Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

dạy học tác phẩm nghị luận trong chương trình ngữ văn 12 theo đặc trưng loại thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.61 KB, 118 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






PHẠM THUÝ HẰNG





DẠY HỌC TÁC PHẨM NGHỊ LUẬN
TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12
THEO ĐẶC TRƢNG LOẠI THỂ







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC













Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






PHẠM THUÝ HẰNG




DẠY HỌC TÁC PHẨM NGHỊ LUẬN
TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12
THEO ĐẶC TRƢNG LOẠI THỂ



Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY - HỌC VĂN TIẾNG VIỆT

Mã số: 60.14.10



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC





NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Gia Cầu






Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới Tiến
sĩ Nguyễn Gia Cầu, người thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình
thực hiện và hoàn thành luận văn này.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo của khoa Ngữ văn và khoa
Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ
em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp, các em học sinh ở các
trường thực nghiệm đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận
văn này.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010
Tác giả luận văn



Phạm Thuý Hằng








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GV: Giáo viên
HS: Học sinh
THCS: Trung học cơ sở

THPT: Trung học phổ thông
CT – SGK: Chƣơng trình – Sách giáo khoa
TPNL: Tác phẩm nghị luận
VBNL: Văn bản nghị luận
TPVC: Tác phẩm văn chƣơng
TTC: Tính tích cực
THCVĐ: Tình huống có vấn đề







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU Trang
1. Lí do chọn đề tài 4
2. Lịch sử vấn đề 6
3. Mục đích nghiên cứu 10
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 11
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 11
6. Phƣơng pháp nghiên cứu 11
7. Kết cấu của luận văn 12
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC TPNL
THEO ĐẶC TRƢNG LOẠI THỂ

1.1. Tác phẩm nghị luận 14
1.1.1. Khái niệm TPNL 14
1.1.2. Đặc trƣng của TPNL 17
1.1.3. Những yếu tố cấu thành TPNL 19
1.1.3.1. Những yếu tố nghị luận 19
1.1.3.2. Những yếu tố khác 22
1.4. Phân loại TPNL 25
1.2. Định hƣớng dạy học TPNL trong trƣờng phổ thông 25
1.2.1. Đảm bảo đặc trƣng của phân môn Văn trong quá trình dạy học TPNL 26
1.2.2. Đảm bảo đặc trƣng về loại thể trong quá trình dạy học TPNL 28
1.2.2.1. Khái quát chung về loại thể 28
1.2.2.2. Dạy học theo đặc trƣng loại thể 29
1.2.2.3. Dạy học TPNL theo đặc trƣng loại thể 31
1.2.3. Đảm bảo nguyên tắc tích hợp trong quá trình dạy học TPNL 33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
1.2.3.1. Khái quát về nguyên tắc tích hợp 33
1.2.3.2. Nguyên tắc tích hợp trong môn Ngữ văn 33
1.2.3.3. Thực hiện tích hợp trong dạy học TPNL 36
1.2.4. Đảm bảo tính tích cực trong quá trình dạy học TPNL 38
1.2.4.1. Tính tích cực 38
1.2.4.2. Phƣơng pháp dạy học tích cực 39
1.2.4.3. Đọc hiểu TPNL theo hƣớng tích cực 39
Chương 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC TPNL THEO ĐẶC TRƢNG
LOẠI THỂ TRONG CÁC TRƢỜNG THPT Ở QUẢNG NINH
2.1. Khảo sát nội dung CT – SGK Ngữ văn THPT hiện hành 44
2.2. Khảo sát hoạt động dạy TPNL của GV trong giờ học chính khoá 46
2.2.1. Giáo viên với việc dạy TPNL theo đặc trƣng loại thể 48
2.2.2. Giáo viên với việc định hƣớng tích hợp cho bài dạy 51

2.2.3. Giáo viên với việc tổ chức giờ học TPNL 57
2.3. Khảo sát thực tiễn việc học TPNL của học sinh 62
2.3.1. Hứng thú của HS với việc học TPNL 63
2.3.2. Học sinh với việc đọc hiểu TPNL 65
2.3.3. Trình độ hiểu biết của HS về TPNL 66
2.3.4. Những khó khăn và nguyện vọng của HS khi tiếp nhận TPNL 71
Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY
HỌC TPNL TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 VÀ THỰC
NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học TPNL trong chƣơng
trình Ngữ văn 12 73
3.1.1. Hình thành và bồi dƣỡng kĩ năng đọc hiểu văn bản nghị luận cho HS 73
3.1.2. Sử dụng linh hoạt các dạng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực, sáng
tạo của HS trong dạy học TPNL 77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
3.1.3. Khơi dậy hứng thú học tập của HS trong quá trình tiếp nhận TPNL 79
3.2. Thực nghiệm sƣ phạm 85
3.2.1. Mục đích thực nghiệm 85
3.2.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm 85
3.2.3. Kế hoạch và cách thức thực nghiệm 86
3.2.4. Nội dung thực nghiệm 87
3.2.5. Thiết kế thực nghiệm 87
3.2.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm 99
3.2.6.1. Những căn cứ để đánh giá kết quả thực nghiệm 99
3.2.6.2. Kết quả thực nghiệm 99
3.2.6.3. Nhận xét kết quả thực nghiệm 103
PHẦN KẾT LUẬN 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 107

PHỤ LỤC













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Dạy học TPNL trong trƣờng phổ thông là một vấn đề đã đƣợc các
nhà sƣ phạm quan tâm từ lâu. Ngay từ những năm 70 của thế kỉ XX đã có
công trình nghiên cứu của nhóm tác giả: Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý, Hoàng
Nhƣ Mai, Phạm Sĩ Tấn và Đàm Gia Cẩn bàn về vấn đề này. Công trình mang
tên: “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể”. Từ đó đến nay, đã
có nhiều cuốn sách, bài báo đề cập đến vấn đề dạy học TPNL. Song, những
tài liệu nghiên cứu chuyên sâu vẫn chƣa thực sự phong phú. Thực tế này đòi
hỏi phải có những nghiên cứu mang tính cấp thiết về lí luận và thực tiễn giảng
dạy TPNL.
1.2. Một trong những điểm mới của Chƣơng trình, SGK Ngữ văn

