Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh của các tác giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.53 KB, 72 trang )

Minh triết Việt và minh triết Hồ Chí Minh

Tác giả: Hoàng Ngọc Hiến
Trên đại thể, minh triết là “đạo lý đời thường”. Đạo lý này có tính chất
đời thường vì, cũng như tính Phật, nó sẵn có ở mọi người. Nói cách khác, ai
cũng có thể có minh triết.
LTS: Bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học
giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997)[i] độc giả
Hoàng Ngọc Hiến đã có bài luận góp phần định nghĩa minh triết, xác định đa
nguồn minh triết Việt và minh triết Hồ Chí Minh.
Theo tác giả, "minh triết là tính sáng khôn, thiên về diễn ngôn thoáng gọn, chủ
yếu được sống và sống ở bình diện đạo lý đời thường, tuy vậy không xa lạ với
đạo lý thánh hiền, thiên về cảm hóa lòng người hơn là quở trách thói đời".
Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết bốn kỳ của ông để mọi người cùng
suy ngẫm.
Bài 1: Không phải cứ muốn là thành triết gia
Ngô Thời Sĩ có phân biệt "đạo lý thánh hiền" và "đạo lý đời thường":
"Đem đạo thánh hiền để quở trách thói đời không bằng đem đạo đời thường để
cảm hoá lòng người".
Trên đại thể, minh triết là "đạo lý đời thường". Đạo lý này có tính chất đời
thường vì, cũng như tính Phật, nó sẵn có ở mọi người. Nói cách khác, ai cũng có
thể có minh triết. Nhưng triết lý thì khác, triết luận đòi hỏi năng lực tư duy đặc
biệt, không phải cứ muốn thì trở thành triết gia.

NGUỒN />1
Hình minh họa. Nguồn ảnh: fineartamerica.com
Đời thường còn có nghĩa là kinh nghiệm trong cuộc sống thường nhật. Trí
khôn, trí tuệ, trí thức của minh triết bao giờ cũng gắn với kinh nghiệm sống đời
thường, vốn nảy sinh từ những kinh nghiệm này. Đây là một đặc tính quan trọng
của minh triết. Còn triết lý thì thiên về thuần lý và có xu hướng thoát ra khỏi
"tính cục bộ", "tính cụ thể" của kinh nghiệm.


Đến đây dựa vào những đặc trưng của ý thức minh triết và nhất là tư
tưởng hiền minh của Ngô Thời Sĩ, tôi mạnh dạn đưa ra một định nghĩa về minh
triết như sau: "Minh triết là tính sáng khôn, thiên về diễn ngôn thoáng gọn, chủ
yếu được sống và sống ở bình diện đạo lý đời thường, tuy vậy không xa lạ với
đạo lý thánh hiền, thiên về cảm hóa lòng người hơn là quở trách thói đời".
Dùng từ "tính sáng khôn", tôi muốn hiểu minh triết cũng như tính Phật là tính sẵn
có trong lòng người, nói như Nhất Hạnh, nó là "hạt giống tốt" vốn có ở mọi
người. Cân nhắc giữa 3 từ: "trí khôn", "sự khôn ngoan", "tính sáng khôn", cuối
cùng tôi chọn từ "tính sáng khôn", "tính sáng" như là một thuộc tính của "minh
tâm" và Phật tính là một từ của nhà Phật được nhắc đến nhiều lần.
Trong bài "Cư trần lạc đạo phú" nổi tiếng của Trần Nhân Tông (1258-
1308)[ii], "tính sáng" là "đạo", "khôn" là "đời", minh triết vừa là "đạo", vừa là
"đời", nó là "tính sáng khôn". Tôi nhấn mạnh: "chủ yếu được sống và sống" bởi
lẽ lẽ sống của nhà hiền triết là "sống" và "sống" minh triết chứ không phải "nói"
và"nói" minh triết.
2
Tôi nhấn mạnh thuộc tính "thiên về cảm hóa lòng người " vì ở trạng thái
nhân thế hiện nay, ở xã hội ta cũng như trên toàn thế giới, ý thức con người thiên
về "phá" hơn là "xây", những thiện chí "cảm hóa lòng người" bị "lép vế", bị lấn
át, thậm chí bị áp đảo trước những cơn cuồng nộ quở trách, chửi rủa vô tội vạ
"thói đời". Cảm hứng chủ đạo của minh triết là "xây dựng" bằng "sự cảm hóa
lòng người".
Trong tiểu luận "Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây"( 1960) của
Kim Định (1915-1997), tác giả đề nghi ước lệ phân biệt 3 ý niệm: triết lý, minh
triết, triết học. Cho đến nay vẫn lưu hành một thành kiến cho rằng chỉ phương
Tây mới có triết lý, phương Đông có tư tưởng, có Đạo học, có minh triết nhưng
không có triết lý. Với một cách ước định riêng thuật ngữ "triết lý", Kim Định
khẳng định: có triết lý phương Tây và có triết lý phương Đông ngay từ thời cổ
(cổ đại và trung đại).
Tư duy triết lý phương Đông mang những đặc điểm của tư duy minh triết

