Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.3 KB, 31 trang )






PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN MỸ














SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Đề tài: Một số kinh nghiệm nâng cao
chất lượng viết đoạn văn ngắn cho
học sinh lớp 2




Họ và tên: Lương Thị Hoài Thu
Đơn vị: TH Trung Hưng - Yên Mỹ - Hưng Yên








Năm học 2012 - 2013


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I –LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1-Cơ sở khoa học
Giáo dục có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của một dân tộc cũng như toàn thể nhân loại. Giáo dục tác động đến cấu trúc
xã hội, đến các bộ phận đồng thời giáo dục là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội. Vì thế từ trước đến nay Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan
tâm đến công tác giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu để xây dựng
và phát triển đất nước.
Đất nước ta đang bước vào thời kì đổi mới với quyết tâm công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu “ Dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Để thực hiện được điều đó đòi
hỏi mỗi chúng ta phải có một nguồn lực, vừa có tài, vừa có đức, vừa có tri
thức cuộc sống. Nơi tạo ra những nền móng vững chắc cho quá trình học tập
của mỗi con người chính là trường Tiểu học. Muốn vậy đòi hỏi nhà trường
phải không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. Việc nâng cao chất lượng
dạy học trong các nhà truờng nói chung và trường Tiểu học nói riêng là vấn
đề trọng tâm của hoạt động giáo dục trong nhà trường.Vì đây là cấp học nền
móng: “Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc
dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí đức, thẩm mĩ
và thể chất cho trẻ em nhằm hình thành cho học sinh nhân cách con người

Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Trong các mặt giáo dục ở Tiểu học thì Tiếng
Việt là công cụ giúp các em giao tiếp, nhận biết được vốn kiến thức của nhân
loại thành trí thức của riêng mình. Thông qua Tiếng Việt giúp các em nhận
thức được các môn học khác. Chẳng hạn, muốn giải một bài toán thì điều đầu
tiên là các em phải đọc đầu bài sau đó bằng tư duy sự hiểu biết về môn học,
các em trình bày bài giải qua nói, viết, giúp cho người khác hiểu được bài
làm của mình.
2- Cơ sở lý luận
Bước vào kỉ nguyên mới, đất nước ta có nhiều đổi mới, đổi mới về
kinh tế, xã hội, giáo dục,… Sự phát triển giáo dục của nước ta tăng nhanh
giúp cho những chủ nhân tương lai của đất nước luôn được phát triển toàn
diện, đầy đủ về năng lực, trí tuệ, tính cách. Qua việc nắm bắt các kiến thức,
tri thức khoa học ban đầu để từ đó hình thành nên những kĩ năng cần thiết
của cuộc sống, hành động đúng cho bản thân.
Trong trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với học sinh bởi nó là môn học cung cấp cho các em những kiến thức

cần thiết trong giao tiếp hàng ngày. Nó giúp các em phát triển toàn diện, hình
thành ở các em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí
thông minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người
mới.
Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp
các em hình thành 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm
văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ cả 4 kĩ năng trên. Nó là phân môn tổng
hợp toàn bộ kiến thức đã học ở trong tuần từ các phân môn: Tập đọc, Tập
viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Đối với học sinh lớp 2 thì đây
là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết
còn hạn hẹp. Bên cạnh đó, còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện
hoàn cảnh sống của học sinh ở địa bàn dân cư lao động nghèo, gia đình
không có điều kiện quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc

tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh nghèo vốn từ ngữ,…. Điều này ảnh
hưởng đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng.Với
mục tiêu rèn học sinh ở cả bốn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết trong đó kĩ
năng viết “một đoạn văn ngắn" là yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân
môn Tập làm văn lớp 2.
3 - Cơ sở thực tiễn
Quá trình dạy học là một quá trình tư duy sáng tạo - người giáo viên là
một kĩ sư của tâm hồn, hơn nữa còn là một nhà nghệ thuật. Và việc dạy học
ngày nay luôn dựa trên cơ sở phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
Chính vì thế, nó đòi hỏi người giáo viên phải luôn có sự sáng tạo, tự cải tiến
phương pháp dạy học của mình nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học.
Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách
của trẻ, cung cấp cho trẻ những kiến thức cần thiết.
Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kĩ
năng nói và viết. Thế nhưng hiện nay, đa số các em học sinh lớp 2 đều rất sợ
học phân môn Tập làm văn vì không biết nói gì? Viết gì? Ngay cả bản thân
giáo viên đôi khi cũng không tự tin lắm khi dạy phân môn này so với các
môn học khác.
Trong chương trình Tập làm văn lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em
được làm quen với đoạn văn và được rèn kĩ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5
câu. Tôi dự giờ thăm hỏi một số lớp, tôi nhận thấy các em còn lúng túng,
nhiều học sinh làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết,
dùng từ sai, cách chấm câu còn hạn chế có em viết không đúng yêu cầu của
đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý.Việc
dạy cho học sinh viết đoạn văn chính là quá trình giáo viên khơi dậy sự hiểu

biết và cảm nhận của các em về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều đó
đòi hỏi giáo viên dạy cho học sinh có cách tổ chức, sắp xếp câu, ý sao cho
lôgic, cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết. Song thực tế chỉ ra rằng một
số học sinh lớp 2 khó nhận thức được việc sắp xếp ý (cảm nhận của mình)

theo trật tự đúng. Vốn sống của các em còn hạn chế, do đó khi diễn đạt học
sinh gặp rất nhiều khó khăn. Sự sắp xếp tổ chức câu trong đoạn còn rời rạc.
Các câu độc lập về nội dung chưa có sự liên kết và lôgic … Đôi khi các em
còn viết câu không rõ ý, từ lặp lại nhiều… Là một giáo viên đứng lớp nhiều
năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện
được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp
nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Đây là lí do tôi chọn và viết Sáng
kiến kinh nghiệm với nội dung: “ Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng
viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2” nhằm góp phần nâng cao chất lượng
dạy-học phân môn Tập làm văn lớp 2.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Đề tài góp phần khắc phục được hạn chế về cách viết một đoạn văn ngắn với
câu văn cộc lốc, không đúng ngữ pháp, hay câu văn không rõ ràng, sự sắp xếp các
câu văn không lôgíc Qua đó bồi dưỡng lòng say mê yêu thích con người, cảnh vật
xung quanh các em.
- Góp phần vào đổi mới cách dạy tiếng Việt, giúp học sinh có kĩ năng
viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy
tính cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách
học của trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách
tổ chức câu, ý sao cho lôgíc, cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1-Tìm hiểu thực tế để đánh giá tình hình viết văn của học sinh, tìm hiểu
nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh gặp khó khăn khi học phân môn
Tập làm văn .
2-Từ những lý luận và kinh nghiệm thực tế để đưa ra các biện pháp giúp học
sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn.
IV-ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Nội dung, chương trình, Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, đặc biệt là
phân môn Tập làm văn lớp 2 và một số tài liệu tham khảo.