THPT hiện nay: tác phẩm nghị luận chiếm một vị trí quan trọng. Khác với lối
văn hình tƣợng, văn nghị luận không dùng hƣ cấu, không dựa vào trí tƣởng
tƣợng mà dựa vào tƣ duy lô gic nhằm trình bày tƣ tƣởng, quan điểm nào đó
của ngƣời viết. Sức mạnh và sự thuyết phục của nó là ở lập luận chặt chẽ, lí lẽ
sắc bén và luận cứ xác đáng. Nếu lối văn hình tƣợng nhằm kích thích trí
tƣởng tƣợng, xây dựng óc quan sát tinh tế với tình cảm chân thực, những
khám phá hồn nhiên về thiên nhiên, về đời sống gia đình, xã hội thì văn nghị
luận nhằm hình thành và phát triển cho HS khả năng lập luận chặt chẽ, trình
bày những lí lẽ và dẫn chứng một cách sáng sủa, giàu sức thuyết phục, diễn tả
những suy nghĩ và nêu ý kiến riêng của mình về một vấn đề nào đó trong
cuộc sống hoặc trong văn học nghệ thuật. Có thể nói: mỗi tác phẩm nghị luận
chính là những nguyên mẫu để HS học tập cách làm văn nghị luận.
Đề tài của TPNL nói chung và TPNL trong SGK THPT nói riêng rất
phong phú, đa dạng, đề cập đến những vấn đề thời sự quan trọng về chính trị,
văn hoá, xã hội của đất nƣớc, cộng đồng. Sự phong phú, đa dạng; tính cập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
nhật của đề tài nghị luận trong chƣơng trình Ngữ văn phổ thông đã thể hiện rõ
quan điểm dạy học văn gắn với thực tế đời sống, rút ngắn khoảng cách giữa
văn học nhà trƣờng và đời sống xã hội. Vì vậy, dạy học TPNL có tác dụng rất
lớn trong việc bồi dƣỡng cho HS ý thức trách nhiệm đối với cuộc sống; nâng
cao nhận thức, hiểu biết về những vấn đề chính trị, xã hội, văn hoá.
Với mục tiêu chủ yếu: hình thành và rèn luyện cho HS năng lực đọc
hiểu cũng nhƣ tạo lập các loại văn bản, chƣơng trình Ngữ văn THPT lựa chọn
văn bản tác phẩm theo thể loại và tổ chức dạy học theo đặc trƣng thể loại. Với
đặc trƣng riêng của mình, TPNL đòi hỏi phải có cách tiếp cận riêng, theo
đúng đặc trƣng loại thể.
Những TPNL đƣợc đƣa vào chƣơng trình Ngữ văn 12 đều là TPNL
hiện đại. Ngoài những đặc điểm chung của văn nghị luận, TPNL hiện đại còn

mang đặc trƣng riêng về mục đích, chức năng, kết cấu. Nhƣ vậy, hƣớng khai
thác và tổ chức dạy học sẽ có những nét khác biệt so với TPNL trung đại.
1.3. Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy việc dạy học TPNL còn
nhiều điểm bất cập. Nhiều HS không thích học TPNL vì: TPNL vừa khô, vừa
khó hiểu. Trạng thái tâm lí đó khiến giờ học nặng nề, tẻ nhạt, ít hứng thú. Về
phía GV, một số còn ngại dạy, thậm chí tỏ ra lúng túng khi dạy TPNL do
chƣa nắm chắc đặc trƣng, chƣa xuất phát từ những đặc trƣng của TPNL để
khai thác một cách thấu đáo những đặc sắc về nội dung và hình thức của
TPNL, chƣa cảm nhận hết vẻ đẹp, chƣa thấy đƣợc vai trò quan trọng của áng
văn nghị luận trong việc rèn luyện kĩ năng lập luận, giáo dục nhân cách cho
HS. Khó khăn đặt ra không chỉ với việc phát huy tính tích cực học tập, với
quá trình tiếp nhận TPNL của HS mà với cả quá trình dạy TPNL của GV.
Rõ ràng, việc dạy học TPNL không hề đơn giản. Dạy học TPNL nhƣ thế
nào để đảm bảo đúng đặc trƣng loại thể, khơi dậy hứng thú học tập của HS,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
qua đó giáo dục, rèn luyện khả năng tƣ duy, kĩ năng làm văn nghị luận cho
HS. Đó là điều trăn trở của nhiều GV dạy Ngữ văn.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy, từ tầm quan trọng của việc dạy học TPNL,
chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Dạy học TPNL trong chương
trình Ngữ văn 12 theo đặc trưng loại thể”, với mong muốn đóng góp một
phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả dạy học TPNL trong chƣơng trình Ngữ
văn 12.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Văn nghị luận là một thể văn ra đời từ rất lâu. Ở Trung Hoa, văn
nghị luận có từ thời Khổng Tử (551- 479 TCN). Ở nƣớc ta, văn nghị luận
cũng là một thể loại có truyền thống lâu đời, có giá trị và tác dụng hết sức to
lớn trong trƣờng kì lịch sử, trong công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc. Có thể
kể từ Chiếu dời đô (1010) của Lí Công Uẩn, Hịch tƣớng sĩ (1285) của Trần