mà những nét tiêu biểu nhất là:
- "Lấy cứu cánh con người làm trọng tâm suy nghĩ, lấy sự thực hiện đến
rốt ráo cái tính bản nhiên con người làm mục tiêu (tận kỳ tính) [réaliser
l'humanité] " (xem tr.3)[iii]
- Những lời huấn đức minh triết được trình bày "tuy vắn tắt kiểu châm
ngôn nhưng có hiệu lực muôn đời như: Pythagore, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca
v.v. (H.N.H.tô đậm]" (xem tr.2)
- Những nhà hiền triết "lo sống cái minh triết hơn là nghĩ đến viết ra sách
vở (H.N.H.tô đặm)" (xem tr.2); họ cố gắng thực hiện minh triết "không phải
ngoài cõi nhân sinh mà ngay trong đời sống, trong lối cư xử, trong cử chỉ".
- Phương pháp của tư duy minh triết "là thể nghiệm, trực giác, không dùng
đến lý luận, phân tích (H.N.H.tô đậm)", "lý chứng, luận bàn" (xem tr.3), đương
nhiên là không xây dựng hệ thống.
Tư duy triết lý phương Tây thiên về kiểu "tư duy triết học" mà những đặc
điểm chính được Kim Định xác định như sau:
- "Không lấy con người mà lấy thiên nhiên sự vật làm trung tâm suy tư,
con người chỉ được bàn đến một cách phụ thuộc, hay đúng hơn bằng những
phạm trù của sự vật". (xem tr.4)
- "Triết Tây hầu hết là duy niệm, nghĩa là chỉ dùng có ý niệm suông, ngoài
mọi tình cảm, ngoại lý (irrationnel) và tiềm thức. Những khoản này mới được
chú ý đến từ ít chục năm sau đây (H.N.H. tô đậm)". (xem tr.22)
3
- "Phương pháp: theo lối khoa học phê phán và phân tách, cố tìm ra những
ý niệm độc đáo và tích luỹ sự kiện để kết thành những hệ thống mạch lạc chặt
chẽ "
- "Mục tiêu lấy tri thức làm cùng đích."
- Trong khi minh triết "được giấu vào trong cử chỉ, thể hiện vào đời sống
và trong cả sự im lặng " thì những hệ thống triết học "kiểu nhà trường" được
quăng ra, nằm "chình ình bên cạnh đời sống."
Vài thế kỷ gần đây do sự tiếp xúc Đông - Tây ngày càng mở rộng và có

chiều sâu, sự tương tác giữa triết học phương Tây và minh triết phương Đông
ngày càng có hệ quả rõ rệt.
Một mặt, "triết học Tây phương hiện phát động một phong trào di cư vĩ
đại: di cư từ những nền móng cũ đến định cư trên những nguyên lý mới" (tìm
thấy ở minh triết Đông):
- "Nguyên lý biến dịch thay vào ý niệm bản thể im lìm"
- "Nguyên lý cơ thể [iv] thay vào ý niệm cơ khí "
- "Bớt chú trọng thiên nhiên để nhấn mạnh đến thân phận con người."
- Ngoài khái niệm duy lý, có chú ý đến "tình cảm, ngoại lý (irrationel),
tiềm thức" (xem tr.7)
Mặt khác, "Đông phương chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Tây phương: 1) về
phương diện lý luận trình bày và chú ý đến phần lịch sử hơn; 2) đưa vào một óc
phê phán được thức tỉnh và không chấp thuận dễ dàng mọi huấn điều tiền nhân;
3) dùng sự mổ xẻ phân tích dưới nhiều khía cạnh khác nhau để làm sáng tỏ vấn
đề" (xem tr.7). Ngày nay, muốn bàn về minh triết Đông, không thể không biết
triết học Tây, phải nghiên cứu những phạm trù và lịch sử của nó.
(Còn nữa )
****************
Chú thích
[i] Kim Đinh, giáo sư, triết gia, linh mục Thiên chúa giáo
[ii] "Yêu tính sáng yêu hơn châu báu" (Hội thứ nhất, Cư trần lạc đạo phú)
"Gìn tính sáng tính mới hầu an" (Hội thứ hai)
"Di Đà là tính sáng soi" (Hội thứ hai)
" Gìn tính sáng, chớ lạc tà đạo" (Hội thứ ba)
[iii] Số trang của bài"Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây" PDF trên
mạng
[iv] Tức là "nguyên lý hữu cơ"
4
Bài 2: Minh triết là “trí tuệ được nhào nặn bởi kinh nghiệm”