- Một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong
giờ Tập làm văn.
V- PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

Với khuôn khổ của một Sáng kiến kinh nghiệm, tôi nghiên cứu vấn
đề: “Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học
sinh lớp 2 ”, trong đó làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về
việc dạy-học phân môn Tập làm văn lớp2. Qua đó đưa ra một số biện pháp
giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn được tốt.
VI. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
1 - Nghiên cứu chương trình SGK, tài liệu tham khảo để nắm được
nội dung, mức độ yêu cầu của môn Tập làm văn.
2 - Nghiên cứu phương pháp dạy viết đoạn văn ngắn nhằm phát huy
tính tích cực nhận thức của học sinh.
3 - Dạy thử nghiệm theo biện pháp đã đề xuất.
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp điều tra:
- Mục đích để tìm hiểu các phương pháp dạy học của giáo viên; tìm
hiểu tính tích cực nhận thức của học sinh.
2. Phương pháp thực nghiệm:
- Dạy thực nghiệm tại lớp 2A, 2B để đối chiếu kiểm nghiệm, đánh
giá hiệu quả nghiên cứu.
3. Phương pháp trực quan:
- Tìm hiểu nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập…
- Trao đổi với giáo viên – học sinh để tìm hiểu thực trạng dạy – học môn Tập
làm văn.
VIII. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 2 là vấn đề được nhiều giáo viên
lưu tâm vì phân môn này là phân môn mới (chưa được học ở lớp 1), bên
cạnh đó việc tìm ra biện pháp dạy học sinh lớp 2 viết một đoạn văn cũng là

điều mà nhiều giáo viên trăn trở, cũng có nhiều đề tài viết về vấn đề này đã
đạt được những hiệu quả , song các đề tài trên đã đưa ra những biện pháp
giảng dạy của môn Tập làm văn thể loại viết đoạn văn ngắn nói chung mà
chưa có những biện pháp có những ví dụ cụ thể về một đề bài cụ thể.Xuất
phát từ tình hình nêu trên và thực tế ở trường nơi tôi công tác nên tôi đã
nghiên cứu tiếp về vấn đề “Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn
ngắn”.















B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN
ĐẾN VIỆC DẠY HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN.
1/ Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 2:
Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, các em vừa chuyển hoạt
động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Các em hiếu động, ham chơi, sự tập
trung cho học tập và chú ý chưa cao. Tư duy của các em nặng về trực quan

cụ thể, tư duy trừu tượng chưa phát triển. Do đó, khi tổ chức dạy học, giáo
viên phải linh hoạt sáng tạo thì mới có hiệu quả.
2/ Đặc điểm về chương trình, sách giáo khoa:
Như chúng ta đã biết, ở lớp 1 học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ tập
nói hoặc viết câu có nội dung theo chủ đề bài học hoặc tìm tiếng nói có âm
vần vừa học. Các em được ghép tiếng và nói những câu đơn giản, riêng lẻ có
nội dung gần gũi với cuộc sống của các em hoặc ở các bài tập đọc. Đến lớp 2
các em đã phải viết đoạn từ 1 đến 3 câu rồi cao hơn từ 4 đến 5 câu kể về một
sự việc đơn giản mình cũng chứng kiến (tham gia) hoặc tả sơ lược về người,
vật xung quanh các em. Ở học kỳ I, chủ yếu các em được viết đoạn từ 3 đến
5 câu kể về người thân như: Cô giáo, ông, bà, anh, chị, em và rộng hơn là
toàn thể gia đình. Song đến học kỳ II các em được viết đoạn tả con vật (chim
), tả cảnh (biển), tả cây cối, tả người (ảnh Bác Hồ). Tuần 34 và 35 học sinh
được kể về những việc làm mà bản thân chứng kiến hoặc tham gia ….
- Xen kẽ giữa các bài tập có yêu cầu kể (tả) nói trên có 2 dạng bài kể (tả)
con vật được viết đầy đủ song sáo trộn trật tự câu nhằm mục đích củng cố về
liên kết câu, gắn kết ý …
- Mở đầu ngay ở tuần 1, sách giáo khoa đã giới thiệu cách kể theo nội
dung tranh sau đó viết thành đoạn. Đây chính là hình thức giúp học sinh vận
dụng linh hoạt kỹ năng vốn hiểu biết khi học phân môn kể chuyện vào viết
đoạn văn ngắn.

3. Vị trí , nhiệm vụ,nội dung của phân môn tập làm văn lớp 2:
3.1-Vị trí :
Ở tiểu học nhất là lớp 2, Tập làm văn là một trong những phân môn có
tầm quan trong đặc biệt ( ở lớp 1 các em chưa được học, lên lớp 2 học sinh
mới bắt đầu được học, được làm quen ).
Môn tập làm văn giúp học sinh có kỹ năng sử dụng Tiếng Việt được phát
triển từ thấp đến cao, từ luyện đọc cho đến luyện nói, luyện viết thành bài
văn theo suy nghĩ của từng cá nhân. Tập cho các em ngay từ nhỏ có những

hiểu biết sơ đẳng đó cũng là rèn cho các em tính tự lập, tự trọng. Con người
văn hóa sẽ hình thành từ các em từ những việc nhỏ nhặt, tưởng như không
quan trọng đó.
3.2Nhiệm vụ :
Làm văn có nghĩa là tạo lập văn bản. Nhiệm vụ chính của phân môn Tập
làm văn là rèn luyện cho học sinh kỹ năng tạo lập văn bản. Ở đây thuật ngữ “
văn bản” được dùng để chỉ sản phẩm hoàn chỉnh của lời nói trong một hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể. Đó không nhất thiết là một bài văn gồm nhiều câu;
nhiều đoạn; cũng không nhất thiết phải ở dạng viết; càng không phải chỉ là
loại văn kể chuyện hay miêu tả theo phong cách nghệ thuật. Trong hoàn cảnh
giao tiếp cụ thể, sản phẩm lời nói mà một người tạo lập được có thể chỉ là
một câu chào, một lời cảm ơn hay một vày dòng thăm hỏi, chúc mừng trên
tấm thiếp….Đối với lớp 2, dạy Tập làm văn là trước hết là rèn luyện cho học
sinh kỹ năng phục vụ học tập và giao tiếp hàng ngày , cụ thể là:
*Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin
lỗi, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành………
*Dạy một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống, như :khai bản tự thuật
ngắn, viết những bức thư ngắn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh sanh
sách học sinh, ………
Cuối cùng cũng như các phân môn và môn học khác, phân môn Tập làm
văn, thông qua nội dung dạy học của mình, có nhiệm vụ trao dồi cho học sinh
thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng
những tình cảm lành mạnh cho các em.
3.3-Nội dung :
Nội dung các bài học về Tập làm văn ở lớp 2 giúp các em thực hành rèn
luyện các kỹ năng nói, viết,nghe phục vụ cho học tập và giao tiếp hàng ngày,
cụ thể :
Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu : chào hỏi, tự giới thiệu, cảm
ơn, xin lỗi….