Quốc Tuấn cho đến Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi, từ Bài tựa
sách Trích diễm thi tập (1497) của Hoàng Đức Lƣơng, Chiếu cầu hiền (1788)
của Ngô Thì Nhậm đến bản điều trần Xin lập khoa luật (1867) của Nguyễn
Trƣờng Tộ Và đặc biệt thế kỉ XX, văn nghị luận càng phát triển mạnh mẽ
hơn bao giờ hết. Hàng loạt tên tuổi các nhà chính luận, văn luận xuất sắc với
những áng văn nghị luận bất hủ, mà tiêu biểu nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh
với bản Tuyên ngôn độc lập (1945). Cùng với chủ tịch Hồ Chí Minh là những
chí sĩ yêu nƣớc nhƣ: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Ngô Đức Kế Tiếp đó là những nhà cách mạng, những nhà văn hoá nhƣ:
Trƣờng Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp ; những nhà
văn, nhà phê bình văn học nổi tiếng nhƣ Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên Có thể nói, trong suốt trƣờng kì lịch sử dân tộc, văn
nghị luận là một thể văn phản ánh rõ nhất đời sống tinh thần, tƣ tƣởng, ý chí
và khát vọng của toàn dân ta.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
2.2. Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, TPNL đƣợc đƣa vào
giảng dạy trong nhà trƣờng phổ thông. Các nhà nghiên cứu đã bắt đầu quan
tâm đến vấn đề dạy học TPNL. Tiêu biểu nhất là: “Vấn đề giảng dạy tác
phẩm văn học theo loại thể” của nhóm tác giả Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý,
Hoàng Nhƣ Mai, Phạm Sĩ Tấn và Đàm Gia Cẩn do NXB Giáo dục xuất bản
năm 1970. Các tác giả cho rằng: loại thể văn học là một thành phần quan
trọng của hình thức nghệ thuật tác phẩm. Giảng dạy tác phẩm văn học theo
loại thể chính là một phƣơng diện lớn của việc giảng dạy tác phẩm văn học
trong sự thống nhất giữa hình thức với nội dung, một sự giảng dạy đi đúng
với qui luật và bản chất của văn học, đồng thời đảm bảo hiệu quả giáo dục cao
nhất. Bên cạnh việc đề cập đến giảng thơ, truyện, kí, kịch các tác giả đã
giành riêng một chƣơng bàn về giảng văn nghị luận theo đặc trƣng loại thể.
Xuất phát từ một nguyên nhân khá quan trọng trong thực tế giảng dạy khiến

ngƣời GV chƣa thành công khi dạy TPNL: GV chƣa nắm thật chắc đặc điểm
của văn nghị luận, chƣa xuất phát từ những đặc điểm của văn nghị luận mà
khai thác một cách thấu đáo những đặc sắc về nội dung và hình thức của tác
phẩm. Do đó, chƣa chỉ cho HS rõ cái sắc bén của lí lẽ, sự chặt chẽ của lập
luận, tính chính xác và gợi cảm của ngôn ngữ để giúp HS hiểu và cảm bài
văn một cách sâu sắc. Xuất phát từ mục đích góp phần nâng cao hiệu quả của
việc giảng dạy TPNL trong nhà trƣờng PT, tác giả Đàm Gia Cẩn bàn về hai
vấn đề lớn.
Vấn đề thứ nhất: Một số vấn đề về giảng văn chính luận. Tác giả tập
trung trình bày khái niệm, đặc điểm của văn chính luận và một số yêu cầu về
nội dung bài giảng văn chính luận. Giảng bài văn chính luận phải lƣu ý đến
đặc điểm của “dạng nghị luận” thể hiện trong bài văn.
Vấn đề thứ hai: Một số điểm cần lƣu ý khi giảng bài nghị luận văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Tác giả đi sâu vào hai kiểu bài: nghị luận phê bình văn học và nghị luận về
một vấn đề lí luận văn học. Có thể coi cuốn sách là kim chỉ nam cho GV dạy
văn thập kỉ 70,80 của thế kỉ XX.
Thập kỉ 90 của thế kỉ XX, nhiều công trình nghiên cứu về phƣơng pháp
dạy học văn và dạy học văn theo đặc trƣng loại thể nhƣ: cuốn “Phương pháp
dạy học văn” của GS Phan Trọng Luận - Trƣơng Dĩnh; cuốn “Phương pháp
dạy học tác phẩm văn chương” của TS Nguyễn Viết Chữ Tuy nhiên,
phƣơng pháp dạy học TPNL chƣa chiếm đƣợc vị thế nhƣ các thể loại khác.
Cùng với sự đổi mới của bộ SGK Ngữ văn THPT, các công trình
nghiên cứu về phƣơng pháp dạy học TPNL đã phong phú hơn nhiều. Hai
cuốn: Thiết kế bài học Ngữ văn 7, 8 theo hƣớng tích hợp của TS Hoàng Hữu
Bội đã cung cấp cho GV khá nhiều kiến thức về phƣơng pháp dạy học TPNL.
Trong cuốn “ Thiết kế bài học Ngữ văn 7 theo hướng tích hợp”, tác giả khẳng
định: “Đến với các tác phẩm văn học nghệ thuật nhƣ: một bài thơ, một cuốn