Tiểu luận về "hai nền triết lý Đông - Tây" của Kim Định nêu
nhiều vấn đề đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.
Tư trào phục hưng minh Triết mới đột khởi ở phương Tây cách đây mươi
năm trong khi Kim Định cách đây nửa thế kỷ (bài tiểu luận được viết trong
những năm 1956-1961) đã khẳng định con đường đế vương của minh triết trong
lịch sử tư tưởng nhân loại thời quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai. Rất
tiếc do phạm vi của chủ đề, trong bài này, chúng tôi chỉ có thể nêu phần nào vài
ba vấn đề.
Kỳ 1: Không phải cứ muốn là thành triết gia
Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, ngay từ đầu nguồn của triết học, triết
lý đã được đặt trong tương quan với minh triết[i]. Minh triết là bất cập với con
người, chỉ Thượng đế mới có minh triết (sophia). Triết gia chỉ dám nghĩ đến sự
vươn tới minh triết với tư cách là người quí mến minh triết, cũng có thể đây là
một cách bày tỏ thái độ khiêm nhường, khỏi bị nghi oan là báng bổ, dám sánh
ngang với Thượng đế. Như vậy ở đầu nguồn của triết học, minh triết (sophia) là
trên-triết học (philosophia).
Triết học phương Tây phát triển qua các thời đại. Đặc biệt đến t.k.XVIII,
triết luận trở thành một hoạt động bộ môn quy củ chuyên sâu, đã có thể nói đến
sự hình thành của giới triết gia chuyên nghiệp. Cuối t.k.XVIII, đầu t.k. XIX,
những thành tựu rực rỡ của triết học cổ điển Đức phát huy thanh thế của triết
học. Có sự thay đổi trong tương quan giữa minh triết và triết học.
Không ít triết gia phương Tây xem minh triết là người bà con nghèo của
triết học. Minh triết bị lép vế, không có sức thuyết phục chứng minh của tri thức
khoa học, triết học, cũng không cú sự linh diệu thần khải của tín điều tôn giáo.
So với tư duy triết học có những bay bổng mê hồn thi những lời bàn của
minh triết xem ra tẻ nhạt, u xìu, ngán ngẩm, tủn mủn, không có góc cạnh. "Minh
triết -Wittgenstein, một triết gia Anh gốc Áo (1889-1951) viết: là cái gì đó nguội
lạnh và lẩn thẩn Cũng có thể nói như thế này: minh triết chỉ che đậy cuộc sống,
làm cho ta không thấy được nó. Minh triết giống như tro xám, nguội lạnh phủ lên

than hồng".

Nguồn: />5
Sự phát triển lịch sử làm nổi bật một ưu thế lớn của triết học: triết học có
lịch sử, nhiều lịch sử, nhưng chưa bao giờ có lịch sử minh triết (chỉ có lịch sử tư
tưởng của một bậc minh triết).Với sự phát triển của triết học phương Tây hiện
đại, dưới con mắt của nhiều triết gia phương Tây hiện đại, minh triết trở thành
cái gì đó dưới triết học. Nhưng theo quan niệm của nhà triết học Pháp Francois
Jullien, minh triết không "dưới"(sous-) "triết học" mà là "hạ tầng"(infra-) của
triết học".
Từ những năm cuối t.k.XX, ở phương Tây, đặc biệt ở Mỹ, có một trào lưu
phục hưng minh triết ngày càng rộng lớn, nhằm trả lại cho minh triết địa vị và
vai trò xứng đáng của nó trong đời sống tinh thần của nhân loại. Có học giả đánh
giá đây là một trào lưu Khai sáng thứ hai.
Chỉ cần mở trang Web "Wisdom Page" (Trang Minh triết) là có danh sách
hàng trăm tiểu luận và công trình về Minh triết được giới thiệu nghiêm túc, có hệ
thống, phân tích cặn kẽ. Đặc biệt từ 2005 đến 2006, trên mạng số bài mục về
minh triết tăng 600%, tổng số trang Web có từ wisdom (minh triết) lên đến 17
triệu trang. Tôi đặc biệt chú ý đến mấy sự kiện sau đây:
- Càng ngày càng có nhiều học giả lên tiếng thay "kinh tế trí thức" bằng
"kinh tế minh triết", thay "giáo dục trí thức" bằng "giáo dục minh triết" Kinh tế
trí thức đơn thuần không có minh triềt cũng như giáo dục trí thức đơn thuần
không có minh triết đang đưa nhân loại đến bờ vực thẳm.
- Để xây dựng xã hội cần có vốn. Những năm 60 thế kỷ trước, vốn trước
hết là tiền mặt. Những năm 70, vốn là trí thức. Những năm 80, có xu hướng đề
cao vốn xã hội (tức là ý thức gắn bó với xã hội, với tập thể và cộng đồng). Ngày
nay, có nhiều học giả đưa ra yêu cầu đặt vốn minh triết lên trên hết.
- Một công trình đồ sộ có nhan đề Wisdom Bible (Kinh thánh Minh triết)
đã được biên soạn, thu thập những viên ngọc "minh triết" của những nền văn
minh cổ của nhân loại: Trung Quốc (Đạo đức kinh, Đại học, Trung dung ), Ấn