Thực hành về kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày, như : viết
bản tự thuật ngắn, lặp danh sách học sinh, tra mục lục sách, ……….
Thực hành rèn kỹ năng diễn đạt ( nói, viết ),như : kể về người thân, tả biển,
tả cây cối, ……
Thực hành rèn kỹ năng nghe :
Với cách biên soạn này, giờ dạy Tập làm văn trở nên linh hoạt hơn, gắn với
cuộc sống đời thường hơn và giúp học sinh hứng thú trong học tập.
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG VIỆC DẠY HỌC SINH LỚP 2
VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN TRONG GIỜ TẬP LÀM VĂN
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TRUNG HƯNG.
I-Ưu điểm
1.Vài nét về tình hình địa phương và nhà trường:
Trường Tiểu học Trung Hưng nằm trên địa bàn xã Trung Hưng, là xã có phong
trào học tập và truyền thống hiếu học. Đó là niềm tự hào và là niềm động lực luôn luôn
động viên giáo viên và học sinh phát huy truyền thống ấy để thi đua dạy tốt học tốt, góp
phần vào sự nghiệp giáo dục của đất nước. Hiện nay, trường đang vững bước đi lên nhờ
đội ngũ cán bộ quản lí trẻ , năng động, nhiệt tình; đội ngũ giáo viên yêu nghề mến trẻ,
hết lòng vì học sinh thân yêu. Trường nhiều năm liền đạt danh hiệu là trường Tiên tiến
Xuất sắc, có nhiều thành tích đáng kể. Trường là một trong những trường đứng ở tốp
đầu của huyện về các phong trào và các cuộc thi: Năm 2011- 2012 trường đã được
công nhận: Tập thể lao động xuất sắc. Trường có tổng diện tích là 6.900 m
2

, với tổng số
học sinh là 555 em chia làm 5 khối gồm 19 lớp. Khối 2 có 120 em, chia làm 4 lớp. Có
2 lớp được học 10 buổi/ tuần nên giáo viên có điều kiện rèn cho các em học tập được
tốt hơn. Các em học sinh rất ham tìm tòi hiểu biết, ưa tham dự vào các hoạt động Đội -
Sao nhi đồng. Hầu hết các em học sinh là con em nông dân nhưng các em đều được gia
đình, nhà trường quan tâm, giáo dục các em ngay từ nhỏ nên các em đều ngoan và có ý

thức tốt.
2-Về kiến thức trong sách giáo khoa:
Nói chung kiến thức trong sách giáo khoa được sắp xếp một cách hợp lí,
lôgic đi từ đơn giản đến phức tạp, từ cách nhìn thực tế đến sự vận dụng vốn
sống, vốn hiểu biết để viết đoạn văn. Học sinh được dạy các kĩ năng kể (tả)
đơn giản. Song không phải kể lại hoặc tả lại câu chuyện cảnh vật theo nội
dung bài tập đọc dựa vào lời kể (tả) của tác giả mà các em được kể (tả)
những gì có và diễn ra trong cuộc sống xung quanh. Điều này đã phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong kĩ năng viết đoạn. Do đó,
ta có thể khẳng định rằng: Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 đặc biệt chú trọng tới
rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh.

II. Những khó khăn hạn chế khi dạy học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn .


1.Về phía giáo viên:

- Một số giáo viên chưa coi trọng việc rèn viết đoạn văn cho học sinh
cách dạy của giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách
giáo viên, hầu như rất ít sáng tạo, chưa linh hoạt, chưa cuốn hút được học
sinh. Cách dạy của giáo viên có phần khuôn mẫu.
Ví dụ: Khi dạy học sinh bài Tập làm văn tuần 20 “ Tả ngắn về bốn
mùa ". Giáo viên đã hướng dẫn gợi mở các câu hỏi theo sách giáo khoa:
+ Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm ?
(Mùa hè bắt đầu từ tháng tư trong năm).
+ Mặt trời mùa hè như thế nào ?
(Mặt trời mùa hè rất chói chang).
+ Cây trái trong vườn như thế nào ?
(Cây trong vườn có rất nhiều hoa quả ).
+ Học sinh thường làm gì trong dịp nghỉ hè ?

(Học sinh thường được vui chơi trong dịp nghỉ hè).
- Giáo viên chưa vận dụng kỹ năng tả “ Mùa Xuân" của bài tập 1 vào
hướng dẫn bài tập 2. Sự dập khuôn máy móc như vậy dẫn đến bài viết của
học sinh là bốn câu thiếu lôgíc và sáng tạo, không phát huy được tính tích
cực của học sinh.
- Khi trao đổi với giáo viên dạy lớp 2 về cách hướng dẫn học sinh làm
bài tập "Viết đoạn văn ngắn", đa số giáo viên đều trả lời rằng:
Bước 1: Học sinh đọc yêu cầu bài .
Bước 2: Giáo viên nêu yêu cầu của bài: Viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu,
các câu phải liên kết với nhau .
Bước 3 : Học sinh viết vào vở .
Bước 4 : Chấm chữa lỗi.
+ Gọi 1 hoặc 2 học sinh đọc bài viết.
+ Giáo viên chấm bài, chữa một số lỗi sai về câu từ .
- Với cách hướng dẫn như trên học sinh khó có thể nhận ra nội dung
đoạn viết cần có những gì ? Liên kết câu như thế nào ? Cách diễn đạt làm sao
cho thoát ý… Đến bước 4 chấm lỗi như vậy chưa có kết quả thiết thực đối
với học sinh vì đối tượng học sinh lớp 2 các em dễ nhớ nhưng nhanh quên.
Do đó, cái sai của học sinh vẫn được lặp lại trong bài.
2. Về phía học sinh
-Các em học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn
rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết văn câu còn cụt lủn. Hoặc câu có
thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa còn

chưa rõ ràng. Việc trình bày, diễn đạt ý của các em có mức độ rất sơ lược,
đặc biệt là khả năng miêu tả.
- Học sinh có hứng thú trong giờ Tập làm văn song chủ yếu tập trung
vào các bài tập làm miệng với các yêu cầu nói lời cảm ơn, xin lỗi, đáp lại lời
khẳng định, phủ định… Học sinh thích thú nói về các con vật, người, quang
cảnh và những gì diễn ra xung quanh. Song vốn từ các em còn chưa nhiều, kỹ

năng diễn đạt bằng ngôn ngữ viết của học sinh còn hạn chế nên đôi khi các
em chưa nhận ra được sự khác biệt giữa các ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Ví dụ: Khi học bài tập làm văn tuần 10: Dựa theo lời kể bài 1 hãy viết
một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) kể về ông, bà hoặc người thân của em.
Bài viết của học sinh :" Bà em đã lên 65 tuổi rồi . Da mịn màng. Tóc
dài óng ả. Bà cho em ăn bánh. Bà rủ em đi chợ sau đó hai bà cháu lại đi
chơi."
- Học sinh thường viết theo ý hiểu bằng ngôn ngữ của mình cho nên câu
văn chưa giàu hình ảnh, dùng từ chưa phù hợp.
Ví dụ: Cũng viết đoạn văn ngắn kể về ông, bà hoặc người thân ở bài tập
làm văn nói trên có một học sinh viết: "Ông đã già, 70 tuổi. Nghề là thợ xây.
Hôm nào ông cũng đi tập thể dục vào sáng sớm."
- Một số bài viết của học sinh còn lộn xộn về câu, ý, dùng từ chưa
đúng vào văn cảnh, câu rời rạc thiếu sự liên kết.
Ví dụ: Đây là đoạn văn của một học sinh khi viết đoạn văn tả về một
loài chim mà em thích ( Tập làm văn tuần 21) như sau:
" Những ngày đi học về em cảm thấy rất nhớ nó. Mỏ nó mượt và nó hót
rất hay. Em rất thương nó và nó đẹp. Bộ lông nó mượt. Hình dáng của con bồ
câu rất thích thú".
- Đôi khi học sinh viết câu dùng cụm từ so sánh để diễn tả nội dung
song sự so sánh ấy rất khập khiễng.
Ví dụ: Khi viết đoạn văn kể về bà có em viết : "Da mặt bà em nhăn nheo
như quả bưởi héo".
Có em lại viết “Mỗi khi bà cười để lộ vài chiếc răng sữa trông rất
duyên.”
- Một lỗi nữa mà học sinh hay mắc là trả lời theo kiểu nắp đuôi cho
nên câu văn thiếu sự hấp dẫn, sinh động.
Ví dụ : Khi dạy bài Tập làm văn tuần 8 để viết đoạn văn kể về cô giáo
(thầy giáo) cũ của em sách giáo khoa có mấy câu hỏi gợi ý trong đó có câu
hỏi:

