởng” và mơ hình
nhà nước trong thực tế và đưa ra những nguyên lý xây dựng một nền chính trị mang lại
“điều tốt nhất” cho con người. Chính Trị Luận có 8 quyển.

Page 6



2 .Nội dung nghiên cứu:
Sống trong một thời đại có quá nhiều biến động lớn lao trong đời sống chính trị, Aristotle
thấu hiểu tâm trạng và khát vọng của con người. Từ đó, ơng đã đưa ra nhiều luận điểm sâu
sắc về nhân quyền với mục đích xây dựng một nền chính trị mang lại “điều tốt nhất” cho
con người. Tư tưởng nhân quyền trong tác phẩm “Chính trị” của Aristotle được thể hiện ở
những nội dung sau đây.
Quyển I mang tựa đề “Lý thuyết về Gia đình,” gồm 13 chương
Trong Quyển I, Aristotle nhắc đến vai trị của nơ lệ (C. 3, 4 & 5) khi phân tích các thành
phần tạo nên hộ gia đình. Mối tương quan trong hộ gia đình gồm có quan hệ giữa chủ nhân
và nô lệ, giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ với con cái. Lập luận của Aristotle về nô lệ dĩ nhiên
là khơng cịn hợp với thời đại chúng ta, nhưng nô lệ là một thành phần không thể thiếu được
trong xã hội Hy Lạp thuở đó. Ở đây, ta cũng cần mở một dấu ngoặc về sinh hoạt kinh tế của
Athens thời bấy giờ. Như đã dẫn trên đoạn bối cảnh lịch sử, người Hy Lạp chuộng xa hoa,
không ưa lao động chân tay, nên nền kinh tế dựa vào sức lao động của nơ lệ là chính để sản
xuất. Khơng có nơ lệ để sản xuất và phụ nữ lo việc nhà thì đàn ơng Hy Lạp khơng cịn thì
giờ để mà suy tưởng những việc cao xa, tựa như kẻ sĩ trong xã hội ta và Tàu thời trước, nho
sĩ để móng tay dài lượt thượt và khơng được làm việc lao động chân tay (sic). Theo
Aristotle, có hai loại nô lệ: những kẻ sinh ra đã là nô lệ và những kẻ bị buộc làm nô lệ.
Aristotle lập luận như sau: những kẻ nào mà trời sinh ra kém thơng minh, khơng làm gì
được khác hơn là chỉ làm những việc lao động chân tay, thì những kẻ ấy trời sinh ra làm nơ
lệ; đó là những kẻ khơng có đủ trí phán đốn khơn ngoan. Aristotle cịn cho rằng đối với
những người như vậy có được chủ nhân là điều tốt cho họ (C. 5). Ngoài ra, những kẻ chiến
bại là những kẻ bị buộc làm nơ lệ. Người Hy Lạp, trong đó có Aristotle, lý luận rằng những
kẻ chiến bại chắc chắn phải “kém” hơn người chiến thắng chứ nếu khơng thì thua làm sao
được? Như vậy, bị bắt làm nơ lệ thì cũng hợp với luận lý mà thôi.
Trong Chương 12, Q. I, Aristotle luận về vai trị phụ nữ trong hộ gia đình. Dĩ nhiên,
những nhận định này cũng tương tự như quan niệm về nơ lệ, nay đã lỗi thời nhưng có lý
trong bối cảnh xã hội đương thời. Aristotle quan niệm: “người nam do bản chất tự nhiên,
ngoại trừ trường hợp bị tật bẩm sinh, thích hợp với vai trị chỉ huy hơn là người nữ; cũng

tương tự như với tuổi tác và sự chín chắn thích hợp với vai trị chỉ huy hơn tuổi trẻ thiếu
khơn ngoan.” Aristotle khơng nói “chỉ huy” cái gì, nhưng nhận định thêm rằng vai trò người
chồng đối với vợ cũng giống như vai trò của nhà lãnh đạo chính trị đối với các cơng dân, và
vai trò của người cha đối với con cái cũng giống như của nhà vua đối với thần dân. Quan
niệm của Aristotle về phụ nữ cũng là quan niệm của Tây phương về vai trò phụ nữ là lo việc
quản trị gia đình. Ngay cả Thánh kinh của Ki-tơ giáo cũng quan niệm tương tự như vậy. Về
phương diện chính trị, trong thời đại “văn minh” của chúng ta, phụ nữ cũng chỉ mới có
quyền đầu phiếu từ năm 1893 tại New Zealand, và tại Mỹ từ năm 1920.
→ Tóm lại
Quyển I[sửa | sửa mã nguồn]
Trong quyển đầu tiên, Aristotle bàn luận về nhà nước hay “cộng đồng chính trị” khác với
các loại cộng đồng hay hình thức quần tụ khác như hộ gia đình và làng mạc.
Page 7


Nhà nước là cộng đồng cao nhất. Aristotle đi đến kết luận này bởi vì ơng tin rằng một người
khi sống trong cộng đồng thì ln tử tế hơn khi sống cơ độc và rằng con người là “động vật
chính trị”. Aristotle bắt đầu với mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước (I. 1 – 2) rồi phân
tích sâu hộ gia đình (I. 3 – 13).
Ơng đặt vấn đề bằng cách dẫn ra quan điểm cho rằng sự cai trị của một nhà lãnh đạo chính
trị, một ơng vua, một gia trưởng và một chủ nhân chỉ khác nhau ở số lượng đối tượng dưới
quyền. Sau đó, Aristotle xét xem nhà nước thế nào thì là nhà nước tự nhiên.
Aristotle thảo luận về các bộ phận trong một hộ gia đình, trong đó có nơ lệ, kéo theo mộc
cuộc thảo luận khác về việc liệu chế độ nô lệ có chính đáng và tốt đẹp hay ln ln bất
cơng và xấu xa. Ơng phân biệt nơ lệ luật định và nơ lệ tự nhiên, tìm hiểu xem có ai mà trời
sinh ra đã là nô lệ hay không.
Aristotle kết luận rằng chỉ trừ những nơi có sự khác biệt rõ rệt giữa hồn và xác hay giữa
người và thú thì những kẻ ở đẳng cấp thấp tự nhiên phải làm nơ lệ. Cịn lại, con người trở
thành nơ lệ đều do pháp luật hoặc quy ước.
Sau đó, Aristotle chuyển sang vấn đề tài sản nói chung, cho rằng việc mua lại tài sản

không phải là một phần của nghệ thuật quản trị hộ gia đình và chỉ trích những người quá coi
trọng nó. Thương mại là cần thiết nhưng không thể là một phần của nghệ thuật quản trị hộ
gia đình, ví như chỉ vì sức khỏe thành viên gia đình là quan trọng mà coi nghề y là một phần
của nghệ thuật quản trị hộ gia đình.
Ơng chỉ trích nguồn thu nhập từ thương mại và cho vay lấy lãi. Nhiều người trở nên hám
lợi là vì đánh đồng việc kiếm thật nhiều tiền với sự giàu có. Cho vay lấy lãi là “trái tự
nhiên” vì tiền sinh ra đơn thuần chỉ để làm phương tiện trao đổi.
Quyển I kết thúc với khẳng định của Aristotle rằng nghệ thuật quản trị hộ gia đình cần
chú trọng vào việc rèn luyện đức hạnh cho phụ nữ và trẻ con chứ không phải việc quản lý
hoặc mua bán tài sản. Cai trị nơ lệ thì có thể chun quyền, cai trị trẻ con thì phải như vua
với thần dân, và cai trị phụ nữ thì phải như nhà lãnh đạo chính trị với cơng dân. Aristotle đặt
câu hỏi liệu nơ lệ có “đức hạnh” hay khơng và liệu đức hạnh của phụ nữ và trẻ con có giống
với đức hạnh của đàn ông trước khi khuyên mọi nhà nước nên quan tâm tới đức hạnh của
phụ nữ và trẻ con. Những đức hạnh mà một người đàn ông nên thấm nhuần lại phải phụ
thuộc vào chính quyền. Thế nên, Aristotle chuyển sang bàn về mơ hình nhà nước lý tưởng.