Độ (Kinh Upanishad, Đạo Hin đu, Kinh Phật), Trung Đông (Đạo Do Thái, Đạo
Hồi, Kinh Coran), Hy - La (Platon, Epicure, Epictete [chủ nghĩa khắc kỷ] , Boece
[cổ La Mã] )
Điều đáng chú ý là có những văn bản của những triết gia đích thực cũng
được đưa vào bộ Kinh Thánh Minh triết này (có nghĩa là sự phân biệt minh triết
và triết học chỉ có tính chất tương đối).
Định nghĩa Minh triết là gì là một việc rất khó. Một câu nói hóm của một
học giả: "Tìm cách định nghĩa minh triết, đó là bằng chứng của sự thiếu minh
6
triết". Đại học tổng hợp Chicago vừa đưa ra Dự án đề tài: Định nghĩa Minh triết
với kinh phí trợ cấp 2.000.000$, học giả bất cứ nước nào đều có thể tham gia.
Tôi bằng lòng với việc đưa ra một số ví dụ:
- Thời bom Mỹ, trong những láng giềng của tôi, có một cháu bé hơn mười
tuổi, học lớp 3. Một lần đi sơ tán về, cháu nói: "Bác ạ, mình cứ nói người nhà
quê ra Hà Nội thì đần, cháu thấy người Hà Nội về nhà quê cũng đần. Hôm đầu,
cháu chịu không biết làm thế nào để rửa chân, mãi mấy hôm sau cháu mới biết
cách".
Câu nói của cháu làm tôi sửng sốt, đây là một nhận xét minh triết. Có
những công trình học thuật giầy cộp mà không có nổi một nhận xét độc đáo, sâu
sắc như của cậu bé. Thường thì càng cao tuổi người ta càng hiền minh. Nhưng
không nhất thiết vậy. Đối với sự phát huy minh triết, học vấn không phải là thừa.
Nhưng chỉ có trình độ tiểu học vẫn có thể có những suy nghĩ hiền minh. Từ ví dụ
này có thể thấy một sự khác biệt giữa triết học và minh triết: một học sinh lớp ba
một dòng triết học cũng không hiểu nổi vẫn có thể nói một câu minh triết độc
đáo và sâu sắc.
- Tôi có đọc một công trình lý luận tác giả viết những trang rất hay về vấn
đề tư hữu. Nhưng vấn đề chỉ sáng bừng lên khi tôi đọc đến câu của Balzac được
tác giả, trích dẫn: "Người mà không có gì là kẻ không ra gì". Câu của Balzac là
minh triết. Mác đã viết những trang cứ liệu uyên bác, lập luận đanh thép để đi
đến một kết luận quyết liệt: bãi bỏ tư hữu. Giá như Mác có thêm được minh triết