truyện, một bài kí tức là HS đến với những bức tranh cuộc sống sinh động,
cụ thể về cảnh vật, con ngƣời, đến với thế giới của nội tâm con ngƣời phong
phú đa dạng Còn đến với TPNL là HS đến với những ý kiến, những nhận
định, những lời giải thích, những lời bình luận, những dẫn chứng về một vấn
đề nào đó. Khi đến với các tác phẩm văn học nghệ thuật, HS sống với thế giới
nghệ thuật bằng tƣởng tƣợng, liên tƣởng, cảm xúc, rung động, suy nghĩ Còn
khi đến với TPNL thì các em tiếp thu những quan niệm, những tƣ
tƣởng bằng nhận thức lí tính: phân tích, tìm kiếm luận đề, luận điểm, luận
cứ, suy nghĩ về quan điểm và giải quyết vấn đề của tác giả, phát hiện nghệ
thuật lập luận để học tập cách làm văn nghị luận.” [ 12, 252]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Trong cuốn “Thiết kế bài học Ngữ văn 8 theo hướng tích hợp”, chƣơng
VII, tác giả nhấn mạnh: “Chúng ta có thể dùng những tri thức lí thuyết về
phƣơng pháp làm văn để tìm hiểu, phân tích các TPNL” [13, 222]
Công trình nghiên cứu của nhóm tác giả Hoàng Thị Mai - Kiều Thọ
Long mang tên “Phương pháp dạy học văn bản nghị luận ở trường phổ
thông”, xuất bản năm 2009 cũng hết sức hữu ích với GV phổ thông. Trên cơ
sở nhận rõ vị trí quan trọng của VBNL trong chƣơng trình Ngữ văn THPT,
đặc điểm riêng của văn bản nghị luận, tác dụng lớn của dạy học văn bản nghị
luận trong việc rèn luyện cho HS tƣ duy lôgic, kĩ năng lập luận sắc bén, năng
lực biểu đạt những quan niệm, tƣ tƣởng một cách sâu sắc và bản lĩnh, tinh
thần tự chủ trƣớc đời sống, các tác giả đã đƣa ra những nguyên tắc cơ bản,
những biện pháp, cách thức trong việc tổ chức một giờ dạy học văn bản nghị
luận ở trƣờng phổ thông. Nếu các công trình nghiên cứu khác mới chỉ đề cập
một cách rất chung về mặt lí thuyết của dạy học TPNL thì “ Phương pháp
dạy học văn bản nghị luận ở trường phổ thông” của Hoàng Thị Mai - Kiều
Thọ Long lại rất chú ý kết hợp lí thuyết với việc thực hành dạy học TPNL.
Ngoài các cuốn sách kể trên, chúng ta còn phải kể đến nhiều bài

báo bàn về phƣơng pháp dạy học văn; phƣơng pháp dạy học TPNL; về
TPNL nhƣ:
“Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện” - Tạp chí Nghiên cứu
Giáo dục, số 28, năm 1973 - Phạm Văn Đồng.
“Đổi mới phương pháp giảng dạy môn văn ở THPT” - Tạp chí Giáo
dục, số 23, năm 2002 - TS Hà Bình Trị.
“Vẻ đẹp của văn nghị luận” - Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, số 4 - 5,
năm 2005- Đỗ Ngọc Thống.
“Vai trò của luận điểm trong bài văn nghị luận” - Tạp chí Dạy và Học
ngày nay, số 4, năm 2006 - Đỗ Ngọc Thống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
“Mấy điều cần lưu ý khi dạy và học phần văn nghị luận văn học
trong SGK Ngữ văn 9” - Tạp chí Văn học và tuổi trẻ, số 12, năm 2005 -
Lê Quang Hƣng.
“Con đường nâng cao hiệu qủa đọc hiểu cho học sinh” - Tạp chí Giáo
dục, số 140, năm 2006 - GS.TS Nguyễn Thanh Hùng.
“Đa dạng và hiệu qủa của câu hỏi trong dạy học văn” - Tạp chí Giáo
dục, số 148, năm 2006 - GS.TS Nguyễn Thanh Hùng.
“Cần hình thành cho học sinh cách đọc hiểu tác phẩm nghị luận trung
đại” - Tạp chí Giáo dục, số 160, năm 2007 - Huỳnh Văn Hoa.
“Xác lập cơ sở lí luận cho phương pháp dạy học tác phẩm nghị luận
trung đại Việt Nam” - Tạp chí Giáo dục, số 175, năm 2007 - Huỳnh Văn Hoa.
“Mô hình đọc hiểu theo đặc trưng loại thể với việc hình thành và bồi
dưỡng kĩ năng đọc hiểu văn bản văn chương cho học sinh THPT” - Tạp chí
Giáo dục, số 162, năm 2007 - Trần Thị Hồng Thu.
Sau khi tiến hành nghiên cứu lịch sử vấn đề dạy học TPNL theo đặc
trƣng loại thể, chúng tôi nhận thấy: mỗi tác gỉả đều có những đóng góp đáng
kể cho khoa học dạy văn trong nhà trƣờng về mặt lí thuyết cũng nhƣ thực