Page 8


 CHƯƠNG II: Một số nội dung cơ bản của tư
tưởng chính trị Arixtơt trong tác phẩm “Chính trị
luận”

 QUYỂN I:
1)

Nhà nước là một thực thể tự nhiên :

Quyền công dân được thể hiện rõ trong vai trò của Nhà nước. Aristotle mở đầu tác phẩm
“Chính trị” bằng lập luận rằng: “Mỗi quốc gia là một loại cộng đồng, và mỗi cộng đồng

được thành lập hướng đến với một số điều tốt đẹp; vì con người ln ln hành động để đạt
được những gì mà họ cho là tốt. Tuy nhiên, nếu tất cả các cộng đồng đều hướng đến một số
mục tiêu tốt đẹp nào đó thì nhà nước hoặc cao nhất là cộng đồng chính trị, là bộ phận cao
nhất, và bao gồm tất cả phần còn lại, hướng đến điều tốt đẹp ở mức độ cao hơn và nhắm
đến mức độ cao nhất” [4, tr.7] và lý do để nhà nước tồn tại là để giúp cho cơng dân sống
một đời sống “tốt”. Chính những lập luận đầu tiên về mục đích tối cao của việc hình thành
và duy trì sự tồn tại của nhà nước là mang lại cuộc sống tốt cho con người đã đưa Aristotle
chỉ ra quyền lợi của công dân khi sống trong một thành bang.
Nhà nước là hình thức hồn thiện nhất của cuộc sống, giúp con người thực hiện được
những nhu cầu sống của mình. Như vậy, ở đây đã có sự tương tác giữa cơng dân với nhà
nước hay nói cách khác là giữa con người chính trị và thể chế chính trị trong quan điểm của
Aristotle. Một mặt, con người cần đến nhà nước như là phương tiện để đạt đến cuộc sống
cao đẹp với đầy đủ những quyền cơng dân của mình; nhưng mặt khác, chính những ước
vọng trên sẽ duy trì sự tồn tại của nhà nước đó. Theo Aristotle, con người khác với tất cả
các lồi động vật khác: “Con người tự bản chất là một động vật chính trị” [4, tr.5] mang đặc
trưng chính trị hơn là đặc trưng quần thể xã hội: các hoạt động hiệp tác xã hội của con người
đòi hỏi phải có tổ chức chính trị. Con người với khả năng lập luận hợp lý của mình đã tự
nhận thấy rằng, khi sống trong cộng đồng con người có thể thực hiện được lợi ích của mình
thơng qua hành động tập thể. Nhờ hành động hợp tác con người có thể đạt được nhiều lợi
ích mà nếu chỉ là hành động với tư cách là cá nhân anh ta không thể nào có được. Và đỉnh
cao nhất của hoạt động tập thể của con người trong cộng đồng đó chính là nhà nước.
Nhà nước là một hình thức hồn hảo của cộng đồng người. Chỉ có trong một cộng đồng
chính trị, con người mới có đủ điều kiện để phát triển cái bản chất cố hữu của mình: khả
năng lập luận hợp lý và hành động có hợp tác - cái mà tất cả các động vật phi chính trị khác
khơng có. “Những ai khơng sống được trong xã hội, hoặc những ai khơng có nhu cầu bởi vì
anh ta tự cho mình là đầy đủ rồi thì anh ta chắc chắn phải là một con thú hay một vị thần:
anh ta không phải là một phần của một nhà nước” [4, tr.6]. Với định nghĩa của mình thì
Page 9



Aristotle nhấn mạnh sự cần thiết tham gia của cá nhân vào đời sống công cộng của nhà nước
- thị thành. Qua đó, lợi ích của cơng dân ln gắn chặt với lợi ích của cộng đồng. Cơng dân
chỉ có thể thực hiện những quyền của mình khi anh ta tồn tại trong một cộng đồng người
nhất định.
Đối với Aristotle, quyền của công dân được thể hiện trong những lợi ích mà nhà nước một cộng đồng hoàn hảo nhất mang lại cho họ. Vì cho rằng bản năng tự nhiên của con
người là sống quần tụ với nhau để được đời sống tốt đẹp hơn lúc sống đơn lẻ, “con người về
bản chất là một động vật chính trị. Và do đó, con người, ngay cả khi họ khơng đạt được sự
giúp đỡ của nhau, thì vẫn mong muốn sống chung với nhau, chứ khơng phải sở thích chung
mang họ lại với nhau khi họ đạt được bất kỳ biện pháp nào để tồn tại tốt” [4, tr.59] nên
Aristotle khẳng định mục đích tối hậu của quốc gia là hướng tới một đời sống tốt và các mối
dây ràng buộc xã hội chỉ là phương tiện để đạt tới mục đích này mà thơi. Do đó, những ai
qua tài năng và hành động của mình, cống hiến nhiều cho quốc gia, thì sẽ được hưởng nhiều
vinh dự hơn. Chế độ nào đạt được mục đích này là chế độ đúng đắn; ngược lại, chế độ nào
chỉ phục vụ cho quyền lợi của giới cầm quyền là chế độ bất cơng, vì quốc gia là sự kết hợp
của những con người tự do và bình đẳng. “Chính phủ có liên quan đến lợi ích chung là
được thành lập phù hợp với nguyên tắc nghiêm ngặt của công lý, và do đó là các hình thức
thật; nhưng những chính phủ chỉ quan tâm đến sở thích của các nhà lãnh đạo là những
dạng chính phủ khiếm khuyết và biến thái, bởi vì các chính phủ đó là chun chế, trong khi
đó nhà nước là một cộng đồng của những người tự do” [4, tr.60].
Như vậy, Aristotle đã lấy tiêu chuẩn để xác định các hình thức nhà nước kiểu mẫu là khả
năng phụng sự lợi ích chung. Thể chế nhà nước nào lấy lợi ích xã hội làm cứu cánh, thì
được liệt vào hình thức kiểu mẫu; ngược lại, thể chế nhà nước nào tuyệt đối hóa quyền lực
của cá nhân hay của một nhóm thiểu số thì bị quy về hình thức lệch lạc.
→ Tóm lại
Aristotle mở đầu Chương 1 bằng nhận xét bất hủ: “mỗi một cộng đồng được thiết lập
nhằm đạt tới một cái tốt nào đó; vì hoạt động của con người luôn luôn nhằm đạt được cái
mà nó nghĩ là tốt. Nhưng, nếu tất cả các cộng đồng đều nhắm đến một cái tốt, thì nhà nước
hay cộng đồng chính trị - cộng đồng cao nhất và bao trùm tất cả các cộng đồng - phải nhắm
tới cái tốt cao cả hơn mọi cái tốt khác, và phải là cái tốt ở mức độ cao nhất.” Trong Quyển I,
Aristotle dùng phương pháp luận lý phân tích và truy nguyên các hình thức quần tụ của con

người từ đơn vị nhỏ nhất là gia đình, đến làng mạc, rồi đến quốc gia.
Mỗi một nhà nước là một hình thức quần tụ nào đó của con người - một cộng đồng, và
mỗi một cộng đồng được thiết lập nhằm đạt tới một cái tốt nào đó; vì hoạt động của con
người luôn luôn nhằm đạt được cái mà nó nghĩ là tốt. Nhưng, nếu tất cả các cộng đồng đều
nhắm đến một cái tốt, thì nhà nước hay cộng đồng chính trị - cộng đồng cao nhất và bao
trùm tất cả các cộng đồng - phải nhắm tới cái tốt cao cả hơn mọi cái tốt khác, và phải là cái
tốt ở mức độ cao nhất. Người ta thường nghĩ là các đức tính của một nhà lãnh đạo chính trị,
một ơng vua, một gia trưởng, và của một chủ nhân ông đều giống nhau, và nếu họ có khác
nhau, thì cũng khơng phải vì vị thế của họ khác nhau, mà ở số lượng các đối tượng dưới
quyền.