của Balzac chắc chắn ông suy nghĩ khác và học thuyết của ông không phải là chủ
nghĩa Mác như chúng ta biết.
- Tôi có hỏi Nguyên Ngọc về minh triết các dân tộc Tây nguyên, anh dẫn
một câu "xanh rờn" từ một bản trường ca: "Đàn ông là sấm, đàn bà mới là sét".
- Người Mông có câu: "Con ai không biết, vợ ta đẻ ra là con ta". Câu này
làm vỡ tung những ước lệ đao đức và phong tục nhưng xét đến cùng thì minh
triết của nó chứa đựng một tinh thần nhân văn rất cao.
- Người Tày ở Ba bể (Bắc Kạn) có tục lệ hễ trong nhà làm thịt gà thì bao
giờ cũng cắt "hai đùi gà" dành phần cho trẻ con, nếu trong nhà không có trẻ con
thì đem cho trẻ em hàng xóm. Đó là minh triết. Minh triết sống động của tục lệ
tốt đẹp này có khi có sức thuyết phục hơn "trăm bài diễn văn tuyên truyền" "bảo
vệ quyền lợi trẻ em".
- Hôm vừa rồi, đến thăm chùa Quang Ân (Hà Đông cũ) tôi thấy môt bức
trướng ghi lai 14 lời khuyên của Phật, do Thương tọa Kim Cương Từ sưu tầm.
7
Câu đầu tiên: "Kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình". Câu cuối cùng: "An ủi
lớn nhất đời người là làm bố thí". 14 câu, câu nào cũng hay. Tôi nghĩ bụng giá
như học sinh của chúng ta ngay trên ghế nhà trường đã được học những câu này,
những ý nghĩ minh triết giản đơn, không bao giờ cũ.
- "Người là muối của đất. Nhưng nếu như muối mất vị mặn, làm sao nó có
thể mặn trở lại. Chẳng còn cách nào khác là đem vứt đi, để rồi người ta dẫm đạp
lên " Không thể nào quên được câu nói đậm đà minh triết này của thánh
Matthew.
- Troy Dunn có đưa ra một năng lực của minh triết: đó là "năng lực có
những lựa chọn đúng và đưa ra những quyết định tối ưu trong khi chưa có thông
tin đây đủ". Nhận xét này giúp chúng ta nhận ra những người minh triết thường
gặp trong cuộc sống.
- Trí, nhân, dũng, bộ ba phẩm giá này hết sức quen thuộc với chúng ta, có
thể xem đây là lý tưởng của minh triết. Trong lý tưởng này, trí gắn với nhân là
tuyệt đẹp nhưng không có dũng thì chỉ làm cảnh thôi. Hành động ít nhiều đòi hỏi

lòng dũng cảm. Mà không hành động là không có gì. Lòng dũng cảm có khi còn
quan trọng hơn sự hoàn thiện trí và nhân. Trí gắn với nhân tức là gằn với những
giá trị đạo đức, tinh thần. Đây là một đặc tính hết sức quan trọng của minh triết.
"Kinh tế trí thức" rất hấp dẫn nhưng hàm chứa nguy cơ trí thức và lý
thuyết một khi "lộng hành" sẽ gạt phăng các giá trị tinh thần, đạo đức. Do đó mới
có sự đề xuất "kinh tế minh triết". "Giáo dục trí thức" cũng rất hấp dẫn nhưng
cũng hàm chứa nguy cơ.
Xu thế càng ngày càng có tính chất áp đảo của giáo dục toàn thế giới là sự
truyền đạt tri thức và kỹ năng hầu như trở thành mục tiêu duy nhất của giáo dục,
làm lu mờ mục tiêu giáo dục những giá trị chi phối người sinh viên sử dụng
những trí thức và kỹ năng đó như thế nào và làm gì. Xu thế này cũng là một nguy
cơ đáng lo ngại đối với nền giáo dục Việt Nam. Hiện nay, hầu như không có
triển vọng nào ngăn ngừa xu thế này. Trên thế giới tiếng nói của những học giả
đòi hỏi cải tạo một cách cơ bản nền giáo dục hiện nay thành nền "giáo dục minh
triết" còn hết sức yếu ớt. Không mấy ai quan tâm đến nguyên lý giáo dục của
Gandhi được đề ra từ đầu thế kỷ trước: "Giáo dục cơ sở phải lấy minh triết và
lòng từ thiện làm nền tảng."
Những biểu hiện của minh triết có tính chất tổng thể: vừa là chân, mỹ,
thiện; vừa là tri thức, kinh nghiệm; vừa là trí tuệ, tâm hồn, ý chí; vừa là vốn sống,
lối sống, phương pháp tư duy Chuẩn bị cho một định nghĩa thấu đáo và đầy đủ
8
hơn về minh triết, tôi thử đưa ra mấy nét đặc biệt của minh triết như là nhận thức
và lối sống:
- Minh triết gắn với nghiệm sinh.
- Minh triết quan tâm đến sự cân bằng, hài hòa
- Minh triết thể hiện trong lối sống.
Minh triết gắn với nghiệm sinh (le vécu). Jerry Ortiz y Pino đã nêu đặc
điểm này thành một yêu cầu tất yếu: Minh triết không phải là cái gì đó bẩm sinh.
Thông minh là bẩm sinh. Linh lợi là bẩm sinh. Năng động cũng vậy. Nhưng
minh triết thì không. Nó chỉ đến từ sự sống, từ sự phạm sai lầm - hoặc giả từ sự