tiễn. Chúng tôi tiếp thu những thành tựu nghiên cứu khoa học đó để làm tiền
đề và cơ sở nghiên cứu cho luận văn của mình. Tiếp tục nghiên cứu vấn đề
này, chúng tôi sẽ cố gắng để có thêm những kết luận mới mẻ góp phần nâng
cao hiệu quả việc dạy học TPNL.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Dạy học TPNL trong chương
trình Ngữ văn 12 theo đặc trưng loại thể”, trƣớc hết chúng tôi mong muốn
cung cấp cho HS, GV những hiểu biết cặn kẽ về đặc trƣng của TPNL. Tiếp
theo là sự cần thiết của việc dạy học TPNL theo đặc trƣng loại thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
3.2. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực tế, chúng tôi đề xuất
một số biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy học TPNL theo đặc trƣng loại thể.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với khả năng và tài liệu cho phép, chúng tôi xác định cho luận văn
những nhiệm vụ chính nhƣ sau:
4.1. Xây dựng những tiền đề lí thuyết và thực tiễn làm cơ sở khoa học
cho việc dạy học TPNL theo đặc trƣng loại thể cho GV, HS lớp 12 THPT.
4.2. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học TPNL
theo đặc trƣng loại thể.
4.3. Tổ chức thực nghiệm dạy học để kiểm tra khả năng thực thi và hiệu
quả của các giải pháp đƣợc đề xuất.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là đặc trƣng văn nghị luận và
phƣơng pháp dạy học TPNL trong nhà trƣờng.
5.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các giờ học TPNL trong chƣơng
trình, SGK Ngữ văn 12, tại một số trƣờng THPT trên địa bàn thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi
vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
6.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết
Phƣơng pháp này đƣợc tiến hành trên cơ sở tìm hiểu thu thập nghiên
cứu phân tích những thành tựu về lí thuyết đã có để làm tiền đề cho giả thuyết
khoa học mà mình đặt ra. Có thể khẳng định rằng, bất kì một công trình
nghiên cứu khoa học nào cũng phải dựa trên cơ sở lí thuyết nhất định. Do vậy,
nghiên cứu lí thuyết là một phƣơng pháp quan trọng trong quá trình chúng tôi
thực hiện đề tài. Những lí thuyết mà chúng tôi nghiên cứu ở đây bao gồm: lí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
thuyết dạy học theo hƣớng tích cực, tích hợp, lí thuyết dạy học văn theo đặc
trƣng loại thể, lí thuyết về TPNL.
6.2. Phƣơng pháp điều tra khảo sát
Thông thƣờng để đi đến một kết luận, một nhận định đúng đắn ngƣời
nghiên cứu phải thông qua các khâu kiểm tra khảo sát thực tế. Bởi vì những
con số biết nói là cơ sở tạo niềm tin cho đề tài nghiên cứu. Với phƣơng pháp
này, chúng tôi chọn đối tƣợng khảo sát là HS THPT (lớp 12) trên địa bàn
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Quá trình khảo sát, chúng tôi phát phiếu thăm dò cho HS, khảo sát việc
học TPNL của HS. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát GV thông
qua dự giờ thăm lớp theo tiêu chí đánh giá các hoạt động dạy học đƣợc tổ
chức trên lớp.
6.3. Phƣơng pháp thực nghiệm
Có thể coi phƣơng pháp thực nghiệm là quan trọng nhất trong nghiên
cứu khoa học. Thông qua thực nghiệm, chúng tôi có thể kiểm tra khả năng
vận dụng của đề tài vào thực tiễn dạy học. Chúng tôi sẽ tiến hành thực nghiệm
đối với HS THPT (lớp 12) trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Qua kết quả thực
nghiệm, đề tài nghiên cứu của chúng tôi có cứ liệu để khẳng định mức độ

thành công của đề tài.
Với phƣơng pháp thực nghiệm, đề tài nghiên cứu của chúng tôi sẽ có
tính khách quan và khoa học, giúp mọi ngƣời thấy vững tin hơn khi áp dụng
đề tài vào thực tiễn giảng dạy.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 phần:
Ngoài phần mở đầu và kết thúc, phần nội dung của luận văn đƣợc triển
khai thành 3 chƣơng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Chương 1: Một số tiền đề lí luận của việc dạy học TPNL theo đặc
trƣng loại thể.
Chương 2: Thực trạng dạy học TPNL theo đặc trƣng loại thể trong các
trƣờng THPT ở Quảng Ninh.
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học TPNL theo
đặc trƣng loại thể và thực nghiệm sƣ phạm.






















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC TPNL
THEO ĐẶC TRƢNG LOẠI THỂ

1.1. Tác phẩm nghị luận
1.1.1. Khái niệm TPNL
Văn nghị luận là một thể văn có truyền thống lâu đời. Nó rất cần thiết
và quen thuộc với chúng ta. Cùng với sự tiến bộ của lịch sử loài ngƣời, văn
nghị luận ngày càng phát triển mạnh mẽ, càng trở nên phong phú và đa dạng
hơn bao giờ hết. Nó thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó là
vũ khí khoa học, vũ khí tƣ tƣởng sắc bén, giúp cho con ngƣời nhận thức đúng
đắn các lĩnh vực của đời sống xã hội và hƣớng dẫn thúc đẩy hoạt động thực
tiễn của con ngƣời.
Về khái niệm TPNL, chúng tôi thấy có một số cách hiểu sau:
Theo “Từ điển tiếng Việt”: “Nghị luận là bàn và đánh giá cho rõ về
một vấn đề nào đó. Văn nghị luận là thể văn dùng lí lẽ phân tích giải quyết
vấn đề” [41, 678].
“Từ điển thuật ngữ văn học” của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình

Sử, Nguyễn Khắc Phi định nghĩa: “Luận là thể văn nghị luận điển hình của
văn chƣơng cổ nhằm trình bày tƣ tƣởng và học thuyết chính trị, triết học, văn
nghệ, lịch sử, đạo đức Đặc điểm của luận là thuyết minh lí lẽ, đạo đức, phân
tích đúng sai, biện bác ý kiến ngƣời khác. Ngôn ngữ của luận phải chặt chẽ,
khúc triết, có căn cứ lí lẽ, có ví dụ thực tế để chứng minh. Chức năng của luận
là vũ trang cho ngƣời đọc một quan điểm, tƣ tƣởng, lập trƣờng có cơ sở lí
luận trong đời sống sinh hoạt và học thuật. Chẳng hạn Thiên luận (Bàn về
trời) của Tuân Tử, Luận hành (Cán cân lập luận) của Vƣơng Sung, Phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
kiến luận (Bàn về phong kiến) của Liễu Tông Nguyên, Thần diệt luận (Bàn
về sự chết của thần) của Phạm Chẩn, Quá tần luận (Bàn về việc trách cứ của
nhà Tần) của Gia Nghị đều là những bài luận nổi tiếng của Trung Quốc. Ở
nƣớc ta có thể kể đến: Thiên hạ phân hợp đại thế luận của Nguyễn Trƣờng
Tộ, Luận về chánh học cùng tà thuyết của Ngô Đức Kế
Trong văn học cận, hiện đại, do ý thức xã hội chính trị phát triển, báo
chí, ấn loát trở thành phƣơng tiện phổ thông, luận chuyển hoá thành xã luận,
bình luận chính trị, phê bình văn học, tiểu luận nghiên cứu
Trong nhà trƣờng, luận vốn là một kiểu bài làm văn, ngày nay gọi là
văn nghị luận.” [19, 164]
Trong cuốn “Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ”, GS Nguyễn Văn
Hạnh đã định nghĩa sâu sắc và mở rộng hơn về TPNL: “Trong văn học có một
loạt tác phẩm mang những đặc điểm khác biệt với thơ, truyện, kí, hợp thành
một loại riêng gọi là luận. Luận là bàn luận, nghị luận về một vấn đề nào đó,
có thể là chính trị, xã hội, đạo đức, học thuật. Ngƣời viết tác phẩm luận nêu rõ
vấn đề cần xem xét, trình bày hiểu biết, suy nghĩ, quan điểm, thái độ, cách
giải quyết của mình đối với vấn đề đó thông qua phân tích, giải thích, chứng
minh, khẳng định hoặc phê phán bằng lí lẽ, bằng sự kiện, bằng tình cảm. Giá
trị của tác phẩm phụ thuộc vào ý nghĩa của vấn đề đƣợc nêu ra, vào quan