+ Tình cảm của cô đối với học sinh như thế nào?
+ Em nhớ nhất điều gì ở cô ( thầy)?

+ Tình cảm của em đối với thầy (cô) như thế nào?
Có em viết như sau : Tình cảm của cô đối với em rất tốt. Em nhớ nhất
điều là cô giáo rất dịu dàng và viết chữ rất đẹp. Tình cảm của em đối với cô
rất kính trọng.
III.Nguyên nhân của thực trạng
1.Do học sinh chưa có kỹ năng quan sát.
Do tâm lý lứa tuổi, do chưa được rèn luyện thường xuyên nên các em chưa
có cách quan sát cụ thể chi tiết. Các em chỉ quan sát thoáng qua, hời hợt,
thậm chí có em còn không để ý đến đối tượng cần quan sát. Thêm vào đó khả
năng tưởng tượng còn hạn chế, thiếu vốn sống thực tế. Do vậy khi viết đoạn
văn còn có những câu văn lạc lõng không sát thực với yêu cầu của đề bài.
2.Chưa biết dùng từ, đặt câu,.
Vốn từ của học sinh lớp 2 còn nghèo nàn, chưa hiểu hết nghĩa của từ , chưa
hiểu nhiều về cấu tạo của câu nên khi viết đoạn văn các em còn nhiều hạn
chế. Các em không biết viết thế nào, viết từ đâu để thành một đoạn văn.
3.Chưa có kỹ năng sắp xếp câu thành đoạn.
Từ chỗ nói chưa thành câu, nói câu cộc lốc nên khi viết các em bị chi phối
nhiều. Hơn nữa các em còn không biết viết câu nào trước, câu nào sau, viết
chưa thành câu đã chấm hết câu, viết xuống dòng tùy tiện do vậy nhiều bài
văn của các em viết không thành đoạn theo dung yêu cầu.
4.Giáo viên dạy phần lý thuyết chưa tốt.
Nhiều giáo viên chưa chuẩn bị kĩ nội dung bài trước khi lên lớp, chưa thực
sự đổi mới phương pháp, chưa tự giác tự nghiên cứu trau dồi thêm chuyên
môn nghiệp vụ để phục vụ công tác giảng dạy.
IV. Tiến hành khảo sát
- Sau khi dạy xong bài tập làm văn tuần 8 tôi khảo sát 2 lớp: lớp 2A và
2B với đề bài như sau :

Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cô giáo lớp 1
của em.
 Thời gian: 15 phút
Kết quả đạt được như sau:
Điểm Giỏi Khá TB Yếu
Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL %
2A

2B
35

35
6

5
17,2

14
10

8
28,5

23
12

14
34,3

40

7

8
20

23


- Nhìn vào bảng số liệu ta nhận thấy ngay rằng tỉ lệ bài viết điểm khá
giỏi ít mà tỉ lệ điểm yếu cao.
- Khi viết đoạn văn kể về cô giáo, các em thường bộc lộ các điểm yếu
sau:
+ Về cách diễn đạt như: Từ bị lặp nhiều, dùng từ không chính xác. Ví
dụ có em viết :"Cô giáo em tên là Lan. Cô Lan có dáng người cao, cô Lan có
mái tóc dài, cô Lan có đôi bàn tay rất khéo viết chữ rất đẹp ". Hay có em
viết: Cô giáo em có đôi mắt to tròn xoe như hai hòn bi.
+ Câu không rõ nghĩa, câu không đủ bộ phận, các câu trong đoạn văn
còn lộn xộn, viết đoạn văn mang tính chất trả lời câu hỏi. Ví dụ có em viết :
"Cô giáo em dạy lớp 1. Có nụ cười tươi. Em rất yêu qu ý cô. có hàm răng
trắng. cô giảng dễ hiểu. Em rất quý cô"
+ Có em viết đoạn văn theo cách trả lời nắp đuôi như sau: Tình cảm
của cô đối với em rất tốt.
- Trước thực trạng đó tôi đã tìm tòi, tham khảo nghiên cứu và đưa ra một
số giải pháp cụ thể.
CHƯƠNG III.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 2
VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
Biện pháp 1:Rèn các kỹ năng cơ bản cho học sinh viết đoạn văn ngắn.
Giáo viên cần chú trọng việc rèn viết đoạn văn ngắn cho học sinh. Cần
coi đây là công việc có vị trí quan trọng trong chương trình Tiếng Việt lớp 2.

Vì có viết đoạn văn tốt thì học sinh mới có nền tảng vững chắc để học văn
sau này.
a-Tạo cho học sinh có thói quen quan sát:
Giáo viên yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện
tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì qua thực
tế đôi khi tôi cho các em một bài tập tả về cảnh biển, có em bảo là con chưa
bao giờ nhìn thấy biển. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên
ở nông thôn nên các em không nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế giáo viên cũng
cần sưu tầm những phim ảnh để có thể trình chiếu cho các em, cho các em
quan sát về cảnh biển, … hoặc vào dịp nghỉ hà các em hay được ba mẹ cho đi
tham quan tắm biển, nhân đó, giáo viên có thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ
để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển.
b-Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh:
Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ
phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận
dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người

cung cấp.Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều.
Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc đều có những bài văn, bài
thơ nói về chủ để đó. Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả
lời thành câu đủ ý và chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập
làm văn. Từ đó học sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi
nhớ sau này vận dụng. Ví dụ : qua bài Tôm Càng và Cá Con học sinh rút ra
được đoạn văn tả về chú Cá Con trong bài “Con vật thân dẹt, trên đầu có
đôi mắt tròn xoe, toàn thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh”. Vốn từ còn
có trong phân môn luyện từ và câu. Giáo viên có thể cho các em chơi trò
chơi, thi đua tìm từ ngữ tả về chú cá. Các em sẽ rất hứng thú và tìm được rất
nhiều từ.
Để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh : Nhiều từ
ngữ gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình … Ví dụ : Mặt biển xanh và