nghe những người khác đã phạm sai lầm và học hỏi được ở họ ".
Yêu cầu này được tuyệt đối hóa trong một câu kinh Phật nổi tiếng: "Chớ
có tin vào đức tin của những truyền thống, dù cho chúng đã được vinh danh lâu
đời qua nhiều thế hệ và ở nhiều nơi. Chớ có tin vào một điều nào chỉ vì có nhiều
người nói đến nó. Chớ có tin vào đức tin của những bậc hiền minh trong quá
khứ. Chớ có tin vào những gì mà anh tưởng tượng rằng Thượng đế truyền gợi
cho anh. Không tin gì hết nếu như chỉ có uy tín của những bậc thầy của anh hoặc
của những nhà sư của anh. Sau khi xem xét hãy tin vào những gì chính anh đã
thể nghiệm hoặc nhìn nhận là hợp lẽ, những gì phù hợp với phúc lợi của anh và
của những người khác" (Siddârtha, Kâlâma sutta).
Minh triết là "trí tuệ được nhào nặn bởi kinh nghiệm".
"Những người tốt sở dĩ tốt vì họ đã đến với minh triết thông qua thất bại"
"Cuộc sống là người khuyên bảo dích thực duy nhất của chúng ta; minh triết
chưa được lọc qua kinh nghiệm riêng tư thì chưa trở thành một phần trong cốt
cách đạo đức "
Nhìn chung minh triết thuận cho sự tích hợp với nghiệm sinh hơn triết học.
Chủ nghĩa Freud, chủ nghĩa hiện sinh Pháp do còn gắn với nghiệm sinh nên đã
có thời trở nên hết sức phổ cập. Nhưng trên đại thể, do cách tiến hành của tư duy
triết học thiên về thuần lý nên triết lý dễ tách rời nghiệm sinh.
Học giả Alan Nordstrom nói đến tình trạng triết học hiện thời không tích
hợp với nghiệm sinh nữa, đó là nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng trầm
trọng của triết học hiện nay, thậm chí ông còn nói đến "sự cáo chung của triết
học"! Cũng từ tình trạng này ông giải thích xu hướng trở về với Cơ sở của Minh
triết.
9
Mong rằng triết học chưa cáo chung và sự phục hưng của Minh triết tạo ra
quan hệ bổ sung giữa minh triết trong bản chát gắn với nghiệm sinh và triết hoc
do quán tính tư duy thuần lý dễ xa rời nghiệm sinh.
Nhìn chung, minh triết là một kho báu những kinh nghiệm đối nhân xử thế. Tuy
nhiên, nghiên cứu minh triết không thể dừng lại ở sự tổng kiểm kê những kinh

nghiệm này. Cần đề ra những ý niệm, khái niệm của minh triết. François Jullien
từng đề nghị xem ý niệm "mặc hóa" ("biến hóa lặng lẽ", từ của Lão tử) như một
ý niệm đặc thù của minh triết Trung Hoa.
Bàn về cách tư duy của minh triết nhiều học giả nói đến nhu cầu cân bằng.
Robert Sternberg nói đến nhu cầu cân bằng giữa những lợi ích trong bản thân
một cá nhân, giữa cá nhân này và cá nhân kia, giữa cá nhân và tập thể, cộng
đồng; giữa cộng đồng này và cộng đồng kia,"giữa sự thích nghi với môi trường
và sự cải tạo môi trường, sự lựa chọn những môi trường mới "
Joseph W.Meeker nói đến nhu cầu đồng bộ: "có ý thức về chỉnh thể nhưng
không quên những cái cụ thể, những cái đặc biệt; "bán cầu phải" thống nhất với
"bán cầu trái" cũng như tư duy lô-gích thống nhất với tư duy thơ, ý thức về mình
không lủng củng với ý thức về những người khác "
Từ nhu cầu cân bằng tự nhiên có nhu cầu hài hòa: cá nhân hài hòa với xã
hội, với thế giới, Đương nhiên không thể quên sự hài hòa với bản thân mình
mà biểu hiển quan trọng nhất là hài hòa giữa lý và tình, hài hòa giữa trí óc (mind)
và tâm hồn (soul), cùng một gốc nhưng là hai phương diện rất khác nhau: trí óc
thiên về tìm tòi chân lý, hình thức, sự sáng sủa, sự hợp lý, hình mẫu,quy
luật Còn tâm hồn thiên về tìm tòi cái đẹp, sự cân bằng, niềm vui, hạnh phúc, mê
ly, hòa bình, sự thương cảm Trí óc khẳng định chân lý bất chấp nó đẹp hay xấu;
tâm hồn cứ thấy xấu là giãy nảy, thiên về cái đẹp hơn chân lý. Trí óc khẳng định
và chối bỏ; tâm hồn yêu và ghét " (Glenn Shipley).
Nhằm duy trì hoặc lập lại cân bằng, hài hòa minh triết không thể không
quan tâm đến cái Chỉnh thể, cái mà Lão tử gọi là Nhất (Một) hoặc Cao Xuân Huy
gọi là Toàn (quan điểm chủ toàn). Thế giới hiện đại mải mê với sự phân tích, sự
duy lý, sự thực dụng, có cơ mất hút cái toàn. Đồng thời trong mọi lĩnh vực, mọi
bình diện, cân bằng bị phá vỡ, nghiêm trọng nhất là sự mất cân bằng giữa nhu
cầu tiêu dùng của con người tăng lên với một cấp số nhân khủng khiếp và sự bất
lực của con người quản lý việc khai thác hành tinh quả đất dang bị tàn phá một
cách man rợ và chúng ta đều biết hiểm họa: khí hậu quả đất thay đổi.
10

