Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

luận văn thạc sĩ phương pháp dạy học kịch bản văn học trong trường trung học phổ thông theo đặc trưng loại thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 159 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ

PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC TRONG
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO ĐẶC TRƢNG LOẠI THỂ

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học
(Bộ môn Ngữ văn)
Mã số: 60 14 10

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN KHÁNH THÀNH

HÀ NỘI – 2010

z


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNTT

:

Công nghệ thông tin

HS


:

Học sinh

GV

:

Giáo viên

NXB

:

Nhà xuất bản

SBT

:

Sách bài tập

SGK

:

Sách giáo khoa

SGV


:

Sách giáo viên

PPDH

:

Phương pháp dạy học

THPT

:

Trung học phổ thông

TK

:

Thế kỷ

z


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................


1

2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................

5

3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................

8

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................

8

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................

8

6. Giả thuyết khoa học...............................................................................

9

7. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................

9

8. Cấu trúc luận văn...................................................................................

9


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ..........................................

10

1.1. Quan niệm về loại thể và việc phân chia loại thể ...............................

10

1.1.1. Quan niệm về loại thể .....................................................................

10

1.1.2. Sự phân chia loại thể .......................................................................

10

1.2. Kịch và kịch bản văn học ....................................................................

14

1.2.1. Khái niệm .........................................................................................

14

1.2.2. Những đặc trưng thể loại của kịch ...................................................

16

1.3. Dạy học Ngữ văn theo đặc trưng thể loại ...........................................


25

Chƣơng 2: DẠY - HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC TRONG TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ...................................................................

27

2.1. Vị trí của kịch bản văn học trong trường THPT .................................

27

2.2. Những thuận lợi, khó khăn khi dạy - học kịch bản văn học ở
trường THPT ...............................................................................................

30

2.2.1. Khảo sát tư liệu dạy - học ................................................................

30

2.2.2. Khảo sát văn bản kịch được giảng dạy ............................................

40

2.2.3. Khảo sát về đối tượng dạy và học ....................................................

43

z



Chƣơng 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT VỀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
KỊCH BẢN VĂN HỌC TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI ...........................................

49

3.1. Những tiền đề định hướng tổ chức dạy học kịch bản văn học trong
trường THPT ...............................................................................................

49

3.1.1. Dạy học kịch bản văn học theo quan điểm tích hợp ........................

49

3.1.2. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS qua dạy học
kịch bản văn học trong trường THPT .........................................................

49

3.1.3. Dạy kịch bản văn học theo đặc trưng loại thể ..................................

51

3.1.4. Rèn năng lực quy chiếu ngữ cảnh cho HS thông qua dạy học
kịch bản văn học trong trường THPT .........................................................

54


3.1.5. Phát triển năng lực giao tiếp thẩm mĩ và giao tiếp xã hội cho HS
thông qua việc dạy kịch bản văn học ở trường THPT ................................

57

3.1.6. Vận dụng cơng nghệ thơng tin, các loại hình nghệ thuật kết hợp
trong dạy học kịch bản văn học trong trường THPT ..................................

58

3.2. Những phương pháp dạy học kịch bản văn học trong nhà trường
trung học phổ thông.....................................................................................

60

3.2.1. Phương pháp đọc - hiểu văn bản ......................................................

60

3.2.2. Phương pháp đặt câu hỏi ..................................................................

65

3.2.3. Phương pháp phân tích, cắt nghĩa, bình giá .....................................

67

3.2.4. Phương pháp thảo luận nhóm...........................................................

69


3.2.5. Phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS ................

71

3.3. Hoạt động tổ chức dạy học kịch bản văn học trong trường THPT .....

74

3.3.1. Hoạt động tạo tâm thế ......................................................................

74

3.3.2. Hoạt động tri giác ngôn ngữ văn bản ..............................................

77

3.3.3. Hoạt động phân tích, cắt nghĩa .........................................................

78

3.3.4. Hoạt động bình giá ...........................................................................

81

3.3.5. Hoạt động tự nhận thức thông qua các bài tập vận dụng, thực hành.........

82

3.4. Thiết kế giáo án thể nghiệm .................................................................


83

z


3.4.1. Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Trích) - Lưu Quang Vũ (Lớp 12,
tập 2 - chương trình chuẩn) .........................................................................

83

3.4.2. Tình u và thù hận (Trích Rơ-mê-ơ và Giu-li-ét) - Sếch-xpia
(Lớp 11, tập 1 - chương trình chuẩn) ..........................................................