điểm xem xét và giải quyết vấn đề, vào sức thuyết phục của lập luận. Trong
tác phẩm luận, mọi yếu tố của nội dung và hình thức, từ ý tƣởng, sự việc, hình
ảnh cho đến kết cấu lời văn đều phải qui vào một mối, tập trung làm sáng tỏ,
nổi bật một hoặc một số chủ đề tƣ tƣởng nào đó đã đƣợc xác định trƣớc, mà
ngƣời viết cho là đúng đắn và cần làm cho ngƣời khác đồng tình, chấp nhận.
Điều quan trọng bậc nhất đối với ngƣời viết luận là phải có lẽ phải, có ý kiến
mới mẻ và xác đáng về vấn đề đang đƣợc đề cập đến, có cách trình bày chặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
chẽ, mạch lạc và hấp dẫn”. [20, 102 - 104] Tác giả cho rằng: “Sức mạnh của
tác phẩm luận là ở tầm tƣ tƣởng, trí tuệ của ngƣời viết, ở tính chặt chẽ, mạch
lạc của suy nghĩ và trình bày, ở sự thuyết phục của lập luận.” [20, 104]
Nguyễn Quốc Siêu bàn về khái niệm văn nghị luận trong cuốn: “Kĩ
năng làm văn nghị luận phổ thông” nhƣ sau: “Văn nghị luận là một loại
văn chƣơng nghị sự, luận chứng, phân tích lí lẽ. Nó là tên gọi chung một
thể loại văn vận dụng các hình thức tƣ duy lôgic nhƣ khái niệm, phán
đoán, suy lí và thông qua việc nêu sự thực, trình bày lí lẽ, phân biệt đúng
sai để tiến hành phân tích luận chứng khoa học đối với khách quan và qui
luật bản chất của sự vật, từ đó nhằm biểu đạt tƣ tƣởng, chủ trƣơng, ý kiến,
quan điểm của tác giả.” [46, 7]
Theo SGK Ngữ văn 7 và Ngữ văn 11, văn bản nghị luận là kiểu văn
bản đƣợc dùng để trực tiếp trình bày, phát biểu các tƣ tƣởng, quan điểm bằng
luận cứ và lập luận trƣớc một vấn đề đặt ra nhằm xác lập cho ngƣời đọc,
ngƣời nghe một tƣ tƣởng, quan điểm nào đó hoặc hƣớng tới giải quyết những
vấn đề đặt ra trong đời sống.
Từ ý kiến của các nhà nghiên cứu, chúng ta thấy rằng: TPNL là loại
tác phẩm mà ở đó ngƣời nói (ngƣời viết) trình bày, phát biểu ý kiến, quan
niệm, suy nghĩ, tƣ tƣởng, thái độ của mình trƣớc một vấn đề nào đó của cuộc
sống. Thực chất đây là thể văn thuyết lí, trực tiếp nói lí lẽ. Tuy nhiên, không

phải chỉ có văn bản nghị luận mới có lí lẽ. Trong tác phẩm văn chƣơng hình
tƣợng cũng có lí lẽ. Lí lẽ trong tác phẩm văn chƣơng hình tƣợng thƣờng
đƣợc phát biểu kín đáo, thâm trầm thông qua kết cấu nghệ thuật độc đáo;
ngôn ngữ hàm ngôn đa nghĩa; hình ảnh, hình tƣợng nghệ thuật phong phú,
đa dạng; giọng điệu đa thanh. Còn trong văn bản nghị luận, lí lẽ là biểu hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
thứ nhất, đƣợc phát biểu trực tiếp và rõ ràng nhất ngay cả trong những
TPNL giàu tính hình tƣợng.
1.1.2. Đặc trƣng của TPNL
Nhƣ chúng tôi đã trình bày, văn nghị luận là loại văn trong đó ngƣời
viết (ngƣời nói) trình bày những ý kiến của mình bằng cách dùng lí luận bao
gồm cả lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ một vấn đề thuộc về chân lí nhằm làm
cho ngƣời đọc (ngƣời nghe) hiểu, tin, đồng tình với những ý kiến của mình
mà hành động theo ý kiến mà mình đề xuất. Văn bản nghị luận là sản phẩm
của tƣ duy lôgic, của lí trí tỉnh táo. Vì vậy, văn nghị luận mang những đặc
trƣng riêng khác với các thể loại khác.
Bảo Quyến đã nêu rõ đặc trƣng của văn nghị luận:
“Khác với văn miêu tả, kể chuyện nhằm tái hiện con ngƣời và cuộc
sống bằng ngôn ngữ, chủ yếu khêu gợi, tác động vào cảm xúc, tƣởng tƣợng
của ngƣời đọc (ngƣời nghe), văn nghị luận thiên về trình bày các ý kiến, các lí
lẽ để giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận một vấn đề nào đó. Nó
nhằm tác động vào trí tuệ, vào lí trí của ngƣời đọc. Do đó nó phải tuân thủ
những qui tắc chặt chẽ trong quá trình thực hiện.
Ngôn ngữ của văn nghị luận là ngôn ngữ mang phong cách ngôn ngữ nghị
luận. Nó chú trọng đặc biệt đến sự chính xác, chặt chẽ vì mục đích của diễn đạt
trong văn nghị luận là nhằm phản ánh rõ ràng, chính xác quá trình tƣ duy để đạt
đến việc nhận thức chân lí. Tuy nhiên ngôn ngữ của văn nghị luận cũng cần có
sự hấp dẫn, lôi cuốn bằng các từ ngữ hình tƣợng, có sự biểu cảm; bằng cách diễn