Phải chăng sự thức tỉnh của minh triết với nhu cầu cân bằng, hài hòa có
liên quan đến sự mất cân bằng tận thế đương đe dọa sự sống còn của chúng ta
trên hành tinh này? Mặt khác, sự thức tỉnh của minh triết đòi hỏi sự tỉnh táo nhìn
thẳng vào những mâu thuẫn của cuộc sống, và nhu cầu cân bằng hài hòa được đặt
ra trong quá trình tích cực giải quyết mâu thuẫn. Với cái thói né tránh mâu thuẫn,
chữ "hòa" của phương Đông không khéo trở thành dễ dãi và dớ dẩn, chỉ tạo ra
những ảo tưởng về cân bằng, hài hòa, nhiều khi chữ "hòa" được đưa ra cốt để che
đậy sự lười biếng của tư duy ngại mâu thuẫn, không có tinh thần tích cực giải
quyết mâu thuẫn.
Đã xuất hiện những trường Đại học Minh Triết (Wisdom University).
Riêng bang Cali có vài ba trường như vậy. Tiêu biểu nhất là Đại học Minh Triết
có trụ sở ở San Fransisco. Trường này được thành lập năm 1996, chỉ đào tạo trên
đại học (Ma.A và Ph,D).
Đối tượng đào tạo của Trường là "những người đã có trình độ nghiệp vụ
chín chắn muốn đặt mình vào một văn cảnh sống và học tập rộng lớn hơn".
Trường giúp họ "vượt qua những biên giới của hiểu biết và hành vi ước lệ đặng
đi vào một cuộc sống chân chính hơn", " có một ý thức bao trùm hơn về cái khả
thể", phương châm giáo dục của trường là việc trau dồi học vấn"trong khuôn khổ
học vị trên đại học" gắn liền với"đào sâu quá trình trưởng thành của tâm linh và
phát triển nhân cách".
Môn học nghiên cứu "trí tuệ bản địa": (indigenous mind) được đặc biệt coi
trọng: con đường cứu nguy cho nhân loại hiện nay là "đem những thành tựu khoa
học và công nghệ hiện đại hòa vào tri thức,minh triết và những lề lối thực hành
lành mạnh về sinh thái của những nhân dân bản địa và truyền thống".
Bài 3: Sự hẳn hoi của một chính khách lớn

Xã hội nào cũng có tôn ti trật tự, người hẳn hoi không gò mình vào trật
tự này nhưng rất có ý thức về lẽ phải của thứ bậc.
Trong một chuyến thăm Ấn Độ, một phóng viên nước ngoài đặt câu hỏi về
Ngô Đình Diệm, cụ Hồ đã trả lời đại ý: Tôi đến đây không phải để nói xấu ông

Ngô Đình Diệm, ông là người yêu nước nhưng theo cách của ông ấy…
Aristote có phân biệt “minh triết lý thuyết” và “minh triết thực tiễn”. Minh
triết thực tiễn thể hiện ở chỗ biết “suy tính những gì là tốt, là thiết thực…cho
mình để có được một cuộc sống tốt, nói chung” (ở đây cần hiểu “cuộc sống tốt”