Page 10


Thí dụ, kẻ làm chủ vài người được kêu là ông chủ; hơn vài người thì được kêu là quản
gia; hơn thật nhiều người nữa thì được gọi là nhà lãnh đạo hay một ông vua. Lối gọi kiểu
này không phân biệt được sự khác nhau giữa một đại gia tộc và một nhà nước nhỏ. Sự khác
biệt giữa một vị vua và một nhà lãnh đạo nhà nước là ở chỗ này: Khi chính quyền thuộc về
một người, thì nhà cai trị được gọi là vua; còn khi mà theo quy luật của khoa học chính trị,
chính quyền do công dân - đồng thời là người cai trị và bị trị - thì người cai trị được gọi là
nhà lãnh đạo chính trị. Nhưng tất cả những lập luận này đều sai lầm cả, vì các chính quyền
cũng có nhiều loại khác nhau; điều này cũng hiển nhiên cho bất cứ ai nghiên cứu vấn đề
bằng phương pháp chúng ta sử dụng. Cũng giống như trong các ngành khác của khoa học,
chính trị cũng vậy, một hợp chất ln ln có thể được phân giải ra thành những phần tử
đơn giản hay nhỏ nhất của tổng thể. Do đó, chúng ta phải xem xét các phần tử cấu thành nhà
nước, hầu có thể thấy được các luật lệ khác nhau của các loại chính quyền khác nhau như
thế nào, và có thể rút ra được một kết luận khoa học nào chăng về mỗi loại chính quyền.
Như vậy, quan niệm của Aristotle về nhà nước là một thực thể tự nhiên: Quan niệm này
thể hiện sự tiến bộ của Aristotle so với các nhà tư tưởng trước ông, những người cho rằng
nhà nước là một sản phẩm của sự thỏa thuận giữa các cá nhân. Aristotle cho rằng nhà nước

là một sự phát triển tất yếu của xã hội loài người, là nơi con người thực hiện các mục tiêu
cao cả của mình.

2)

Nhà nước là một tổ chức chính trị-xã hội :

Aristotle định nghĩa nhà nước là một tổ chức chính trị-xã hội, là một tập hợp những người
sống chung với nhau trên một lãnh thổ nhất định, có chung một chính quyền và hiến pháp.
Nhà nước có hai chức năng chính là:
* Chức năng chính trị: Nhà nước là cơ quan duy nhất có quyền lực tối cao trong xã hội, có
trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của công dân và đảm bảo trật tự, an ninh xã hội.
* Chức năng xã hội: Nhà nước có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ công cộng như giáo
dục, y tế, phúc lợi xã hội,... để nâng cao đời sống của người dân.

2.1. QUAN NIỆM CỦA ARIXTÔT VỀ NGUỒN GỐC, MỤC ĐÍCH, HÌNH THỨC CỦA NHÀ
NƯỚC:
2.1.1. Quan điểm Arixtơt về nguồn gốc, mục đích của nhà nước:
Theo Arixtơt, nhà nước ra đời trên cơ sở sự liên kết tự nhiên và tự nguyện giữa mọi
người vì lợi ích của mỗi người và vì lợi ích chung. Sở dĩ con người có thể liên kết với nhau
thành các cộng đồng, các xã hội như gia đình, làng xóm và thành bang là vì họ có khả năng
giao tiếp cao hơn các động vật khác và vì họ là động vật có tính xã hội. Arixtơt luận giải
rằng con người sẽ khơng thể tồn tại được nếu không kết hợp lại với nhau giống như sự kết
hợp giữa giống đực và giống cái để duy trì nịi giống trong các sinh vật khác, điều đó khơng
thơng qua một sự lựa chọn mà chỉ do sự thơi thúc có tính chất bản năng. Vì lý do đó, mỗi
thành bang về nguồn gốc phải là sản phẩm của tự nhiên. Arixtơt cịn luận giải thêm rằng do
sự thúc đẩy tự nhiên mà con người liên kết với nhau một cách tự nguyện trong các thành
bang, vì theo cách đó mỗi người có thể tìm thấy những lợi ích lớn nhất. Mỗi thành bang là
một xã hội và mỗi xã hội đều được tạo thành bởi một số lợi ích nhất định. Nhờ có khả năng
Page 11



nói mà con người là động vật có tính xã hội, có khả năng giao tiếp cao hơn các động vật
khác. Quan điểm này của Aristote về sau được kế thừa bởi nhiều học giả như Ciceron, Jean
Bodin… Về bản chất của nhà nước, theo Arixtôt là một cộng đồng chính trị mà ở trong đó
con người sinh sống với nhau để nhằm đến một mục đích tốt đẹp là thỏa mãn mọi nhu cầu
như: sinh lý, giao tiếp, trí tuệ, 10 văn hóa v.v., con người phải sống cuộc đời của mình bên
trong khn khổ xã hội. Mục tiêu cơ bản của nhà nước là tạo điều kiện cho mỗi cơng dân
được hưởng một cuộc sống thư nhàn, có cơ hội nhận thức được giá trị tối thượng của con
người. Đó là cuộc sống hướng đến các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tơn giáo, chính trị, khoa
học và trên tất cả, triết học.
2.1.2. Quan điểm Arixtôt về các hình thức nhà nước trong lịch sử:
Trong Chính trị luận, Arixtơt tiến hành phân loại các hình thức cai trị. Theo ơng, nhà lập
pháp và nhà lãnh đạo chân chính cần chú ý tới bốn yêu cầu khi đánh giá về các mơ hình nhà
nước đã được tạo dựng trên thực tế lịch sử. Ông cho rằng, cần phải xem xét, khơng phải chỉ
cơ cấu chính trị nào là tốt nhất, mà cịn xem loại nào là loại có thể thực hiện được và nước
nào cũng xây dựng được một cách dễ dàng. Theo Arixtơt thì quyền uy tối thượng trong một
nước có thể nằm trong tay của một người, hay của một số người, hay thuộc về nhiều người.
Ông đã chia chúng thành ba hình thức đúng đắn đó là những hình thức phục vụ cho lợi ích
chung, bao gồm quân chủ, quý tộc và cộng hòa. Còn những chính quyền được thiết lập
nhằm phục vụ quyền lợi riêng tư của một người, một nhóm người, hay của cả nhiều người
đều là hình thức hủ bại, gồm có bạo chúa, quả đầu và dân chủ. Arixtôt đưa ra lập luận để
giải thích lý do tại sao có nhiều hình thức cai trị là vì trong mỗi nước có nhiều phần tử khác
nhau. Tất cả mọi nước đều bắt nguồn từ nhiều gia đình, và trong số đơng đảo cơng dân lại
có kẻ giàu người nghèo, có kẻ trung lưu.Vì thế, mỗi tầng lớp công dân trong xã hội lại tự
lựa chọn đi theo những chế độ khác nhau. Điểm giống nhau giữa Platon và Arixtôt là ở chỗ
hai ông phân loại hình thức nhà nước ra hai nhóm: tích cực và tiêu cực, để từ đó lựa chọn
cái phù hợp nhất. Arixtôt lựa chọn cái phù hợp dựa trên các 11 thơng số hiện thực, cịn
Platon thì hướng đến cái lý tưởng. Cả hai ông đều nhận ra những mặt trái của thể chế chính
trị đang tồn tại, và từ đó đưa ra mơ hình tốt đẹp hơn, hay phù hợp hơn. Về phương pháp để