rộng thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại
thành những từ ngữ liên kết như : và, thì, nếu, vậy là ….
Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay
những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự , ví dụ: Bác Hồ thành Bác,
Người… thay những từ ngữ thông thường thành những từ ngữ trau chuốt
hơn. Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình minh.
Ví dụ: Sau khi thành lập sơ đồ, có thể các em sẽ thành lập một đoạn văn như
sau : “Nhà em có nuôi một chú gà . Nó có bộ lông màu đỏ tía. Nó gáy rất
to. Em rất yêu nó”. Giáo viên có thể khuyến khích học sinh là “con làm
đúng nhưng chưa hay. Từ những ý tưởng ban đầu của con, chúng ta sẽ hình
thành một đoạn văn hay hơn nhé : “Chú gà trống nhà em trông mới oai vệ
làm sao ! Toàn thân nó phủ một lớp lông vũ màu đỏ tía. Sáng sáng, trống
tía nhảy tót lên ụ rơm đầu hè mà rướn cổ gáy vang ò ó o. Mỗi khi đi học
về, em thường rải cho nó một ít thóc và vuốt ve cái đuôi dài, cong cong
của nó”. Khi đó, học sinh sẽ thấy được vẫn là ý tưởng cũ nhưng đoạn văn đã
được lột xác, thêm thắt những từ ngữ trau chuốt hơn làm cho đoạn văn đẹp
hơn, nghệ thuật hơn.
Giáo viên có thể sưu tầm những bài văn hay và đọc cho học sinh nghe
để học sinh học hỏi. Trưng bày những bài văn hay của các bạn trong lớp để
các em noi gương. Tập ghi chép những từ hay, ý đẹp khi bắt gặp ở đâu đó
vào một quyển từ điển riêng của mình. Từ đó, vốn từ của các em sẽ ngày
càng nhiều, càng phong phú.
c-Giúp học sinh nắm chắc bố cục của đoạn văn:
Tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục 3 phần : mở bài
(giới thiệu), thân bài (nội dung), kết luận (tình cảm) và lập sơ đồ trước khi

làm tập làm văn. Tôi xin gợi ý một cách lập sơ đồ thông qua một trò chơi
“em và chú gà” như sau . Ví dụ : Khi tả một chú gà, giáo viên cho hai em lên
sắm vai, một em là “chú gà”, một em là “người tả”. Cùng lúc đó, giáo viên
cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở nháp.

 “Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà “nhà em có nuôi
một chú gà”
 Còn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tà : “tôi có bộ lông nhiều màu
sắc. Tôi có cái màu trên đầu. Tôi gáy rất to …”
 Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà : “Em
thường rải thóc cho gà ăn …”
Hoặc có thể tinh giảm em “người tả” chỉ cần một em sắm vai “chú
gà”.
- Sau khi nghe tả và quan sát xong các em thành lập ra một sơ đồ như
sau :









Từ đó các em đã nắm được đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển
thành một đoạn văn. Hoặc ta có thể cho em hình thành một đoạn văn qua trò
chơi “tiếp sức”.
- Từ sơ đồ đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo thành câu,
cứ thể nối tiếp nhau thành lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo viên
có thể ghi lại trên bảng, thế là đã có bốn đoạn văn mẫu. Có thể câu văn
lúc ấy còn lủng củng nhưng ta có thể sửa chữa.
Biện pháp 2:Trang bị cho học sinh về vốn từ và kĩ năng viết đoạn văn
ngắn
a.Cung cấp vốn từ
Mỗi đoạn văn là cả một thực tế sinh động diễn ra xung quanh các em.

Song có được đoạn văn theo yêu cầu của bài là cả một quá trình học sinh
phải tư duy, phân tích, tổng hợp, sắp xếp….
Chú gà ở nhà em
Mào đỏ
Lông nhiều màu

Gáy to
Ăn thóc
Em yêu mến chú gà


Con gà

* Giáo viên cần trang bị cho học sinh một số từ thuộc chủ đề hoặc phù hợp
với văn cảnh.
Ví dụ:
- Tả nắng của mùa hè: nắng chói chang, nắng gắt gỏng, nắng như thiêu
như đốt…
- Tả về tiếng hót của chim: hót líu lo, hót véo von, hót vang lừng …
- Tả về hình dáng người.
+ Thân hình : mảnh khảnh, gầy gò, béo tròn, thon thả …
+ Nước da : đen sạm, trắng hồng, bánh mật, xanh xao, đỏ đắn, ngăm
đen …
+ Mái tóc: đen bóng, óng mượt, bồng bềnh, loăn xoăn….
+ Khuôn mặt: Trái xoan, đầy đặn, tròn trịa, xương xương, vuông
vức
* Giáo viên đưa một số câu văn hay đến với học sinh một cách tự
nhiên không gò ép.
Ví dụ:
- Khi dạy học sinh viết đoạn văn tả cảnh biển tuần 26 giáo viên gợi

mở :
Câu “Những cánh buồm đủ màu sắc được nắng sớm chiếu vào sáng
rực lên, trông xa như những đàn bướm bay lượn giữa trời xanh cùng với cánh
chim hải âu”. Có thể trả lời cho câu hỏi nào? (Trên mặt biển có những gì ?)
b-Về kĩ năng
* Để có kĩ năng viết đoạn văn tốt giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ
năng nói gãy gọn, trọn vẹn ý, không nói câu cụt.
Ví dụ: Khi tả về con chim mà em yêu thích có học sinh nói: “Chim
chích choè cứ sáng sớm, trên cây dừa nhà em nó đậu rồi nó hót”.
Hoặc khi nói về tình cảm của cô giáo với học sinh không nên nói:
"Tình cảm của cô đối với em rất tốt", mà phải nói: "Cô giáo rất yêu quý
chúng em "
* Giáo viên cần phải phân tích cho học sinh:
Ý của em nói: "Cứ vào thời điểm buổi sáng, ở trên cây dừa nhà em có
một con chim chích choè đến và hót ”. Vậy em cần nói cho gãy gọn và hay
hơn: “Sáng nào cũng vậy, chim chích choè lại bay đến đậu trên cây dừa nhà
em, cất tiếng hót líu lo”.
* Giáo viên nhắc nhở học sinh lưu ý giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ
viết. Khi viết đoạn văn dẫn lời nói của người khác em phải cho trong ngoặc
kép.

Ví dụ : - Muốn kể lại lời nói của Dì trong đoạn viết về người thân của
em, cần phải viết trong ngoặc kép như: Dì em bảo: “Cháu cứ lấy kẹo ra mà
ăn ".
Hoặc khi trích dẫn lời nói của chú vẹt khi viết về một loài chim mà em
thích. Mỗi khi có khách đến chơi chú lại nhanh nhảu: "Có khách! Có khách
!".
- Việc rèn cho học sinh viết đoạn cần tạo điều kiện phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh. Phải làm sao cho mỗi đoạn văn là một cơ
hội sáng tạo cho học sinh thâm nhập, quan sát, phân tích từ thực tế.

* Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước thật tốt bài học, tiết
học hôm sau.
Ví dụ:
- Khi dạy học sinh viết 2 đến 3 câu về loài chim mà em thích.
Từ hôm trước giáo viên yêu cầu mỗi học sinh quan sát kỹ con chim
trong thực tế mà mình yêu thích. Cụ thể là : Các bộ phân đầu, mình, chân,
hoạt động, tiếng hót… của chim.
Biện pháp 3. Các bước tiến hành dạy học sinh viết đoạn văn ngắn
Bài tập viết đoạn văn ngắn là loại bài sản sinh lời nói. Học sinh tập
viết đoạn văn là tập sản sinh lời nói, văn bản. Vì vậy, giáo viên cần dựa vào
các bước sau để hướng dẫn học sinh làm bài tâp .
Bước 1:
- Xác định yêu cầu bài.
+ Học sinh nêu yêu cầu bài tập.
+ Giáo viên phân tích yêu cầu.
- Định hướng học sinh viết.
+ Tả (kể) về ai (cái gì) ?
+ Viết mấy câu ?
+ Viết với tình cảm như thế nào ?
+ Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
- Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một
bài văn như lớp 4 - 5, cũng chưa có khái niệm lập dàn ý. Song với đoạn viết
từ 3 đến 5 câu với 2 đến 3 ý cũng cần sự sắp xếp ý. Ở học kỳ I học sinh được
kể về những người thân thiết với mình như: Cô giáo, thầy giáo, ông, bà, anh,
chị, em… Do đó giáo viên nên gợi ý học sinh trước tiên tự giới thiệu về
người đó (Tên là gì?, mối quan hệ với bản thân?). Tiếp đó là hình dáng, tính
cách, công việc hoặc ý thích của người kể và cuối cùng là tình cảm của học
sinh đối với người mình kể.

- Sang học kỳ II, học sinh được tả về một số con vật, cảnh vật xung

quanh mình. Đầu tiên cần gợi mở cho học sinh giới thiệu về vật (cảnh vật)
định tả. Chi tiết nổi bật của cảnh, vật đó. Cuối cùng là tình cảm của bản thân
đối với cảnh vật và con vật đó…
- Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Ở khâu này học sinh
bộc lộ rất rõ nhược điểm về tư duy cách viết câu, sử dụng từ. Giáo viên
không nên làm thay cho học sinh mà nên trang bị một số tình huống, một số
cách dùng từ, một số cách liên kết phù hợp với nội dung đoạn viết để học
sinh vận dụng viết bài.
Bước 2: Học sinh viết bài vào vở.(Trước khi viết vào vở cho học sinh
nêu miệng bài văn)
Bước 3: Chấm bài, chữa lỗi.
- Học sinh đổi chéo vở đọc bài, sửa câu từ, nhận xét bài lẫn cho nhau.
- Giáo viên yêu cầu một số học sinh đọc bài viết của mình và đọc bài
viết đã được bạn sửa (câu, từ) trước lớp. Học sinh dưới lớp nhận xét sửa chữa
bổ sung.
- Giáo viên chấm và chữa một số lỗi cơ bản (từ, câu, ý).
- Giáo viên đọc đoạn văn mẫu mà giáo viên đã chuẩn bị để học sinh
tham khảo.
Ví dụ: Khi dạy học sinh viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa
hè, giáo viên cần hướng dẫn theo các bước như sau:
Bước 1: Xác định yêu cầu bài. Định hướng học sinh viết.
- Học sinh đọc yêu cầu bài: “Hãy viết từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè”.
- Giáo viên phân tích yêu cầu.
- Hướng dẫn học sinh định hướng viết.
+ Viết đoạn gồm mấy câu? (Viết đoạn từ 3 đến 5 câu).
+ Viết về cái gì? (Viết về mùa hè).
- Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
+ Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm?
(Mùa hè bắt đầu từ tháng 4 trong năm).
+ Mặt trời mùa hè như thế nào?

(Mặt trời mùa hè rất chói chang).
+ Cả hai câu trên cho em biết về thời điểm và nét tiêu biểu của mùa
nào? (Đó là mùa hè).
- Giáo viên khẳng định đây là ý 1 của bài.
+ Bà Đất nói về mùa hè như thế nào?
(Mùa hè cho ta trái ngọt hoa thơm).

+ Vậy câu nói của Bà Đất có thể trả lời được cho câu hỏi nào trong
bài? (Cây trái trong vườn như thế nào?).
- Đây chính là ý 2 của đoạn viết.
+ Em có thích mùa hè không? (Có).
+ Vì sao? (Vì mùa hè em không phải đi học mà được nghỉ hè).
+ Học sinh thường làm gì vào dịp nghỉ hè?
(Học sinh được đi tham quan, thắng cảnh, thăm ông bà…).
- Đây chính là ý 3 của đoạn viết.
+ Đoạn viết có mấy ý? (3 ý)
- Giáo viên giảng mùa hè đến khiến cho cây tươi tốt trái trĩu cành và
học sinh được nghỉ hè.
+ Ý nào là kết quả của ý nào đem tới? (ý 2 và ý 3 là kết quả của ý 1
đem tới).
Vậy đoạn văn có thể viết : Ý1 Ý2 Ý3
Hoặc: Ý1 Ý3 Ý2
Hoặc: Ý1 Ý3 lồng Ý2
+ Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Với 3 ý này học sinh
có thể phát triển mỗi ý thành 1 hoặc 2 câu. Từ câu này sang câu khác phải có
sự liên kết tránh lặp lại từ ý này phát triển tiếp ý kia.
* Giáo viên gợi ý:
Với ý 1 nói về thời điểm và đặc điểm tiêu biểu của mùa hè các em cần
lưu ý không nên lặp lại từ mùa hè trong 2 câu liên tiếp. Khi viết về ánh nắng
mặt trời nên dùng cách so sánh như: Nắng như thiêu như đốt, nắng cháy da

cháy thịt, nắng chang chang, nắng rát cả mặt…
+ Ánh nắng mùa hè em đã cảm nhận bằng những giác quan nào?
(Em đã cảm nhận bằng mắt, da…).
+ Em có ngửi thấy mùi hương của hoa không? (Có).
+ Có được ăn hoa quả trong mùa hè không? (Có).
+ Đó là hương, vị ta cảm nhận được bằng gì?
(Cảm nhận được bằng mũi và lưỡi).
+Vậy với nội dung ý 2 các em cần lưu ý điều gì? (Em cần đội mũ
nón…)
Tóm lại: Không nhất thiết cứ mỗi câu hỏi viết được một câu trong
đoạn văn. Cần viết với sự cảm nhận bằng nhiều cách: Nhìn, ngửi, ăn… xen
lồng với tình cảm của bản thân về mùa hè.




Bước 2: Học sinh làm bài vào vở.
- Giáo viên hướng dẫn cách trình bày một văn bản. Khi bắt đầu viết
đoạn cách lề một ô, viết hết câu này tiếp sang câu khác, ý này tiếp sang ý kia,
viết hết đoạn mới xuống dòng.
- Khi học sinh làm bài giáo viên quan sát giúp đỡ những học sinh yếu.
Bước 3: Chấm bài, chữa lỗi:
- Học sinh đổi chéo bài, đọc bài viết của bạn sau đó nhận xét về cách
trình bày, sửa câu, từ sai có trong đoạn viết.
- Một số học sinh đọc bài viết của mình, đọc câu bạn đã sửa giúp.
Học sinh khác góp ý bổ sung.
- Giáo viên chấm bài, chữa một số lỗi cơ bản (từ, câu, ý).
- Giáo viên đọc đoạn văn mẫu cho học sinh tham khảo.