đạt linh hoạt chứ không chấp nhận sự khô khan, đơn điệu nhất là khi đối tƣợng
nghị luận là một vấn đề văn học, một tác phẩm văn học.” [45, 5-6]
Nguyễn Quốc Siêu trong cuốn “Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông”
cho rằng: đặc trƣng chủ yếu của văn nghị luận biểu hiện ở ba mặt chủ yếu:
Tính triết lí sâu sắc; tính biện luận mạnh mẽ và tính thuyết phục lớn lao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
1. Tính triết lí sâu sắc
Bất kể bài văn nghị luận nào cũng đều trình bày lí lẽ, không có lí thì
không thành văn, thành văn là phải có lí. Nêu ra lí lẽ, giải thích rõ lí lẽ, tuyên
truyền lí lẽ chính là tôn chỉ của nó. Cái lí trong văn nghị luận còn phải trình
bày cho sâu sắc, thiết thực để có thể thực sự vạch ra bản chất của sự vật. Cho
nên, tính triết lí là nội hàm quan trọng của văn nghị luận. Dù là một tác phẩm
đồ sộ hay một bài viết ngắn đều phải hàm chứa những lí lẽ sâu sắc. Lí lẽ có
thể lớn lao hay vụn vặt, nhƣng đều có tính triết lí. Đặc trƣng này biểu hiện
trong văn chƣờng là: cái lí quán xuyến toàn bộ, cái lí chứa đựng toàn bộ và
cái lí hệ thống toàn bộ.
2.Tính biện luận mạnh mẽ
Cái lí phải đúng đắn, khoa học, thế nhƣng nó không thể tự rõ ràng, tự
biểu hiện. Muốn hiểu đƣợc cái lí, làm rõ cái lí thì cần phải biện luận, phải
trình bày, phải chứng minh. Bởi vậy, tính biện luận đã trở nên một đặc tính
quan trọng của văn nghị luận. Luận là lập luận (nghị luận lập luận, luận chứng
chứng minh), biện là bác luận (nghị luận phản bác, luận chứng phản bác). Qui
tụ lại, biện luận nghĩa là sự phân tích, tổng hợp, giảng giải, đi sâu vào những
lí lẽ chƣa đƣợc nhận thức rõ đối với tài liệu cần nắm vững, và phát huy mạnh
mẽ cái lí đó. Biện luận là một quá trình nhận thức, là một hình thái vận động
tƣ duy. Ngƣời ta có thông qua tƣ duy chặt chẽ thì độ sâu, độ rộng và sức
mạnh của lí lẽ mới đƣợc thể hiện.
3.Tính thuyết phục lớn lao

Làm rõ cái lí là mục đích làm cho ngƣời đọc tự nhiên đƣợc gợi mở,
đƣợc giáo dục và thông suốt. Bởi vậy, tính thuyết phục đã trở thành đặc trƣng
thứ ba của văn nghị luận. Đặc trƣng này chỉ rõ: Bất cứ bài văn nghị luận nào
cũng đều giành thắng lợi bằng cái lí, tình và lí song song thu hút và gợi mở,
khiến ngƣời ta tiếp nhận sự thuyết phục của cái lí, có đƣợc ánh sáng chân lí.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
Chính vì vây, ta nói: Văn nghị luận lấy cái đích là thuyết phục ngƣời đọc,
ngƣời nghe.”
Tác giả Hoàng Hữu Bội khái quát đặc trƣng của TPNL ở ba điểm sau:
1. Văn nghị luận là “thể văn dùng lí lẽ phân tích, giải quyết vấn đề” (Từ
điển tiếng Việt). Ở đây, ngƣời viết trình bày những hiểu biết, suy nghĩ, quan
điểm, thái độ, cách giải quyết của mình về vấn đề nào đó thuộc các lĩnh vực:
chính trị, xã hội, đạo đức, học thuật, văn học nghệ thuật
2. Khác với văn học nghệ thuật, văn nghị luận trình bày tƣ tƣởng và
thuyết phục ngƣời đọc chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ; đôi khi cũng tái hiện đời
sống nhƣng đó chỉ là những hình ảnh minh hoạ, làm cơ sở cho lập luận.
3. Một TPNL có giá trị hay không là phụ thuộc vào tầm tƣ tƣởng, tầm
trí tuệ của ngƣời viết, phụ thuộc vào sự mạch lạc của suy nghĩ, sự chặt chẽ
của lập luận và sự diễn đạt hấp dẫn có chứa đầy tình cảm, nhiệt huyết, chân
thành của ngƣời viết.
Qua nhận định của các nhà nghiên cứu về đặc trƣng của văn nghị luận,
chúng ta có thể khẳng định một cách ngắn gọn: Văn nghị luận là một thể loại
nhằm phát biểu tƣ tƣởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của ngƣời viết một
cách trực tiếp về văn học hoặc chính trị, đạo đức, lối sống nhƣng lại đƣợc
trình bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, hào hùng, với những lập luận
chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục. Việc nắm vững những đặc trƣng này
của văn nghị luận sẽ là tiền đề cần thiết để chúng tôi vận dụng trong qúa trình
thực hiện luận văn.