hình thành nên thể chế này, Arixtôt chủ trương vừa tuyển cử vừa bốc thăm. Nhà nước cộng
hịa của Arixtơt là chính phủ của một đội ngũ những người ưu tú uyên bác và mở rộng tới
các công dân sung túc về cả của cải, vật chất và tinh thần. Người ta coi nó là chế độ trung
bình trị.
2.1.3. Quan điểm của Arixtơt về con người và các quan hệ chính trị của con người:
a. Quan điểm của Arixtơt về con người
Có thể nói, Arixtốt là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên sớm nhận ra tính xã hội của
hoạt động con người. Với câu nói: “con người là một động vật chính trị” Arixtôt đã làm nổi
bật lên quan điểm này của mình về con người. Đây là tư tưởng có ý nghĩa quan trọng trong
việc nhận thức vấn đề con người cho đến tận sau này. Theo Arixtôt con người do bản tính tự
nhiên phải sống trong cộng đồng chính trị nên con người phải là một sinh vật chính trị và vì
là một sinh vật chính trị được ban cho tiếng nói nên con người phải có ý thức hơn các loại
động vật khác. Với việc được ban cho tiếng nói con người có thể giao tiếp với nhau và thực
hiện những điều mà những động vật khác không thể làm được. Chính nhờ có tiếng nói và
giao tiếp với nhau cũng như được sống trong cộng đồng con người đã sáng tạo ra nhiều lại
Page 12


công cụ để hỗ trợ việc sản xuất cũng như việc giải trí. Chính nhờ thơng qua những việc như
vậy con người đã xây dựng cho mình một nền văn minh. Nhờ được ban cho tiếng nói mà
con người có thể diễn tả được cảm xúc của mình như đau đớn hay sảng khối và có thể chỉ
ra những điều tốt, xấu. 12 Và nhờ có tiếng nói con người có thể truyền đạt được những điều
này đến những người xung quanh.
b. Quan điểm của Arixtôt về các quan hệ xã hội của con người trong nhà nước
Trong Chính trị luận, Arixtôt chỉ ra ba loại quan hệ cơ bản của con người đó là quan hệ
giữa chủ nhân và nô lệ, quan hệ vợ chồng và quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Đầu tiên
chúng ta đi tìm hiểu về quan niệm giữa chủ nhân và nô lệ. Arixtôt coi nô lệ không phải là
con người mà chỉ là một tài sản sống của người chủ nhân. Ông coi nô lệ là một công cụ
sống dùng để sử dụng các công cụ lao động vô tri khác. Qua phân tích sản xuất và hoạt động
ơng kết luận, sản xuất sử dụng những công cụ chết và hoạt động được tạo nên bởi cơng cụ

sống đó chính là người nô lệ. Theo ông, trong sự phân loại của thiên nhiên đã hình thành
nên sự khác biệt giữa người tự do và người nơ lệ, đó là sự phù hợp của thể chất mỗi loại
người với công việc được lựa chọn trong xã hội. Qua đó, Arixtơt đi đến kết luận, đó là nếu
có người do bẩm sinh là người tự do, thì cũng có người do bẩm sinh là nơ lệ; và đối với
những kẻ này thì việc trở thành nơ lệ vừa tốt vừa có lợi hơn cho chính họ. Trong quan hệ gia
đình, Arixtơt cho rằng người chồng, người cha có một vai trị to lớn trên cả vợ con. Đây là
quan điểm giống với quan điểm của phương Đông khi xem trọng quyền lực của người đàn
ông, người đàn ông được xem như trụ cột của gia đình. Như vậy, nếu xét về nguồn gốc nhà
nước theo quan điểm của Arixtơt thì gia đình giống như một nhà nước thu nhỏ và người đàn
ông trong gia đình giống như một vị vua khơng ngai. Arixtơt luận giải vấn đề này để chứng
minh cho quan điểm của mình về người lãnh đạo. Qua các phân tích trên thì người lãnh đạo
phải là người đàn ơng vì người đàn ông là người nắm quyền lực trong 13 gia đình, nơ lệ và
người phụ nữ chỉ là những cơng cụ giúp đỡ người đàn ông mà thôi.
2.1.4.Quan điểm Arixtôt về xung đột chính trị trong các nhà nước
Trong quyển V, Arixtôt bàn về cách mạng và chỉ ra nguyên nhân của sự thay đổi chế độ.
Nguyên nhân tạo ra cách mạng, theo Arixtôt, là do quan niệm khác nhau của các thành phần
dân chúng khác nhau về công lý và bình đẳng. Nguyên nhân dẫn đến xung đột cách mạng
theo Arixtôt gồm ba yếu tố: động cơ tâm lý, mục tiêu của tranh chấp, và các điều kiện dẫn
đến tranh chấp. Động cơ tâm lý chính là những cảm xúc và nhiệt tình đối với sự bình đẳng.
Những kẻ thua thiệt đấu tranh để được bình đẳng với những người khác; những người thuộc
thành phần khá giả đấu tranh để bảo vệ địa vị xã hội của mình. Mục tiêu tranh chấp của cả
hai phe khơng gì khác hơn là “danh” và “lợi”. Danh và lợi cũng động cơ và điều kiện đưa
đến tranh chấp. Những nguyên nhân khác còn kể đến là sự ngạo mạn, sợ hãi, bị đè nén quá
đáng, bị khinh rẻ... Ngoài ra, những sự thay đổi cách mạng cịn có thể xảy ra bằng hai cách,
bằng bạo lực hay âm mưu. Arixtốt tiếp tục phân tích chỉ ra các nguyên nhân đặc thù tạo ra
cách mạng và thay đổi chế độ chính trị, cùng những phương cách bảo vệ chế độ. Sau khi
phân tích xong những nguyên nhân tạo ra thay đổi cách mạng, ông còn chỉ ra phương thức
để bảo vệ hiến pháp. Để bảo vệ một chế độ, Arixtốt đề nghị phải giáo dục quần chúng sao
cho người dân sống và hành động theo đúng tinh thần của hiến pháp tạo dựng ra chế độ.
Việc giáo dục công dân không chỉ nhằm 14 giáo dục họ để thi hành những cái hay, cái đẹp

của chế độ, mà còn là giáo dục để họ biết và tránh làm những điều khiến chế độ suy vong.