98

3.5. Thực nghiệm sư phạm ......................................................................... 115
3.5.1. Mục đích, ý nghĩa của thực nghiệm sư phạm .................................. 115
3.5.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ................................................... 116
3.5.3. Phương pháp tiến hành thực nghiệm................................................ 116
3.5.4. Nội dung thực nghiệm ...................................................................... 117
3.5.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ......................................................... 117
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................... 121
1. Kết luận ................................................................................................... 121
2. Khuyến nghị ............................................................................................ 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 124
PHỤ LỤC

z



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trước yêu cầu cấp bách của giáo dục ở bậc THPT trong hệ thống giáo
dục phổ thông ở nước ta hiện nay nhằm vươn tới, đuổi kịp và hoà nhập với xu
thế phát triển giáo dục trung học trên thế giới, trước hết là các nước trong khu
vực, vấn đề đổi mới PPDH đã trở thành một địi hỏi bức thiết, khơng thể trì
hỗn. Định hướng đổi mới PPDH đã được xác định tại Nghị quyết Trung
ương 4 khóa VII (01/1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996),
được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong các chỉ
thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt Chỉ thị số 14 (4/1999).
Với mục tiêu giáo dục phổ thơng là “giúp học sinh phát triển tồn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con ngƣời
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tƣ cách và trách nhiệm công dân; chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” [34, tr. 8]; Chƣơng trình giáo dục phổ thơng ban
hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo cũng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trƣng môn học, đặc
điểm đối tƣợng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dƣỡng cho học sinh
phƣơng pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách
nhiệm học tập cho học sinh” [34, tr. 8].
Dưới ánh sáng của lý luận dạy học hiện đại, PPDH ngày càng tiếp cận
với phương pháp nghiên cứu khoa học. Cuộc cách mạng về PPDH đòi hỏi
phải chuyển dần từ PPDH truyền thống theo kiểu thơng báo, giải thích, minh
hoạ,...- truyền thơng tin sang PPDH tích cực: tổ chức, điều khiển q trình tìm
tịi, phát hiện, chiếm lĩnh thơng tin khoa học.


1

z


PPDH với ý nghĩa đó phải nhằm phát huy cao độ tính tích cực, độc lập,
sáng tạo trong học tập của người học. Có như vậy họ mới hứng thú, say mê
học tập một cách thông minh, đạt chất lượng và hiệu quả cao. Muốn làm được
điều này, chính nhà giáo phải là người có kiến thức rộng, có năng lực sáng tạo
trong công việc, đặc biệt là trong công tác giáo dục, giảng dạy.
Không ai phủ nhận tầm quan trọng, ý nghĩa và tính cấp bách của việc
đổi mới PPDH. Phương pháp sở dĩ tồn tại trong lịch sử lý luận và trong thực
tiễn cuộc sống vì nó vừa là công cụ, vừa là động lực của sự sáng tạo ra cái
mới nhưng để biến nó thành hiện thực khơng phải là chuyện có thể hồn
thành trong một sớm một chiều. Bởi một chủ trương mới dù tiến bộ đến đâu,
khi đi vào thực tế cũng vấp phải những khó khăn.
1.2. Trong những năm gần đây cùng với việc đổi mới PPDH của các bộ môn
khác trong nhà trường phổ thơng, bộ mơn Ngữ văn đã có nhiều chuyển biến
tích cực song thực tế vẫn cịn tồn tại. Trong thực tiễn giảng dạy của thầy vẫn
còn hiện tượng: Thầy truyền thụ kiến thức, trò nghe và ghi chép. Bên cạnh đó
có những giáo viên đã ý thức được tầm quan trọng và vận dụng được phương
pháp dạy học hiện đại vào q trình giảng dạy, tuy nhiên cịn mang tính thử
nghiệm vì thế tính hiệu quả chưa cao. Về thực trạng hoạt động của trò tồn tại
lớn nhất là thói quen thụ động: Nghe - ghi chép và nhắc lại những điều thầy
nói chứ khơng chịu tư duy, độc lập suy nghĩ khám phá cái hay cái đẹp về nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm văn chương qua dẫn dắt của người thầy vì thế
dẫn tới hiện tượng “cảm thụ lại” ở học sinh và còn nhiều học sinh phụ thuộc
hoàn toàn vào tài liệu tham khảo. Ngay cả khi giáo viên đưa ra những tình
huống có vấn đề để người học tìm tịi tự khám phá, lĩnh hội tri thức thì cũng
chỉ nhận lại những ánh mắt “vơ cảm” nơi các em. Hoặc những vấn đề cần

thảo luận học sinh làm việc theo nhóm, nói lên suy nghĩ, cách nhìn nhận của
mình về vấn đề, rồi từ đó khái quát vấn đề - một phương pháp học tập rất tích
cực nhưng chỉ một số rất ít học sinh là thực sự làm việc, hoạt động nhóm số