CHƯƠNG IV. DẠY THỰC NGHIỆM

1. Các bước tiến hành dạy thực nghiệm:
- Xây dựng kế hoạch bài dạy, Tập làm văn lớp 2 các bài có yêu cầu
viết đoạn: Tuần 8, tuần 10, tuần 11, tuần 13, tuần 15, tuần 16, tuần 20, tuần
21, tuần 26, tuần 28, tuần 31, tuần 33, tuần 34.
- Dạy thực nghiệm.
Chọn 02 lớp có trình độ tiếp thu kiến thức ngang nhau, chất lượng
học tập tương đương nhau:
* Lớp đối chứng: Lớp 2B.
* Lớp dạy thực nghiệm: Lớp 2A.
- Tiến hành khảo sát lần 1, lần 2, để lấy số liệu đánh giá chất lượng
viết đoạn văn của học sinh.
- Tổng kết và đánh giá kết quả thực nghiệm.
2. Bài dạy thực nghiệm:
- Tiến hành dạy bằng phương pháp nói trên tất cả các tiết Tập làm văn
có bài tập yêu cầu viết đoạn văn.
- Bài: “Chia vui. Kể về anh chị em”.
I. Mục tiêu:
- Học sinh hiểu được thế nào là nói chia vui và ích lợi của việc nói chia
vui. Nắm được cách kể ngắn về anh chị em của mình.
- Học sinh biết nói lời chia vui (chúc mừng) hợp với tình huống giao
tiếp. Viết được đoạn văn ngắn kể về anh, chị, em, của mình.
- Giáo dục học sinh có thái độ đồng cảm, chia sẻ vui buồn với mọi
người và lòng yêu mến anh, chị, em trong gia đình.



II. Đồ dùng dạy học:
Tranh minh hoạ bài tập 1 (SGK).
III . Các hoạt động dạy- học:
A. Kiểm tra bài cũ:(5’)

- Giáo viên gọi một học sinh.
+ Em hãy nói lời an ủi của em với ông (bà)
khi kính đeo mắt của ông (bà) bị vỡ.



- Giáo viên chấm điểm.
- Giáo viên gọi 2 học sinh khác đọc đoạn
văn “Kể ngắn về gia đình em”.
- Giáo viên nhận xét, cho điểm.
B. Dạy bài mới:
1. Giới thiệu bài:(1’)
Các em đã biết kể ngắn về gia đình, biết
an ủi khi người khác gặp nỗi buồn hay có sự
bất hạnh.
Vậy khi bạn bè hoặc người thân có
niềm vui ta cần phải làm gì? Cần kể về anh,
chị, em trong gia đình bằng tình cảm như
thế nào? Cô mời các em đi tìm hiều bài học
ngày hôm nay :
“Chia vui – Kể ngắn về anh chị em”.
- Giáo viên ghi bảng.
2. Hướng dẫn học sinh làm bài tập:(28’)
Bài 1: (Miệng).
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát tranh
trong sách giáo khoa.
+ Tranh vẽ mấy nhân vật?
+ Đó là những ai?
+ Bé Nam đang làm gì?


+ Nét mặt hai chị em như thế nào?
- Giáo viên giảng: Chị Liên vừa đoạt giải


- Học sinh nói: Bà đừng tiếc
nữa bà nhé! Ngày mai mẹ
cháu sẽ bảo bố cháu mua tặng
bà chiếc kính khác.
- Học sinh nhận xét.

- Hai học sinh đứng tại chỗ
đọc.


-2 học sinh nhắc lại đầu bài.

-Học sinh quan sát tranh.

+Tranh vẽ 2 nhân vật.
+Đó là bé Nam và chị Liên.
+ Nam đang cầm hoa tặng chị.

+Nét mặt 2 chị em rất vui.




- Học sinh nối tiếp nhau nói
lời của Nam (Em chúc mừng
chị sang năm được giải nhất.)








nhì trong kỳ thi học giỏi tỉnh. Chị rất vui vì
đã đạt được thành tích này. Là em trai bé
Nam đem hoa tặng chị và Nam còn nói gì
với chị ? Em hãy nhắc lại lời của bé Nam.


- Giáo viên nhắc nhở học sinh nói tự nhiên
thể hiện sự vui mừng của em trai trước
thành công của chị.
- Giáo viên khen học sinh nói lời chia vui
của Nam tốt nhất.
+ Nam đã nói lời chia vui với chị khi nào ?
GV kết luận: Khi bạn hoặc người thân có
niềm vui ta cần biết chúc mừng bạn, người
thân đó. Sự chúc mừng đem lại niềm vui
cho mình và niềm vui cho bạn. Để hiểu kĩ
hơn nữa chúng ta cùng tìm hiểu bài tập 2
Bài 2: (Miệng)
- GV phân tích lại yêu cầu.
+ Bài yêu cầu em làm gì?
+ Để làm gì ?
- Giáo viên nhắc học sinh không được nhắc
lại lời của Nam.

- GV khuyến khích học sinh bày tỏ lời chúc
mừng theo nhiều cách khác nhau bằng cách
cho học sinh thảo luận cặp đôi.


- Giáo viên yêu cầu một vài cặp đóng vai
trước lớp.
- Giáo viên tổ chức học sinh bình xét cặp
thể hiện thái độ và nói lời chúc mừng tốt.
Nhận xét cặp chưa đạt.
+ Khi nói lời chia vui với người khác em
cần nói với thái độ thế nào?

GV kết luận: Cần nói tự nhiên với thái độ
+Nam nói lời chia vui khi chị
Liên có 1 niềm vui lớn.





-Học sinh đọc yêu cầu bài:
“Em sẽ nói gì để chúc mừng
chị Liên”.
+ Yêu cầu nói lời của em.
+ Để chúc mừng chị Liên.


- Học sinh nối tiếp nhau phát
biểu ý kiến.

Ví dụ: Em xin chúc mừng chị
hoặc: Chúc chị học giỏi hơn
nữa. hoặc Chúc mừng chị đoạt
giải
- Học sinh đóng vai nói lời
chia vui.



+ Em cần nói tự nhiên với thái
độ chân thành và vui mừng.











chân thành, vui mừng… khi chia vui với
người khác.
Chuyển ý: Buồn vui và tình cảm của mỗi
con người rất cần có sự cảm thông chia sẻ

của người khác. Còn việc kể về người thân
thiết trong gia đình thì kể như thế nào?
Cách viết đoạn văn ra sao cô mời các em

tìm hiểu tiếp sang bài 3 – GV ghi bảng
Bài 3: (viết)
Bước 1:
-GV phân tích yêu cầu bài


- Hướng dẫn HS định hướng viết.
+ Viết mấy câu?
+ Viết về ai?