Page 13


2.2. QUAN NIỆM CỦA ARIXTÔT VỀ NHÀ NƯỚC TỐT NHẤT:
2.2.1. Quan điểm Arixtơt về hạnh phúc với tính cách là mục đích cao nhất của một nhà
nước tốt nhất:
Theo Arixtốt, hạnh phúc là mục đích cuối cùng của hành vi con người. Hạnh phúc cũng
là tiêu chuẩn của một chính quyền nhà nước tốt nhất. Trong Quyển VII của tác phẩm Chính
trị luận, Arixtốt đưa ra quan niệm về hạnh phúc và con đường mưu cầu hạnh phúc trong nhà
nước tốt nhất. Theo Arixtốt, một đời sống tốt đẹp cần có ba yếu tố, đó là ba cái tốt về vật
chất, thể chất và tinh thần. Arixtôt chỉ ra rằng, một người càng có nhiều hạnh phúc khi đức
hạnh và sự khôn ngoan của anh ta được thể hiện qua hành động càng nhiều. Qua đó, có thể
phân biệt được đâu là vận may, đâu là hạnh phúc. Tiếp đến, Arixtốt chỉ ra điểm giống nhau
trong quan niệm về hạnh phúc của cá nhân và của quốc gia. Arixtôt cho rằng có hai loại: đời
sống thiên về thực tiễn và đời sống thiên về tư tưởng. Tuy nhiên, theo ông, khó có thể nói
đời sống nào là tốt hơn. Cũng theo Arixtơt, hạnh phúc của những nhà chính trị chắc chắn
không phải là chiến tranh và chinh phục. Nhà lập pháp giỏi nên suy xét xem làm thế nào để
cho các nước, các giống dân khác nhau và những cộng đồng có thể sống một đời sống tốt
đẹp, trong đó, hạnh phúc là điều họ có thể đạt được. Tóm lại, hạnh phúc theo Arixtốt được
xem như là một hoạt động đức hạnh và một đời sống hoạt động là đời sống tốt nhất cho cả
quốc gia nói chung và cá nhân nói riêng.
2.2.2. Quan điểm Arixtơt mơ hình nhà nước tốt nhất:
Trong số các mơ hình chính quyền được đề cập đến, Arixtôt đặc biệt chú trọng đến hai
chế độ dân chủ và quả đầu. Arixtôt đã đưa ra 15 những lập luận khá sắc bén để giúp chúng
ta hiểu lý do tại sao hầu hết các chính quyền đều hoặc là dân chủ hoặc là quả đầu. Theo ơng,
dân chủ là hình thức cai trị mà trong đó những người tự do cũng là những người nghèo,
chiếm số đông là nhà cai trị. Chế độ quả đầu là hình thức cai trị mà trong đó những người
giàu có và cao quý cai trị nhưng chỉ chiếm một số ít trong đa số; trong đó, các cơng việc

được giao cho dựa vào thân thế, địa vị. Arixtôt đã chỉ ra rằng chế độ quý tộc (quả đầu) có ưu
điểm khi tầng lớp cai trị là những người ưu tú, nhưng họ chỉ là một thiểu số. Còn chế độ dân
chủ thì có ưu điểm là sự cai trị của số đơng. Tuy nhiên, số đơng cũng có nhược điểm của nó
khi họ là những đám người mà chỉ có sức mạnh thể chất chứ thiếu khôn ngoan nên dễ gây ra
điều nguy hiểm cho đất nước khi cho toàn thể mọi cơng dân tham gia vào chính sự. Từ đó,
Arixtơt đưa ra nhận định rằng chẳng khi nào con người có thể đạt được một nhà nước lý
tưởng (như Platon chủ trương), nhưng con người có thể xây dựng được cho mình một chế
độ tốt nhất có thể được. Đó là một chế độ trung dung, giữa quý tộc (quả đầu) và dân chủ.
Đồng thời, để loại bỏ nguy hiểm khi không cho số đông người nghèo tham gia chính trị,
Arixtơt chủ trương giao cho họ một ít quyền lập pháp và tư pháp, nhưng không giao cho họ
bất cứ chức vụ nào trong chính quyền.
2.2.3. Quan điểm Arixtơt về vai trò và mối quan hệ giữa Hiến pháp và Pháp luật:
Theo ông, hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức, sự phân chia quyền lực của một nhà nước.
Ơng chỉ ra vai trị to lớn của hiếp pháp, 16 pháp luật trong đời sống chính trị của nhà nước
và mối quan hệ giữa hiến pháp với pháp luật, luật pháp phải phụ thuộc vào hiến pháp chứ
không phải ngược lại. Arixtơt đi vào liệt kê các mơ hình chính quyền khác nhau và phân
tích một cách tỉ mỉ những ưu điểm cũng như nhược điểm của các chế độ này, nhất là các
Page 14


biến thể của nó như quả đầu, bạo chúa, và dân chủ. Lý do có nhiều loại chính quyền khác
nhau được ơng giải thích là bởi vì trong mỗi nước có nhiều phần tử khác nhau. Sau khi phân
loại những hiến pháp được là tốt và xấu, ông kết luận rằng, hiến pháp tốt nhất là một hình
thức pha trộn giữa những yếu tố quý tộc và dân chủ. Hiến pháp được xem là bộ luật căn bản
quy định sự phân quyền và tưởng thưởng trong một quốc gia. Sự thành công của một quốc
gia lệ thuộc vào khả năng phân chia quyền lợi đồng đều trong xã hội. Quốc gia sẽ đạt được
công lý nếu sự tưởng thưởng được chia sẻ và quyền lực chính trị được sử dụng trên căn bản
đóng góp cho sự ích lợi của xã hội. Luật pháp của quốc gia phải được đặt căn bản trên các
điều lệ của hiến pháp; các sắc luật vi hiến trở thành vô hiệu lực. Hiến pháp không chỉ phân
định quyền lực chính trị và đưa ra mơ hình chính phủ mà cịn phải phản ảnh lối sống của

nhân dân. Arixtôt quan niệm rằng việc thay đổi hiến pháp hiện hành hay bắt buộc công dân
chấp nhận một hiến pháp mới rất khó khăn. Vì thế cho nên các nhà tham chánh phải cẩn
thận và kiên nhẫn vô cùng khi muốn thuyết phục công dân chấp nhận các ý kiến cải cách
hiến pháp.
2.2.4. Quan điểm Arixtôt về tầng lớp cai trị và sự phân chia quyền lực chính trị trong một
nhà nước tốt nhất
Theo Arixtôt, một cộng đồng chính trị tốt nhất được tạo nên bởi những cơng dân thuộc
giai cấp trung lưu, và những quốc gia có nhiều khả năng được quản trị tốt đẹp là những
nước có thành phần trung lưu đơng đảo. Khi giai cấp trung lưu lớn mạnh khó lịng xảy ra bè
phái và chia rẽ. Ông chỉ ra những tiêu chuẩn mà người nắm chức vụ cao nhất cần có, đó là:
trung thành với cơ cấu chính trị đã được thiết lập với hiến pháp, có khả năng cao để điều
hành chính quyền, có đạo đức cá nhân và tơn trọng cơng lý tương hợp với từng loại chính
quyền. Tầng lớp trung lưu được lựa chọn là phù hợp nhất giữa hai chế độ dân chủ và quả
đầu trong quá trình cai trị đất nước. Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước được thể hiện
trong sự phân tách quyền lực nhà nước thành các loại lập pháp, hành pháp, tư pháp và được
trao cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện. Ba bộ phận này tạo nên cơ sở của mọi
nhà nước và sự khác biệt của thể chế nhà nước quyết định phương thức tổ chức của mỗi bộ
phận đó. Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp không chỉ độc lập với nhau khi thực
hiện chức năng thẩm quyền mà cịn có thể kiềm chế, ngăn cản hoặc đối trọng với nhau trong
hoạt động, khơng có cơ quan nào nằm ngoài sự giám sát kiểm tra của cơ quan khác. Ba
quyền này được ông làm rõ trong quá trình bàn về các phương thức thiết lập chế độ dân chủ
và quả đầu.
2.2.5. Quan điểm của Arixtôt về giáo dục và dân số trong nhà nước tốt nhất
a. Về giáo dục
Trong Chính trị luận, Arixtơt dành ngun chương VIII để bàn về giáo dục. Đó là một
trong những biện pháp của việc tổ chức cộng đồng với mong muốn xây dựng một nhà nước
lý tưởng. Trong chương trình giáo dục phải bao hàm giáo dục thể chất và giáo dục lý trí.
Bên cạnh đó, ơng cịn lựa chọn đưa âm nhạc, hội họa vào chương trình giáo dục trẻ em để
tạo nên sựu hoàn thiện cả về thể chất lẫn tinh thần. Trong triết lý giáo dục Arixtơt, giáo dục
hướng đến sự thư nhàn chiếm vị trí trung tâm và đó là khâu chủ yếu của việc giáo dục nghệ