2

z


cịn lại đều có tâm lý và hành động ỷ vào những người trong nhóm, tham gia
một cách chiếu lệ, thậm chí có những em khơng tham gia.
Xuất phát từ yêu cầu của chiến lược phát triển con người và những địi
hỏi bức bách của cơng cuộc cải cách giáo dục ở nước ta, đặc biệt là đối với bộ
môn Ngữ văn, Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng phát biểu: “... Chúng ta
phải xem lại cách giảng dạy văn trong nhà trƣờng phổ thông của ta, không
nên dạy nhƣ cũ. Bởi vì dạy nhƣ cũ thì khơng những việc dạy văn không hay,
mà việc đào tạo con ngƣời mới cũng khơng có kết quả. Vì vậy dứt khốt
chúng ta phải có cách dạy khác, phải dạy cho học sinh biết suy nghĩ, suy nghĩ
bằng trí óc của mình và diễn tả sự suy nghĩ đó theo cách của mình thế nào
cho tốt nhất”[9]
1.3. Như ta đã biết, văn học là một môn học nghệ thuật, tác phẩm văn học
không những chứa đựng những kiến thức về đời sống, xã hội mà còn gửi gắm
bao điều suy nghĩ trăn trở, những tình cảm của nhà văn với cuộc sống, con
người. Nhiệm vụ của một giáo viên dạy Ngữ văn là phải truyền cho học sinh
những kiến thức cơ bản của một tác phẩm và làm cho các em biết rung động,
biết yêu những cái đẹp trong cuộc sống và con người, “biết tự nhận ra bài
tốn cuộc đời”.
Có nhiều hướng để tiếp cận một tác phẩm văn học nhưng hướng tiếp
cận từ góc nhìn loại thể là một trong những hướng khoa học nhất, hiệu quả
nhất, vừa ý nghĩa về khoa học cơ bản, vừa thiết thực về khoa học sư phạm.

Về khoa học cơ bản, loại thể là một trong những phạm trù cơ bản của
văn học, liên quan mật thiết đến chủ thể sáng tác và quá trình sáng tạo tác
phẩm, đến người đọc và quá trình tiếp nhận; đồng thời loại thể còn là một
phương diện quan trọng trong tiến trình văn học ở mỗi nền văn học.
Tác phẩm văn học nào cũng đều tồn tại trong một dạng thức nhất định.
Đó là sự thống nhất mang tính chỉnh thể của một loại nội dung với những
phương thức biểu đạt và hình thức tổ chức tác phẩm, tổ chức lời văn. Loại thể

3

z


văn học chính là sự phân chia loại hình tác phẩm theo những căn cứ nêu trên,
là sự thống nhất giữa một loại nội dung với một dạng hình thức văn bản và
phương thức tái hiện đời sống.
Về khoa học sư phạm, cấu trúc Chương trình và SGK Ngữ văn hiện
hành là cấu trúc theo hệ thống loại thể, theo kiểu văn bản. Các tác phẩm văn
học trong SGK Ngữ văn THPT được sắp xếp dựa trên sự kết hợp giữa tiến
trình lịch sử văn học với hệ thống loại thể.
Mỗi một loại thể có một đặc điểm riêng và yêu cầu phân tích theo một
phương pháp riêng. Vận dụng đặc trưng của từng thể loại vào giảng dạy là
phương pháp cơ bản, phù hợp với đặc trưng bản chất của văn học và quy luật
tiếp nhận; giúp học sinh cảm thụ, phân tích, chiếm lĩnh tác phẩm như một cấu
trúc hệ thống các phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng
hình tượng nghệ thuật; phát triển, nâng cao năng lực đọc - hiểu tác phẩm có
tri thức văn hoá, văn học cho học sinh. Bên cạnh đó, học sinh biết khám phá
ra ý nghĩa của cuộc sống con người qua tác phẩm, nhằm “dẫn ta đến sự hoàn
thiện của sứ mạng làm ngƣời”
1.4. Là một trong những thể loại chính của văn học tiêu biểu cho một phương

thức phản ánh - phương thức kịch - văn bản kịch chiếm một tỷ lệ rất khiêm
tốn so với các văn bản văn học khác trong chương trình Ngữ văn THPT. Cụ
thể trong chương trình Ngữ văn lớp 11 học sinh được học trích đoạn trong hai
vở kịch Rơ-mê-ơ và Giu-li-ét (Sếch-xpia) và Vũ Nhƣ Tô (Nguyễn Huy
Tưởng), trong chương trình Ngữ văn 12 học sinh được học trích đoạn trong
vở kịch Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ). Thực tế là, kịch bản
văn học chưa có được sự quan tâm đúng mức trong nhà trường THPT. Kinh
nghiệm thưởng thức kịch còn hạn chế, tài liệu viết về kịch không nhiều, và
kịch bản văn học là loại văn bản có những nét đặc thù riêng. Kịch được giảng
dạy trong nhà trường khơng phải với tính chất là một loại hình nghệ thuật.
Chúng ta giảng dạy kịch trên phương diện văn học cịn bản thân nó là một

4

z


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

mơn nghệ thuật tổng hợp, có mối quan hệ chặt chẽ với sân khấu. Việc thưởng
thức một tác phẩm thuộc thể loại kịch không giống với những tác phẩm văn
học khác. Do vậy, việc dạy và học kịch bản văn học là một việc làm không dễ
đối với GV và HS.
Từ những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Phương pháp dạy học
kịch bản văn học trong trường trung học phổ thông theo đặc trưng loại
thể” như một hướng tìm tịi nhằm nâng cao hiệu quả dạy học văn bản kịch
trong nhà trường THPT.
2. Lịch sử vấn đề
Xa rời bản chất loại thể của tác phẩm, thực chất là xa rời tác phẩm cả
về linh hồn và thể xác. Đặc biệt, người thầy dạy văn không chỉ là người chiếm