1.1.3. Những yếu tố cấu thành TPNL
1.1.3.1. Những yếu tố nghị luận
Nếu trong văn bản tự sự và kịch, nhân vật, cốt truyện, xung đột là
những yếu tố cơ bản của tác phẩm thì trong TPNL, luận điểm, luận cứ, lập
luận là những yếu tố cơ bản làm nên tác phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
* Luận đề: Là vấn đề cần nghị luận.
* Luận điểm:
Mỗi TPNL là một đề xuất ý kiến, là trình bày tƣ tƣởng, quan điểm của
ngƣời viết trƣớc một vấn đề của văn học hoặc cuộc sống. Vẻ đẹp của văn nghị
luận trên phƣơng diện này chính là chất trí tuệ. Chất trí tuệ của bài văn nghị
luận thể hiện ở hệ thống luận điểm.
“Luận điểm là tƣ tƣởng, quan điểm, chủ trƣơng của tác giả về một vấn
đề nào đó. Luận điểm là linh hồn của bài văn, nó thống nhất các phần, các
đoạn văn thành một khối.
Nếu luận đề nêu lên đề tài, vấn đề, câu hỏi cần bàn luận, giải đáp thì
luận điểm là những ý kiến thể hiện quan điểm chủ trƣơng của ngƣời nói,
ngƣời viết đƣợc đƣa ra nhằm giải đáp, làm sáng tỏ cho vấn đề hoặc câu hỏi đó
giúp cho lí trí đƣợc thông suốt”. [34, 11]
Luận điểm thƣờng thể hiện dƣới hình thức những câu văn ngắn gọn với
phán đoán có tính khẳng định hay phủ định; thƣờng có chứa các từ là, có,
không thể, đã Trong một TPNL, tuỳ vào nội dung vấn đề và cách lập luận
của ngƣời viết, tác phẩm có thể có một luận điểm chính, luận điểm trung tâm
và các luận điểm phụ; có luận điểm tổng quát, bao trùm toàn bài và có luận
điểm nhỏ là bộ phận của luận điểm lớn.
Để TPNL có sức thuyết phục cao, luận điểm phải nêu đƣợc ý hay. “Ý
hay là ý đúng, ý sâu, ý mới, ý riêng, tập trung, nổi bật, có cơ sở đạo lí và khoa
học vững chắc, đáp ứng đòi hỏi của thực tế, có sức thuyết phục đối với ngƣời

đọc, ngƣời nghe”. [49, 19]
Việc xác định đƣợc hệ thống, các cấp độ của luận điểm, đánh giá đƣợc
điểm mới mẻ, độc đáo của luận điểm trong văn bản nghị luận là một yêu cầu
cần thiết chứng tỏ khả năng hiểu sâu, khả năng thâu tóm vấn đề và kĩ năng tƣ
duy lôgic, mạch lạc của ngƣời đọc. Trong thực tế giảng dạy, việc khái quát,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25
xác định, đánh giá đƣợc các luận điểm của TPNL không chỉ khó đối với HS
mà còn với cả GV.
* Luận cứ
“ Là các cứ liệu để thuyết minh cho luận điểm. Có hai loại luận cứ: lí lẽ
(các nguyên lí, chân lí, ý kiến đã đƣợc công nhận) và thực tế (đời sống hoặc
văn học dùng làm dẫn chứng). Nói rõ hơn, luận cứ là những lí lẽ và dẫn chứng
hình thành nên luận điểm hoặc thuyết minh, soi sáng luận điểm. Và trong
từng luận cứ, lí lẽ và dẫn chứng cùng soi sáng cho nhau: lí lẽ làm cho dẫn
chứng có khả năng thuyết minh luận điểm, dẫn chứng làm cho lí lẽ có nội
dung, có sức nặng thuyết phục.” [45, 12-13]
* Lập luận
Lập luận là một khái niệm có hàm nghĩa rộng bao gồm từ cách kết cấu
văn bản đến phƣơng pháp lập luận. “Lập luận là cách nêu luận điểm và vận
dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho luận điểm đƣợc nổi bật và có sức thuyết phục.
Luận điểm đƣợc xem nhƣ kết luận của lập luận. Nói cách khác, lập luận là
cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lí thì bài
văn mới có sức thuyết phục.” [34, 14]
Lập luận bao gồm các cách suy lí (qui nạp, diễn dịch), phân tích, chứng
minh, phản bác, bình luận, so sánh, tổng hợp, sao cho luận điểm đƣa ra là hợp
lí, không thể bác bỏ. Lập luận thể hiện trong cách viết đoạn văn và trong cách
tổ chức bài văn. Mở bài cũng có lập luận, thân bài và kết bài đều có lập luận.
Có lập luận mới đƣa ra đƣợc luận điểm nhƣ kết luận của nó.

Để đánh giá cái hay, sức thuyết phục của văn bản nghị luận tất yếu phải
phân tích, đánh giá, chứng minh đƣợc mức độ chặt chẽ, sắc bén của lập luận
và sự hợp lí của các cách thức lập luận mà tác giả lựa chọn hay nói một cách
khác là nghệ thuật lập luận. Nghệ thuật lập luận phụ thuộc rất nhiều vào cách
nêu vấn đề, cách dẫn dắt ngƣời đọc, cách phân tích bằng nhiều thủ pháp nhỏ

×