thuật làm người bởi theo ông, con người chỉ có được hạnh phúc thực sự khi có được sự thư
nhàn. Do đó, những mơn học giúp đạt đến sự thư nhàn thì có giá trị hơn là những môn học
nghề nghiệp. Về hệ thống giáo dục, Arixtôt hướng tới một nền giáo dục thường trực, thường
Page 15


xuyên và liên tục, bao trùm và kéo dài suốt đời người. Trong giáo dục đạo đức, Arixtôt nhấn
mạnh vai trò của thực hành. Bằng tập quán và sự giáo dục tích cực đó, các năng khiếu tự
nhiên của con người sẽ không ngừng được phát triển. Lý thuyết giáo dục của Arixtơt khơng
mất đi tính thời sự của nó. Điều mà ơng nói về vai trị của giáo dục trong xã hội, về một hệ
thống giáo dục thường xuyên và một nền giáo dục cho hồ bình, về sư phạm học đã khiến
cho những người có trách nhiệm đối với nền giáo dục hiện thời phải suy ngẫm. Đặc biệt,
điều đó rất có ý nghĩa đối với việc xây dựng và phát triển nền giáo dục Việt Nam, một nền
giáo dục đang thiếu sự định hướng của tư duy triết học.
b.

Vấn đề dân số

Theo ơng thì dân số là một trong điều kiện cần thiết đầu tiên mà một nhà lãnh đạo một
quốc gia cần. Bởi con số công dân là bằng chứng về sự lớn mạnh của một nước. Và ông
chọn vừa đủ là con số để một nước có thể tự túc trong mọi sinh hoạt vật chất của đời sống
và có thể kiểm tra dân số một cách dễ dàng. Arixtơt đi sâu phân tích về những tính chất mà
người dân cần có trong một nhà nước lý tưởng. Theo ơng, có ba loại người phân chia theo
địa lý: người châu Âu, người châu Á và người Hy Lạp. Về phương diện cấu trúc xã hội,
Arixtôt nhận định rằng cần phân biệt hai thành phần trong xã hội, đó là: thành phần gồm
những cơng dân tham gia tích cực vào sinh hoạt chính trị của đất nước - họ thuộc giai cấp
ưu tú quý tộc, và thành phần thứ hai bao gồm những thành viên phụ của xã hội tức là những
người lao động được gọi là nơ lệ. Mọi xã hội chính trị đều được tạo thành từ những người
cai trị và người bị cai trị. Arixtôt khẳng định mọi công dân nên luân phiên nhau lúc làm dân,
lúc làm quan. Sự bình đẳng gồm có sự đối xử đồng đều với tất cả mọi người. Nhà lập pháp

cần chú trọng giải quyết để một mặt, bảo đảm có người cầm quyền tài giỏi và mặt khác, ai
cũng được luân phiên cầm quyền. Việc hôn nhân cũng là một vấn đề trọng đại trong việc
xây dựng một nhà nước lý tưởng gồm những công dân khỏe mạnh. Về phương diện sinh lý
học, Arixtốt cho rằng thể chất của cha mẹ ảnh hưởng đến thể chất của con cái. Khi con cái
lớn lên, việc giáo dục cần được quan tâm đặc biệt để trẻ em phát triển về thể chất cũng như
đức tính.
→ Tóm lại
Nếu ta xem xét sự vật từ ngọn nguồn, dù sự vật đó là một nhà nước hay cái gì đi nữa, ta
sẽ có được nhận thức rõ ràng nhất về sự vật đó. Thoạt kỳ thủy phải có một sự kết hợp nào
đó giữa những sự vật mà khơng thể hiện hữu được nếu thiếu nhau. Giống đực và giống cái
phải kết hợp để lưu truyền dịng giống có cùng bản tính như chúng; hành vi này khơng phải
do ý thức, nhưng do bản năng tự nhiên có sẵn trong các lồi động vật cũng như thực vật.
Thứ đến, phải có sự kết hợp giữa các phần tử cai trị một cách tự nhiên và các phần tử bị trị
một cách tự nhiên. Những phần tử có khả năng, nhờ sự khơn ngoan biết tính tốn, lo xa, dĩ
nhiên trở thành phần tử cai trị, còn những phần tử mà khả năng chỉ do sức mạnh của thể
chất mang lại, để làm những gì mà phần tử kia hoạch định, là phần tử bị trị; do đó, đương
nhiên ở trong tình trạng nô lệ. Sự kết hợp giữa chủ nhân và nơ lệ được lập thành vì cả hai có
chung quyền lợi [chủ và tớ làm đủ cho nhau]. Thiên nhiên phân biệt rõ ràng sự khác nhau
giữa phụ nữ và nô lệ, và thiên nhiên không hà tiện như gã thợ rèn kia khi đánh con dao
Delphi đa dụng dùng được vào nhiều việc;[ i ] thiên nhiên tạo ra mỗi vật cho một mục đích,
và mỗi dụng cụ sẽ được tạo thành tốt nhất để sử dụng cho một mục đích chứ khơng phải cho
nhiều mục đích. Thế nhưng trong đám những kẻ man rợ [và điều này trái với trật tự tự
nhiên], phụ nữ và nô lệ được coi như nhau .Lý do là vì khơng có phần tử cai trị nào trong
Page 16


bọn họ, và sự kết hợp vợ chồng trở thành cuộc kết hợp giữa người nô lệ nữ và người nơ lệ
nam.
Do đó mà các thi sĩ của chúng ta đã nói: "Cũng là xứng đáng thế thơi, cho người man rợ
làm tơi Hy Lạp" Vì họ nghĩ rằng các kẻ man rợ và nô lệ trời sinh ra như nhau. Từ quan hệ