lĩnh mà còn định hướng giúp người học chiếm lĩnh tác phẩm. Do đó, việc xác
định đặc trưng loại thể của tác phẩm là rất quan trọng. Từ đây, việc giảng dạy
Ngữ văn mới đi đúng quỹ đạo đích thực của nó, mới áp dụng có hiệu quả các
phương pháp, biện pháp, cách thức giáo dục.
Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng loại thể nói chung
và dạy kịch bản văn học theo đặc trưng loại thể nói riêng đã được nghiên cứu
từ lâu, có thể kể tới những cơng trình như:
Cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể của các tác giả
Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lí, Hồng Như Mai, Phan Sĩ Tấn và Đàm Gia Cẩn,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1971. Cuốn sách góp phần làm rõ nhiều vấn đề trong
mối quan hệ giữa loại thể và PPDH Văn. Các tác giả đi sâu vào ba thể loại: tự
sự, trữ tình và kịch, sau đó gợi ý phân tích nhiều thể nhỏ cụ thể như: thơ, biền
văn (hịch, cáo, phú, văn tế,...), truyện, kí, kịch,.... Tác giả Trần Thanh Đạm
khẳng định: “Nhà văn sáng tác theo loại thể thì ngƣời đọc cũng tiếp nhận
theo loại thể và ngƣời dạy cũng giảng dạy theo loại thể... [8, tr. 30]. Giảng
dạy tác phẩm văn học theo loại thể chính là một phƣơng diện lớn của việc
giảng dạy tác phẩm văn học trong sự thống nhất giữa hình thức với nội dung,

luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

5

z


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

một sự giảng dạy đi đúng với quy luật và bản chất của văn học, đồng thời
đảm bảo hiệu quả giáo dục cao nhất [8, tr. 44].
Cũng trong cuốn sách này, tác giả Huỳnh Lý có bài Kịch và giảng dạy

kịch đề cập đến nhiều vấn đề khi giảng dạy kịch: khái niệm về kịch, vị trí của
kịch trong các loại hình nghệ thuật, đặc trưng của kịch mà người giảng dạy
kịch cần chú ý, sự khác nhau giữa bi kịch và hài kịch, q trình phát triển của
kịch nói ở nước ta, những vở kịch trong chương trình văn học cấp III. Từ đó,
tác giả nhận định: “Chúng ta khơng giảng dạy kịch với tính cách là một loại
hình nghệ thuật mà chỉ giảng dạy kịch bản về phƣơng diện văn học [8, tr.
239]. Có thể nói, cuốn sách đã giúp GV thuận tiện hơn khi tiếp cận tác phẩm
văn học từ đặc trưng loại thể.
Tác giả Hoàng Ngọc Hiến trong Năm bài giảng nghiên cứu văn họcNxb Giáo dục, 1996, có bài viết Về một đặc trƣng thể loại của bi kịch trên cơ
sở phân tích về Vua Ơđip của Xôphơdơ, đề cập tới một vở bi kịch cổ đại mà
kết thúc của nó mang tư tưởng lạc quan, thi pháp truyền thống của bi kịch
trong sự phát triển của cốt truyện. Tác giả đã chỉ ra một đặc trưng thể hiện của
bi kịch Hy Lạp cổ đại được minh họa qua vở Vua Ơđip. Ngoài ra bài viết
khơng đề cập gì đến các vở bi kịch sau nó nữa hay cũng như những gợi ý để
giảng dạy vở kịch này.
Với cuốn Cảm thụ và giảng dạy Văn học nƣớc ngoài - Nxb Giáo dục,
2003, tác giả Phùng Văn Tửu đã có những đóng góp quan trọng cho việc dạy
kịch có hiệu quả. Ơng viết: “Khi giảng kịch, chúng ta chú ý đến đặc trƣng của
loại hình nghệ thuật này để học sinh khỏi rơi vào tình trạng thấy học kịch
chẳng khác gì học truyện ngắn hay tiểu thuyết...” [38]. Điều đó có nghĩa là,
ơng muốn nhấn mạnh đến đặc trưng loại thể của kịch khi giảng dạy. Phân tích
một đoạn kịch phải gắn liền với kết cấu, với bối cảnh, không gian, thời gian,
lời thoại nhân vật, hành động, xung đột. Tất cả những yếu tố trên là những

luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

6

z



luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

định hướng ban đầu giúp ta tiếp cận văn bản kịch còn hướng tiếp nhận tác
phẩm kịch theo đặc trưng loại thể thì chưa được chỉ ra rõ ràng, cụ thể.
Tác giả Nguyễn Viết Chữ trong cuốn Phƣơng pháp dạy học tác phẩm
văn chƣơng (theo loại thể) - Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2001 cũng khẳng
định: “Việc xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong quá trình phát triển
khoa học PPDH tác phẩm văn chƣơng” [5, tr. 99]. Từ đây tác giả đưa ra
phương pháp, biện pháp cụ thể dạy học tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, các
tác phẩm văn học nước ngồi. Cịn riêng với tác phẩm kịch, ông mới chỉ dừng
lại ở mức độ khơi gợi chứ chưa đưa thành một chương của cuốn sách.
Trong bài Một số vấn đề đọc - hiểu văn bản kịch (trích trong Đọc hiểu
văn bản Ngữ văn 8 - Nxb Giáo dục, 2009), tác giả Nguyễn Trọng Hồn đã nói
đến khái niệm kịch, những đặc trưng của kịch và khẳng định: “Đọc - hiểu văn
bản kịch cần chú trọng nhiều phƣơng diện thuộc về đặc trƣng của thể loại
này: từ loại hình nhân vật, bối cảnh trang trí sân khấu, các hƣớng dẫn trực
tiếp về cử chỉ, hành động, các lớp nghĩa của lời thoại, các yếu tố phụ hoạ, các
u tố có tính ƣớc lệ,.... Tiếp nhận văn bản kịch bản văn học hết sức ƣu tiên
tính kịch.” [15, tr. 9-10].
SGV Ngữ văn 11, chƣơng trình nâng cao, tập 1 - Nxb Giáo dục, 2007
định hướng: Giáo viên “cần chú ý đến đặc trƣng của kịch trong quá trình
hƣớng dẫn đọc - hiểu, nhất là trong chƣơng trình THPT, kịch là thể loại văn
học mà học sinh chƣa có điều kiện để học nhiều” [50, tr. 201].
Tài liệu Bồi dƣỡng GV thực hiện chƣơng trình, SGK lớp 11 môn Ngữ
văn - Nxb Giáo dục, 2007, cũng nêu rõ: “Khi giảng kịch, phải làm sao để học
sinh cảm nhận đƣợc đặc trƣng của thể loại, tránh học kịch mà nhƣ học tiểu
thuyết hay truyện ngắn...” [54, tr. 192]
Rõ ràng, phân tích một tác phẩm văn chương không thể không chú ý tới
đặc trưng loại thể của nó. Ý thức về loại thể giúp người dạy, người học định


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

7

z


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

hướng đúng mục tiêu chính của việc phân tích tác phẩm văn học. Tùy thuộc
vào thể loại, thể tài của đối tượng phân tích mà tìm cách tiếp cận cho phù hợp.
Trên cơ sở tiếp thu những người đi trước tơi muốn tìm hiểu và đề xuất
vấn đề cụ thể hơn, đó là Phƣơng pháp dạy học kịch bản văn học trong
trƣờng trung học phổ thông theo đặc trƣng loại thể.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tìm hiểu đặc trưng của thể loại kịch, khảo sát về việc dạy - học
kịch bản văn học trong trường THPT, luận văn đề xuất những PPDH kịch bản
văn học từ đặc trưng loại thể nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy - học
mơn Ngữ văn nói chung và dạy - học kịch bản văn học trong trường THPT
nói riêng theo tinh thần đổi mới.
Nghiên cứu vấn đề này cũng là cách thức tơi tự học hỏi, trau dồi kinh
nghiệm để hồn thành tốt nhiệm vụ được giao trong sự nghiệp trồng người.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, những nhiệm vụ sau cần được giải quyết:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát về việc dạy - học kịch bản văn học trong trường THPT.
- Đề xuất những PPDH kịch bản văn học trong trường THPT.
- Hiện thực hóa các PPDH kịch bản văn học bằng hệ thống hoạt động tổ chức
dạy học.

- Thiết kế giáo án thể nghiệm
- Kiểm chứng về mức độ đạt được khi áp dụng những PPDH kịch bản văn học
theo đặc trưng loại thể qua thực nghiệm giảng dạy.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng
Trên cơ sở nghiên cứu về đổi mới PPDH và chương trình Ngữ văn
THPT, đối tượng mà đề tài hướng tới là PPDH kịch bản văn học trong trường
THPT theo đặc trưng loại thể.

luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

8

z


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

5.2. Phạm vi khảo sát
- Trích đoạn:
+ Tình u và thù hận - trích vở kịch Rơ-mê-ơ và Giu-li-ét của Sếch-xpiaNgữ văn 11.
+ Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trích Vũ Nhƣ Tô của Nguyễn Huy Tưởng - Ngữ
văn 11.
+ Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt - trích trong vở kịch cùng tên của Lưu
Quang Vũ - Ngữ văn 12.
- Đối tượng khảo sát:
+ GV và HS trường THPT Ngô Quyền - quận Lê Chân - Hải Phòng
+ GV và HS trường THPT Hải An - quận Hải An - Hải Phịng.
6. Giả thuyết khoa học
Có thể phát huy được tối đa năng lực tiếp nhận văn chương của HS,

nâng cao chất lượng dạy - học kịch bản văn học nếu áp dụng những phương
pháp giảng dạy kịch bản văn học trong trường THPT theo đặc trưng loại thể.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Sử dụng nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết (phương pháp phân
tích, tổng hợp, nghiên cứu lý luận,...)
- Sử dụng những phương pháp nghiên cứu thực tiễn (phương pháp điều tra,
phương pháp so sánh, phương pháp thực nghiệm sư phạm,...)
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Dạy - học kịch bản văn học trong trường trung học phổ thông.
Chương 3: Những đề xuất về phương pháp dạy - học kịch bản văn học
trong trường trung học phổ thông.

luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

9

z


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Quan niệm về loại thể và sự phân chia loại thể
1.1.1. Quan niệm về loại thể
Loại thể văn học (người phương Tây gọi là “genre”, người Trung Quốc
gọi là “thể tài”) là một hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học. Tác phẩm

văn học nào cũng có một hình thể, có một “thể” cấu tạo, thể thức ngôn từ nhất
định.
Loại thể văn học hình thành trong quá trình lịch sử văn học cụ thể. Lúc
đầu cịn thơ sơ, chưa trọn vẹn, qua quá trình vận dụng lặp đi lặp lại, các thể
loại mới định hình và hồn thiện, trở thành những mẫu mực nhất định. Các
mẫu mực đó một khi đã hình thành thì có tính ổn định và khn mẫu, được
mọi người vận dụng vào sáng tác. Trong phạm vi của mình các thể loại lại
cũng rất đa dạng, chúng phân biệt với nhau bằng các tiểu loại.
Mỗi loại thể tiêu biểu cho một hình thức giao tiếp với người đọc.
Không phải ngẫu nhiên mà sau khi sáng tác xong một tác phẩm, tác giả trân
trọng ghi tên thể loại vào tác phẩm. Ghi như vậy nhằm thông báo cho người
đọc nội dung và hình thức giao tiếp đặc trưng của tác phẩm.
Sự phân loại là một yêu cầu không thể thiếu để nhận thức các hiện
tượng phức tạp, muôn vẻ của thế giới và cả của văn học.
1.1.2. Sự phân chia loại thể
Trong quá trình phát triển lâu dài của văn học, loại thể là một yếu tố
mà bên cạnh mặt biến động đổi thay lại có những yếu tố tương đối ổn định.
Các tác phẩm của nhiều tác giả, ở nhiều thời đại, quốc gia đều khác nhau về
nội dung, tư tưởng nhưng có những mặt gần gũi về điệu cảm xúc của tâm hồn,
về ý thức biểu hiện thế giới nội tâm của tác giả. Những yếu tố tương đồng và
tương đối ổn định đó trong văn học biểu hiện nhiều mặt và loại thể văn học là
một yếu tố quan trọng.

luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

10

z



luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

Loại thể văn học thuộc về ý thức, về cách thể hiện cuộc sống trong văn
học cũng như cách cấu tạo và biểu hiện nội dung trong tác phẩm văn học cụ
thể. Tác phẩm văn học tồn tại trong những hình thức của các loại thể văn học.
Khơng có tác phẩm nào tồn tại ngồi hình thức quen thuộc của loại thể. Phân
tích một tác phẩm về nội dung cũng như nghệ thuật không thể xem nhẹ đặc
trưng loại thể.
Loại thể văn học là phạm trù phân loại các tác phẩm văn học vốn đa
dạng, đồng thời có sự giống nhau, từng nhóm một, theo một số dấu hiệu nhất
định. Theo Trần Thanh Đạm, loại thể bao gồm loại (loại hình) và thể (thể tài).
Theo Nguyễn Thị Dư Khánh, loại thể gồm loại (loại hình) và thể (thể thơ, thể
văn). Từ đây, chúng ta có thể hiểu một cách thống nhất về loại thể. Chúng
gồm các nhóm lớn nhất là loại, mỗi loại có những nhóm nhỏ hơn là thể (hoặc
thể loại, thể tài).
Các loại thể văn học đã nhiều lại luôn ở trong sự vận động, thay đổi,
pha trộn vào nhau. Trong tiến trình đời sống, một số loại thể do khơng thích
hợp đã bị loại bỏ, một số loại thể mới nảy sinh và thay thế. Các hiện tượng đó
làm khó cho cơng việc phân loại. Tiêu chí phân loại cũng rất nhiều. Phân loại
về ngôn ngữ, về phương thức cấu tạo hình tượng, về dung lượng dài ngắn.
Các tiêu chí làm cho việc phân loại khơng khỏi chồng chéo, và nhìn chung sự
phân loại chỉ có thể mang tính chất tương đối.
Cho đến nay phổ biến vẫn tồn tại cách chia ba và cách chia bốn. Cách
chia ba có từ thời cổ đại, từ thời Aristote, văn học được chia làm ba loại: tự
sự, trữ tình, kịch. Cách chia bốn xuất hiện muộn hơn, chia văn học làm bốn
loại: thơ ca, tiểu thuyết, kịch, kí (tản văn).
Sự phân chia văn học thành ba loại cơ bản: tự sự - trữ tình - kịch, căn
cứ vào phương thức phản ánh hiện thực và biểu hiện tư tưởng của hình tượng
đã được nêu lên từ rất sớm, ngay trong lý luận nghệ thuật của thời kỳ cổ đại.
Người đầu tiên đặt vấn đề một cách tương đối hoàn chỉnh về lý luận là