+ Viết về một hay nhiều người?
+ Đoạn văn viết yêu cầu kể hay tả về người
đó?
- Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
+ Tên người em định kể là ai?
+ Người đó hình dáng như thế nào?
+ Tính nết người đó ra sao?
+Tình cảm của em đối với người đó như
thế nào?
+ Khi kể về anh (chị,em) em cần kể những
gì?
GV kết luận: Ý 1 giới thiệu người định
kể; ý 2 hình dáng tính nết người mình định
kể; ý 3 tình cảm của bản thân đối với người
đó.
- Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn
văn:
+ Khi kể về mái tóc có thể dùng các từ: óng
mượt, đen nhánh, bồng bềnh, loăn xoăn …
+Về thân hình : gầy gò, mảnh mai, vạm vỡ


- Học sinh đọc yêu cầu bài. -
Lớp đọc thầm theo: “ Hãy viết
từ 3 đến 5 câu kể về anh, chị,
em ruột hoặc anh, chị em họ
của em”.
+ Viết từ 3 đến 5 câu.
+ Viết về anh, chị, em ruột
(hoặc anh, chị, em họ)
+Viết về một người.
+Yêu cầu em kể về người đó.

- HS tự trả lời.


+ Trước tiên là giới thiệu tên
sau đó đến hình dáng, tính
cách và cuối cùng là tình cảm
của em.









- Học sinh chú ý lắng nghe.











+Về nước da: hồng hào, trắng hồng, xanh
xao…
+Về tính cách : Có thể dùng các từ: hiền
hoà, hoà nhã, thân mật, gắt gỏng.
- Là anh chị phải dùng các từ tỏ ý kính
trọng: quý mến, kính yêu, hoà nhã, hiền
lành. Nếu viết về em bé có thể dùng các từ
thể hiện sự trìu mến : ngây thơ, ngộ
nghĩnh. Cần dùng một cách xưng hô khi
viết đoạn, 2 câu liền nhau tránh lặp lại từ…
Bước 2: Học sinh viết bài vào vở
- GV hướng dẫn HS viết đoạn : chữ đầu
đoạn cách lề 1 ô câu này nối câu kia. Hết
đoạn mới chấm xuống dòng
Bước 3 : Chấm, chữa lỗi.
- GV chấm bài, sửa một số lỗi cơ bản về
(từ, câu, ý).
- GV đọc đoạn văn mẫu cho học sinh tham
khảo:“ Anh trai của em tên là Minh, năm
nay đang học lớp 8. Anh không mập lắm,
nước da trắng hồng, mái tóc bồng bềnh

trông thật đáng yêu. Em rất thích được
nghe anh kể chuyện và nhìn thấy anh cười.
Em sẽ học thật giỏi để lúc nào anh cũng có
thể tự hào về em".
C. Củng cố – dặn dò(2’)
+Hôm nay chúng ta học bài Tập làm văn
gì?
+ Khi nào ta cần nói lời chia vui?

+ Nói lời chia vui với thái độ như thế nào?
- GV nhận xét, đánh giá tiết học.
- Dặn học sinh về đọc lại đoạn văn, tiếp tục
sửa lỗi về ( câu, từ, ý) và thực hành nói lời
chia vui khi bạn hoặc người thân có niềm
vui.











- HS làm vào vở.




- HS đổi vở đọc bài, nhận xét
và sửa câu, từ cho bài của bạn.

- Nhiều học sinh đọc bài viết
trước lớp đồng thời đọc câu
bạn đã sửa cho mình , học
sinh khác bổ sung.






+ Bài chia vui. Kể về anh chị
em.
+ Khi người khác có niềm vui.

+Giọng tự nhiên, thái độ chân
thành, vui mừng.



3. Kết quả:
Sau một thời gian áp dụng biện pháp nói trên trong việc dạy học sinh
viết đoạn văn ngắn, tôi đã kiểm tra học sinh 2 lớp 2A và 2B để lấy số liệu.
Lần 1: Tuần 15 ngày 7 tháng 12 năm 2012.
Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu nói về anh, chị, em
ruột của em ( hoặc anh, chị, em họ của em).
Thời gian làm bài :15 phút
Đối tượng 70 học sinh của hai lớp 2.

Kết quả đạt được như sau:
Điểm Giỏi Khá T.Bình Yếu
Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL %
2A 35 9 25,7 11 31,4 11 31,4 4 11,3
2B 35 5 14,3 9 25,7 14 40 7 20

Lần 2: Tuần 26 ngày 08 tháng 03 năm 2013
Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn (từ 4 đến 5) câu nói về con vật mà
em yêu thích.
Thời gian: 15 phút
Đối tượng 70 học sinh của hai lớp 2.
Kết quả đạt được như sau:
Điểm Giỏi Khá T.Bình Yếu
Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL %
2A 35 10 28,5 13 37,2 10 28,5 2 5,8
2B 35 6 17,2 10 28,5 13 37,1 6 17,2

- Nhìn vào các bảng kết quả trên cho thấy cách tổ chức học sinh viết
đoạn ngắn theo hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh có kĩ năng viết đoạn
văn chắc chắn, thành thạo, chất lượng đoạn văn viết của học sinh tăng lên rõ
rệt qua từng đợt kiểm tra tại lớp thực nghiêm.
- Mặt khác qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp 2A tôi thấy giờ học
diễn ra sôi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói
hơn cả là hiện tượng nói câu không rõ nghĩa, không trọn ý không còn nữa.
Học sinh đã biết dùng những từ ngữ giàu hình ảnh, câu viết khá sinh động.
Khi viết về các con vật và con người xung quanh mình. Thời gian hoàn thành

đoạn viết trong các lần kiểm tra cũng nhanh hơn so với lớp đối chứng. Điều
đó chứng tỏ cách dạy viết đoạn văn theo hướng đã trình bày ở trên đã đem lại
kết quả đầy khả quan, cần được phát triển để thực sự nâng cao chất lượng

viết đoạn nói riêng và học Tiếng Việt nói chung cho học sinh lớp 2.












C. PHẦN KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN
Viết đoạn văn ngắn - Đây là dạng bài nòng cốt trong môn Tập làm văn
lớp 2. Nó đòi hỏi ở người học vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi
mắt quan sát tinh tường,óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy khi dạy
dạng bài này giáo viên cần nắm rõ tâm lí lứa tuổi học sinh:Ở lứa tuổi này học
sinh nhìn nhận sự việc thế nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có em tỉ
mỉ quan sát , có em rất hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh khi con muốn
viết bất cứ cái gì thì các con cần hiểu rõ về cái đó. Con phải tìm hiểu thông
tin về cái đó. Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cô hay quan sát thực tế, qua
đọc sách báo.Giáo viên cần phối hợp những phương pháp và hình thức dạy
học sao cho đảm bảo với mục tiêu.
Qua thời gian tìm hiểu, nghiên cứu nội dung chương trình, đánh giá thực
trạng, tìm ra nguyên nhân tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giúp học
sinh lớp 2 viết doạn văn ngắn mà theo cá nhân tôi việc đó là rất cần thiết và
trong quá trình thực hiện tôi đã thu được kết quả khả quan.Đa số các em đã
biết cách viết đoạn văn với những câu rõ nghĩa , đủ ý của đoạn viết theo yêu

cầu của đề bài. Từ việc giảng dạy, theo dõi kết quả học tập của học sinh từ
các bài kiểm tra định kì tôi thấy: học sinh đã có những hứng thú nhất định
khi học môn Tập làm văn và nhất là khi tiếp xúc với bài tập viết đoạn văn
ngắn.

×