giữa nam và nữ và quan hệ giữa chủ nhân và nơ lệ, gia đình là kết quả đầu tiên, và thi sĩ
Hesiod đã nói: "Có nhà, có vợ, có trâu đi cày." Con trâu có thể coi như là nơ lệ của người
nghèo vậy. Gia đình là sự quần tụ được thiên nhiên thiết lập nhằm cung ứng cho con người
các nhu cầu thường ngày, và thành viên của gia đình được Charondas gọi là "những người
ăn cùng mâm" và được Epimenides, người đảo Crete, gọi là "những người uống chung
máng." Nhưng khi nhiều gia đình tụ họp lại, và sự quần tụ này nhằm đến mục tiêu cao hơn
là cung cấp cho các nhu cầu hàng ngày, thì xã hội đầu tiên-làng mạc-được thành lập. Và
hình thức tự nhiên nhất của làng mạc là một nhánh từ gia đình, gồm có các con và các cháu
"cùng bú chung bầu sữa." Và đó cũng là lý do tại sao các thị-quốc Hy Lạp (city-state)-cũng
như dân các xứ man rợ khác hiện nay được cai trị bởi các vị vua. Các thị quốc được thành
lập từ những người đã từng được cai trị dưới vương quyền [nghĩa là, họ tụ họp lại từ những
gia đình và làng mạc], và gia đình thì ln có đặc tính qn chủ vì mọi sự do người tộc
trưởng quyết định.
Làng mạc cũng vậy, vì làng mạc cũng do nhiều gia đình tạo nên, nên cũng được cai trị
bởi người lớn tuổi trong gia tộc. Mối quan hệ gia tộc đơn sơ này được Homer miêu tả trong
đoạn thơ về người khổng lồ một mắt (Cyclopes), khi con người còn sống rải rác thành từng
nhóm nhỏ, hệt như những con người thời cổ: "Mỗi người nam là người cai trị của vợ và
con."[ ii ] Sự kiện con người thời cổ do vua cai trị, và thời nay một số dân vẫn còn được vua
cai trị, khiến cho ta xác nhận được là các vị thần thánh cũng được cai trị bởi một ơng vua, vì
họ tưởng tượng ra khơng những hình ảnh của thần thánh, mà còn cách sống của thần thánh
theo như cách họ sinh sống. Khi nhiều làng mạc liên kết lại với nhau thành một cộng đồng
duy nhất và tồn vẹn, một cộng đồng đủ lớn để có thể tự túc được, thì nhà nước (polis) được
khai sinh từ những nhu cầu cơ bản của đời sống, và tiếp tục tồn tại cho một đời sống tốt
đẹp.
Và như thế, nếu các hình thức ban đầu của xã hội là tự nhiên, thì nhà nước cũng vậy, vì
nhà nước là kết quả cuối cùng của mọi xã hội, và tính "tự nhiên" của sự vật chính là chung
cục của nó. Vì ta gọi là tự nhiên khi một sự vật được phát triển đầy đủ tới dạng cuối cùng
củanó, dù đó là một con người, một con ngựa, hay một gia đình. Ngồi ra, kết quả cuối cùng
của một vật là cái tốt nhất, và đạt đến tự túc là kết quả cuối cùng [của một polis] và là cái tốt
nhất. [ iii ] Từ những nhận định trên, nhà nước hiển nhiên nằm trong họ những vật hiện hữu

tự nhiên, và con người, là một động vật mà do bản tính tự nhiên phải sống trong một nhà
nước (con người là một động vật chính trị). Nếu có kẻ nào vì bản tính tự nhiên, chứ khơng
vì tai nạn ngẫu nhiên nào đó, mà chọn sống ở ngồi cộng đồng chính trị, thì kẻ đó hoặc là
chẳng ra gì, hoặc là một siêu nhân hơn người.
Đó là kẻ mà Homer đã lên án là "kẻ đãng tử, vô gia cư, vô luật pháp." Những người như
vậy là những kẻ hiếu chiến, chẳng khác nào một con chốt cô đơn trên bàn cờ. Đến đây ta
thấy, một cách hiển nhiên, con người là một sinh vật chính trị, và là một sinh vật chính trị ở
mức độ cao hơn loài ong hay các loài thú sống bầy đàn khác. Thiên nhiên, như ta thường
nói, khơng làm điều gì vơ ích, và con người là sinh vật duy nhất được ban cho tiếng nói.
[Đọc thêm Rousseau: Nguồn gốc của ngơn ngữ loài người (HVCD)].

Page 17


Mọi lồi đều có khả năng tạo được âm thanh để diễn đạt đau đớn hay sướng khoái: thiên
nhiên cho chúng khả năng cảm nhận đau đớn hay sung sướng và có thể truyền đạt những
cảm nhận này đến đồng loại của chúng; nhưng chỉ đến thế mà thôi. Ngôn ngữ của con người
dùng để chỉ ra điều lợi, điều hại, và cũng tương tự như thế điều gì là cơng chính và thế nào
là bất cơng. Đặc biệt hơn nữa, chỉ con người mới có được ý thức về thiện và ác, về công
bằng và bất công, và về các đức tính khác nữa. Sự phối hợp các sinh vật có ý thức này tạo
nên gia đình và nhà nước. Đến đây ta có thể lý luận thêm rằng [mặc dù cá nhân và gia đình
hiện hữu trước theo thứ tự thời gian] nhà nước lại hiện hữu trước hơn cả cá nhân và gia đình
theo thứ tự tự nhiên.
Lý do của điều này như sau: cái tổng thể luôn nhất thiết phải hiện hữu trước cá thể [theo
tự nhiên]. Nếu cả cơ thể bị tiêu hủy, thì sẽ chẳng còn cái chân hay cái tay nữa, ngoại trừ
theo cái nghĩa mơ hồ mà người ta thường dùng cùng một từ để chỉ các vật khác nhau, như
khi ta nói về một cái tay bằng đá; vì một cái tay khi bị tiêu hủy [khi cả thân thể bị tiêu hủy]
thì có hơn gì một cái tay bằng đá đâu?
Mọi điều có được đặc tính thiết yếu của chúng là nhờ ở chức năng và khả năng của nó.
Từ đó ta có thể suy ra là nếu điều gì đã mất khả năng thực thi chức năng của nó, thì ta khơng

nên nói là nó vẫn là vật như cũ, mà phải nói là, bởi vì sự khơng chính xác [của ngơn từ],
chúng vẫn cịn tên gọi giống nhau. Như vậy, ta thấy nhà nước hiện hữu bởi tự nhiên và có
trước cá nhân. [Chứng cứ của cả hai lập luận này là sự kiện nhà nước là tổng thể, cịn cá
nhân là cá thể].
Mọi cá nhân khơng thể nào tự túc được khi sống cơ lập, bởi vì mọi cá nhân là vô vàn các
cá thể cùng lệ thuộc vào cái tổng thể, là cái mà chỉ có nó mới đem lại sự tự túc cho tất cả.
Một người sống biệt lập, hoặc là vì khơng có khả năng chia sẻ các phúc lợi do sự quần tụ
chính trị đem lại, hoặc khơng cần chia sẻ gì hết vì hắn đã tự đạt được sự tự túc rồi, thì khơng
cịn là một thành phần của nhà nước nữa, và, như vậy, phải hoặc là thú hoặc là thần mà thôi.
[Dù] bản năng xã hội đã được thiên nhiên ban cho con người [từ lúc mới sinh], tuy nhiên, kẻ
nào đầu tiên thiết lập nhà nước vẫn phải được coi là người có cơng lớn nhất. Con người, khi
tồn hảo, là động vật tốt đẹp nhất, nhưng nếu hắn bị cách ly khỏi luật pháp và cơng chính,
thì lại trở nên một động vật xấu xa nhất. Bất công trở nên tệ hại hơn khi đó là sự bất cơng
được vũ trang, vì con người sinh ra có được đôi tay [cũng như ngôn ngữ] để làm cho con
người tốt hơn về đạo đức, nhưng đơi tay cũng có thể được dùng để làm những chuyện xấu
xa.
Đó là lý do tại sao nếu con người khơng có đức hạnh, hắn sẽ trở thành kẻ dã man nhất, đê
tiện nhất, chỉ biết chiều theo nhục dục. Sự cơng chính [chính là sự cứu rỗi của con người]
thuộc về nhà nước; vì cơng chính--sự phân biệt thế nào là cơng bằng, là lẽ phải là trật tự của
một xã hội chính trị.
[i] Delphic knife: một loại dao đa dụng được sản xuất tại Delphi, vùng đất được coi là thánh
địa của cổ Hy Lạp nơi các thần thánh tương giao với con người qua các sấm truyền. Dân Hy
Lạp lũ lượt đi hành hương về Delphi biến nơi này thành một thị tứ, do đó các thợ rèn tại
Delphi đã làm ra loại dao đa dụng này (một hình thức dao pha của ta)
[ii] Homer, trường ca Odyssey.
[iii] Hy lạp thời Aristotle không phải là một nước như ta hiểu ngày nay mà bao gồm nhiều
thành phố tự trị (thị quốc); tiếng Hy lạp là polis, mang đặc tính một cộng đồng chính trị, hơn
là một nhà nước theo nghĩa hiện đại; tuy nhiên, từ chữ polis, các từ liên hệ khác là politikos
(statesman) để chỉ các nhà lãnh đạo chính trị của nhà nước, và politics để chỉ chính trị.