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

11

z


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

Aristote (384-322 trước Công lịch). Trong tác phẩm Nghệ thuật thơ ca, phát
triển lý luận văn học “mô phỏng” cuộc sống, Aristote nêu ba phương thức
“mô phỏng”: “hoặc kể về một sự kiện, coi nhƣ một cái gì tách biệt với mình,
hoặc là ngƣời mơ phỏng nhân danh mình mà kể, hoặc là giới thiệu tất cả các
nhân vật nhƣ những ngƣời đang hành động và hoạt động” [1, tr. 38].
Vào TK XIX, nhà lý luận văn học Nga là Bêlinxki cũng chia tác phẩm
văn học thành ba loại: tự sự, trữ tình, kịch. Ơng cho rằng, chia thơ ca (văn
học) làm ba loại: tự sự, trữ tình, kịch là xuất phát từ ý nghĩa của việc nhận
thức chân lý, cũng tức là trên tinh thần nhận thức - xuất phát từ mối quan hệ
qua lại giữa chủ thể với đối tượng - khách thể nhận thức. Thơ trữ tình biểu
hiện phương diện chủ quan của một con người, đem con người bên trong phơi
bày ra trước mắt chúng ta, do đó tồn bộ là cảm xúc, tình cảm, âm nhạc. Thơ
tự sự là miêu tả khách quan một sự kiện đã hoàn thành, là nhà nghệ sĩ đã chọn
cho chúng ta một điểm thích hợp nhất để bày tỏ tất cả mọi phương diện, làm
thành một bức tranh cho chúng ta xem. Thơ kịch là sự điều hòa hai phương
diện trên, chủ quan, trữ tình và khách quan, tự sự. Trình bày ra trước mắt
chúng ta, khơng phải là sự kiện đã hoàn thành, mà là đang thực hiện; không
phải nhà thơ đang thông báo sự việc cho ta, mà là từng nhân vật xuất hiện nói
với chúng ta. Từ truyền thống trên, trong lý luận văn học phương Tây thịnh
hành cách chia văn học làm ba loại. Theo truyền thống đó, loại tự sự bao gồm

các thể loại sử thi (anh hùng ca), thơ tự sự (truyện thơ), tiểu thuyết…; loại trữ
tình bao gồm các thể loại như thơ trữ tình, văn xi trữ tình; loại kịch bao
gồm bi kịch, hài kịch, chính kịch…
Dựa theo tiêu chí loại hình nội dung thể loại, nhà nghiên cứu Nga G.
Pospelov lại chia ra các loại thần thoại, sử thi, thế sự và đời tư. Dựa theo tiêu
chí miêu tả cuộc sống đã hoàn thành và chưa hoàn thành, nhà nghiên cứu M.
Bakhtin đưa ra các thể loại văn học sử thi và các thể loại tiểu thuyết.

luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

12

z


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

Ở Trung Quốc và Việt Nam từ xưa, do quan niệm văn sử bất phân,
người ta chia văn học ra làm hai loại chính theo hình thức ngơn từ là thơ và
văn. Các tuyển tập văn học lớn trong lịch sử văn học cũng chia ra như thế, ví
dụ như Hoàng Việt thi tuyển, Hoàng Việt văn tuyển do Bùi Huy Bích (17441818) soạn. Cho đến những năm 60 thế kỉ XX xuất hiện bộ Hợp tuyển thơ văn
Việt Nam do nhiều học giả chủ trì, sau đó xuất hiện bộ Thơ văn Lí Trần do
Viện Văn học chủ trì. Các tên sách đều cho thấy quan niệm chia hai mảng văn
thơ rất thịnh hành.
Ở Trung Quốc hiện đại thịnh hành lối chia bốn. Theo đó loại thơ gồm
thơ trữ tình, thơ tự sự, sử thi (anh hùng ca). Các tác phẩm tự sự, văn xuôi đều
được gọi bằng một cái tên chung là tiểu thuyết, như tiểu thuyết truyền kì, tiểu
thuyết chương hồi v.v.. hai loại cịn lại là kịch và tản văn. Khái niệm tản văn
của Trung Quốc bao gồm các tác phẩm văn xuôi cổ như tản văn lịch sử, tản
văn nghệ thuật, các bài du kí, bút kí, tùy bút, kí sự, tạp văn… Ở Việt Nam sử

dụng cả cách chia ba và cách chia bốn. Cách chia bốn gồm thơ ca (chỉ chủ
yếu là thơ trữ tình), truyện (gồm cả tiểu thuyết và truyện thơ), kịch và kí. Khái
niệm kí nghiêng về các tác phẩm viết về người thật, việc thật, cốt truyện
không được quan tâm như truyện. Loại này cũng bao hàm các tác phẩm văn
xuôi nghệ thuật như tản văn, tùy bút…
Việc phân chia các tác phẩm văn học ra làm ba loại hình cơ bản, như
trên đã nói, là căn cứ vào thiên hướng chủ đạo của phương thức phản ánh và
biểu hiện của tác phẩm. Do đó sự phân chia này chỉ là trên lý luận và có tính
chất tương đối. Trên thực tế cụ thể, sinh động của tác phẩm, các loại tự sự, trữ
tình và kịch thường thâm nhập vào nhau, kết hợp với nhau, đảm bảo những
khả năng vô tận trong việc miêu tả hiện thực cuộc sống, bộc lộ nội tâm con
người, làm cơ sở để nảy sinh nhiều thể tài văn học khác nhau. Cho nên trong
thực tiễn, không nên xác định và khẳng định một cách tuyệt đối một tác phẩm
nào đó chỉ là tự sự, chỉ là trữ tình hoặc chỉ là kịch. Thường thường trong tác

luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

13

z


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

phẩm tự sự có bao hàm những yếu tố trữ tình và ngược lại, trong tác phẩm trữ
tình vẫn có yếu tố tự sự, cịn trong kịch thì thường kết hợp cả hai. Sự kết hợp
đó là yêu cầu có tính quy luật của sự sáng tác văn học và nhiều khi đó là dấu
hiệu về phẩm chất nghệ thuật của một tác phẩm. Và ranh giới giữa ba loại
không phải tuyệt đối rạch rịi, dứt khốt. Khi xác định một tác phẩm thuộc
loại này hay loại kia là chúng ta căn cứ vào đặc trưng loại thể chủ đạo của nó

mà thơi đồng thời phải thừa nhận khả năng các yếu tố thuộc loại thể khác vẫn
song song tồn tại trong tác phẩm.
1.2. Kịch và kịch bản văn học
1.2.1. Khái niệm
Trong Từ điển thuật ngữ văn học - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi - Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1997, thuật ngữ kịch được dùng
theo hai cấp độ:
Ở cấp độ loại hình: “ Kịch là một trong ba phƣơng thức cơ bản của văn
học (Kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu lại vừa thuộc văn học.
Kịch bản vừa dùng để diễn tả là chủ yếu lại vừa để đọc vì kịch bản chính là
phƣơng diện văn học của kịch. Theo đó tiếp nhận kịch bản chính là phƣơng
diện của văn học kịch” [11, tr. 142].
Ở cấp độ loại thể: “Thuật ngữ kịch đƣợc dùng để chỉ một thể loại văn
học - sân khấu có vị trí tƣơng đƣơng với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này
kịch còn đƣợc gọi là chính kịch” [11, tr. 142].
Kịch thực ra khơng phải là một thể loại văn học đơn thuần. Một tác
phẩm kịch có thể đọc nhưng chủ yếu là để diễn trên sân khấu. Có thể nói một
vở kịch có hai cuộc đời: cuộc đời của nghệ thuật ngôn ngữ (kịch bản) và cuộc
đời của nghệ thuật sân khấu (diễn xuất). Chỉ khi được diễn trên sân khấu, vở
kịch mới được sống cuộc đời trọn vẹn của nó. Khơng đưa lên sân khấu, kịch
chỉ là “một linh hồn không thể xác” (Gôgôl).

luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the

14

z


luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the


Kịch là phương thức đặc biệt để tái hiện hiện thực cuộc sống và biểu
hiện tư tưởng nhà văn, tức là phản ánh và biểu hiện bằng ngôn ngữ và hành
động trực tiếp của các nhân vật trong các tình huống của cuộc sống “tự bản
thân nó, khơng cần sự dẫn dắt của tác giả” [22, tr. 133]. Khác với tác phẩm
loại tự sự, trong tác phẩm kịch tác giả khơng thể ln ln có mặt cùng với
nhân vật (hoặc ẩn hoặc hiện) để khi cần thì giới thiệu, thuyết minh, giải thích
mọi hành động, cử chỉ, tâm trạng, ý nghĩ của nhân vật trong kịch, mọi việc
phải tự nó bộc lộ ra. Tính chất khách quan của sự phản ánh và biểu hiện ở tác
phẩm kịch chặt chẽ, nghiêm khắc hơn ở tác phẩm tự sự.
Khi đưa kịch lên sân khấu, để giúp cho sự biểu diễn được tốt, người ta
phải huy động sự giúp sức của nhiều bộ mơn nghệ thuật: âm nhạc, trang trí,
ánh sáng... Bên cạnh nhà văn - người sáng tác, kịch bản, các đạo diễn, diễn
viên cũng góp phần quan trọng vào sự thành cơng của một vở kịch. Nên có
thể khẳng định kịch là một loại hình nghệ thuật có tính chất tổng hợp. Tuy
nhiên, là một trong những thể loại chính của văn học với đầy đủ các đặc trưng
riêng trong cấu trúc hình tượng, trong phương thức biểu hiện, trong ngơn ngữ
nghệ thuật, người ta vẫn có thể thưởng thức tác phẩm kịch bằng cách đọc kịch
bản văn học. Khơng có kịch bản thì khơng có kịch. Kịch bản là linh hồn của
một vở kịch.
Có thể xem “kịch”, “kịch bản văn học” hay “văn học kịch” như những
khái niệm đồng nghĩa. Bởi kịch bản văn học vừa thuộc nghệ thuật sân khấu,
vừa thuộc nghệ thuật ngôn từ. Là vở diễn sân khấu, nó sống với cơng chúng
khán giả. Là tác phẩm văn học, nó sống với cơng chúng độc giả. Cho nên, có
thể bàn về đặc trưng của kịch bản như là một thể loại văn học. Nhưng muốn
xác định được đặc trưng thể loại của kịch bản văn học thì phải tính đến sự chi
phối của nghệ thuật sân khấu.

luan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.theluan.van.thac.si.phuong.phap.day.hoc.kich.ban.van.hoc.trong.truong.trung.hoc.pho.thong.theo.dac.trung.loai.the


15

z



×