Page 18




CHƯƠNG III: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ ARIXTƠT TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN”

3.1. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ARIXTƠT TRONG TÁC PHẨM
“CHÍNH TRỊ LUẬN”:
3.1.1. Những giá trị
Một là, Arixtơt là người đầu tiên đã coi lý luận chính trị là một khoa học, đã đặt nền tảng
cho một số cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu khoa học trong chính trị học: cách
tiếp cận toàn diện cả lý thuyết và thực tế về mọi mặt của đời sống chính trị.
Hai là, Arixtơt có những đóng góp nhất định trong việc phê phán các lý thuyết về nhà
nước đã tồn tại, nhất là “nhà nước cộng hịa” của Platon.
Ba là, Arixtơt đã khái quát và chỉ ra hình thức nhà nước gồm ba hình thức cơ bản và mỗi
hình thức cơ bản lại được phân ra thành những mơ hình cụ thể. Từ việc xác định rõ ba biến
tướng, thối hóa của ba hình thức nhà nước, Arixtơt thể hiện rõ quan điểm của mình về nền
cai trị mà ơng cho là đúng đắn, phù hợp – chế độ cộng hòa.
Bốn là, trên cơ sở phân tích những ưu điểm cùng hạn chế của mỗi hình thức cai trị và tầng
lớp cai trị, Arixtôt đưa ra chủ trương xây dựng một hình thức chế độ hỗn hợp giữa dân chủ
và quý tộc (quả đầu). Một chế độ hỗn hợp hoàn hảo nên vừa bao gồm cả đặc tính của cả hai
chế độ dân chủ và quả đầu, lại vừa như không có đặc tính của hai chế độ đó.
Năm là, Arixtơt là người đầu tiên phân loại các quyền lực nhà nước, chỉ ra vai trò và mối
quan hệ của hiến pháp và luật pháp, là những vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng
nhà nước pháp quyền hiện nay.
3.1.2. Sự vận dụng những giá trị trong tư tưởng chính trị Arixtơt qua các thời kỳ lịch sử
Arixốt được xem như là người đầu tiên nghiên cứu chính trị như một khoa học. Sau khi
Arixtơt qua đời, có hai sự kiện chứng tỏ ảnh hưởng của Arixtôt trên nền chính trị của

Athens. Sự kiện thứ nhất là Bản Hiến pháp của Athens do Antipater soạn thảo năm 321 sau
khi dẹp xong cuộc nổi dậy của Athens hai năm trước đó. Bản Hiến pháp này phản ảnh tư
tưởng chính trị của Arixtơt và tiếp nối chính sách của Lycurgus như sau: quyền đầu phiếu
giới hạn trong số dân Athens có tài sản từ 2000 drachmas trở lên, nghĩa là giới hạn trong
giới trung lưu; những người có một số tài sản vừa phải và còn trẻ phải làm nghĩa vụ quân
sự.
Sự kiện thứ hai là việc Demetrius, học trò của Arixtơt, lên cai trị Athens và biến những
gì Arixtơt đã dạy tại Lyceum thành luật.
Một trong những tư tưởng chính trị của Arixtơt đã được các nhà tư tưởng sau này như John
Locke, A. Smith, A. Ferguson và đặc biệt là Hêghen kế thừa và vận dụng qua các thời đại
lịch sử, đó là tư tưởng về một cộng đồng chính trị hay cịn gọi là “xã hội cơng dân”.

Page 19


Bên cạnh đó, ảnh hưởng của Arixtơt, khơng chỉ giới hạn tại Hy Lạp hay tại Athens.
Triết lý theo trường phái Arixtôt đã trở thành nền tảng cho triết học duy thực tại phương
Tây. Về phương diện triết lý chính trị, Chính trị luận trở thành kinh điển cho khoa chính trị
học tại phương Tây đến ngày nay.
Tư tưởng của Arixtơt về vai trị tối thượng của pháp luật và mối quan hệ giữa hiến
pháp và pháp luật đã được các nhà nước trên thế giới áp dụng từ thấp đến cao, từ hình thức
quân chủ lập hiến trong thời Cận đại đến nhà nước pháp quyền trong thời đại ngày nay.
Tư tưởng của Arixtôt về một thể chế hỗn hợp giữa chế độ quý 22 tộc và chế độ dân
chủ, vừa đảm bảo được vai trò lãnh đạo của tầng lớp ưu tú trong xã hội, vừa đảm bảo được
sự tham gia chính trị của đơng đảo quần chúng nhân dân đã được nhiều nước phương Tây,
như Anh, Pháp, Mỹ, v,v., áp dụng trong việc xây dựng quốc hội, trong việc bầu cử người
lãnh đạo cao nhất.
3.2. NHỮNG HẠN CHẾ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ARIXTƠT TRONG TÁC PHẨM
“CHÍNH TRỊ LUẬN”:
Thứ nhất, Arixtơt đã tuyệt đối hóa yếu tố tự nhiên bẩm sinh và yếu tố địa lý trong cách

tiếp cận về con người, về giai cấp, nhà nước.
Thứ hai, Arixtôt lại mắc phải sai lầm của thuyết địa lý. Thuyết này đã được nhắc lại trong
thời cận đại và được sử dụng để bào chữa cho chế độ cai trị thuộc địa.
Thứ ba, Arixtơt có những đánh giá tiêu cực về vai trị của nơ lệ và phụ nữ. Theo Arixtôt,
số phận người nô lệ là do thiên nhiên quy định. Theo ông, nô lệ không những là nơ lệ của
người chủ mà cịn là vật sở hữu hồn tồn của người chủ. Đối với vai trị của phụ nữ,
Arixtơt chứng minh rằng vai trị tự nhiên của đàn ông là “làm chủ”, của phụ nữ là “phụ
thuộc”.
Thứ tư, Arixtơt chưa thấy hết vai trị to lớn của quần chúng nhân dân lao động trong nhà
nước nên chưa đánh giá đúng vai trò của chế độ dân chủ, vì thế ơng có thái độ phủ nhận chế
độ dân chủ, coi chế độ dân chủ như là sự cai trị của dân thường, của đám đông hỗn tạp.
Thứ năm, Arixtôt chỉ thấy bản chất tự nhiên và chức năng xã hội của nhà nước, chưa thấy
rõ bản chất và chức năng giai cấp của nhà nước.
Thứ sáu, trong quan điểm về giáo dục Arixtôt chỉ chú trong chức năng rèn luyện nhân
cách, phẩm chất đạo đức, chưa đánh giá đúng chức năng hướng nghiệp của giáo dục, đào
tạo.

Kết luận
Arixtốt là nhà triết học, nhà giáo dục và nhà khoa học đã tạo nên ảnh hưởng hết sức lớn
lao trong nền Văn Minh Tây Phương. Cùng với Platon, Arixtốt được coi là một trong các
nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất. Arixtốt hiểu rõ toàn thể học thuật Hy Lạp của các thời
đại trước, đã cứu xét, tóm tắt, nhận xét và làm phát triển kiến thức của nhân loại, gây ảnh
Page 20



×