Nguồn: />11
một cách toàn diện:cả về vật chất và tinh thần, không chỉ có tư duy, ứng xử tốt
mà ăn, ở, mặc cũng “tốt”, không những tốt trong việc công mà tốt trong cuộc
sống riêng, với gia đình. bạn bè và… với cả bản thân mình).
“Cuộc sống tốt” được hiểu một cách toàn diện như vậy, thì cái đầu “minh
triết” của Aristote quả là vĩ đại! Chỉ có “minh triết lý thuyết” thì người minh triết
dễ biến thành một kẻ hão huyền, gàn dở, ba hoa, nhảm nhí. Trong tiếng Việt có
một từ hết sức đích đáng để diễn đạt ý niệm “cuộc sống tốt” của Aristote, đó là
từ “hẳn hoi”. Với từ này chúng ta có thể tóm gọn “minh triết” trong một câu:
“Minh triết là biết làm thế nào sống hẳn hoi”.
“Hẳn hoi” không phải là một tiêu chuẩn quá cao: Không phải thật giỏi mới
hẳn hoi, không phải thật đàng hoàng, thật dũng cảm, thật “đạo cao, đức trọng”
mới hẳn hoi…
Và, “Hẳn hoi” là một phẩm chất có thể đặt ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi
bình diện: ăn mặc hẳn hoi, nhà cửa hẳn hoi, lời lẽ hẳn hoi, một người thầy hẳn
hoi, một người cha hẳn hoi, một người lãnh đạo hẳn hoi, học vấn hẳn hoi, làm ăn
hẳn hoi… Xã hội nào cũng có kỷ cương và lễ nghi, người hẳn hoi tiếp nhận tinh
thần của kỷ cương và lễ nghi với/do lòng tự trọng chứ không bị lệ thuộc một
cách mù quáng vào những quy ước của kỷ cương và lễ nghi.
Hình minh họa. Nguồn ảnh: baoanhdatmui
Xã hội nào cũng có tôn ti trật tự, người hẳn hoi không gò mình vào trật tự
này nhưng rất có ý thức về lẽ phải của thứ bậc. Vài mươi năm trước đây với bộ
phim nổi tiếng về người Hà Nôi Trần Văn Thuỷ đã làm sống lại phẩm chất “tử
tế” trong ý thức đạo đức của xã hội. Tuy nhiên, phẩm chất này dường như vẫn
12

chưa được chính thức công nhận, đạo đức và hành vi được kiểm điếm theo nhiều
chuẩn mực trừ chuẩn mực “người tử tế”. Phẩm chất “hẳn hoi” cũng có số phận
tương tự. Một hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân loại là
những gì không được người ta nhớ đến thì dần dà sẽ biến mất.
Xã hội không quan tâm dến “sự tử tế”, “sự hẳn hoi” thì dần dà những
ngừơi tử tế, hẳn hoi sẽ biến mất; ngược lại, xã hội còn nhớ đến những phẩm
hạnh này, thì những người hẳn hoi, tử tế xuất hiện khắp nơi.
Ở những mục trên chúng tôi định nghĩa minh triết bằng cách nêu lên những đặc
trưng của minh triết, phân biệt nó với triết lý. Sau đây là một định nghĩa phổ
thông về minh triết chúng tôi cố gắng trình bày thật ngắn gọn.
Theo cách hiểu thông thường nhất minh triét là khôn ngoan , nhưng khôn
ngoan chưa phải là minh triết, chẳng hạn khôn ngoan để “ăn người” thì chưa phải
là minh triết. Minh triết là biết sống khôn ngoan và hẳn hoi, nói một cách khác,
sự khôn ngoan của minh triêt thường gắn với những giá trị hướng thượng, hướng
thiện. Hẳn hoi là một từ rất Việt (chúng tôi chưa tìm được ở những ngôn ngữ
khác từ tương ứng).
Trong xã hội Việt Nam, ở mọi nơi mọi thời, người hẳn hoi bao giờ cũng
được nể trọng. Hẳn hoi có gốc rễ ở những đức tính phổ quát: đó là sự hướng
thiện, sự “liêm chính”, nhìn chung sự hẳn hoi của con người không ở ngoài bốn
chữ “cần, kiệm, liêm, chính” của cụ Hồ. Sự hẳn hoi có tính phổ quát, tính “liêm
chính” ở người hẳn hoi thể hiên ở việc to và việc nhỏ.
Bị vu oan là “làm hư hỏng thanh niên”, Socrate bị bức tử. Khi sắp sửa
uống cốc “cần độc” thì Socrate sực nhớ có mua chịu một con gà và ông nhờ một
người bạn trả tiền dùm cho ông, đây là một trong những lời trăng trối cuối cùng
của ông: Socrate là người hẳn hoi trong việc nhỏ. Cũng như trong việc lớn: được
tin Socrate bị án bức tử, mấy người bạn của ông lập mưu kế cho ông chạy trốn,
nhưng nhà hiền triết đã từ chối, lấy cớ bỏ trốn là chống lại pháp luật mà tín niệm
công dân của ông là tôn trọng luật pháp bằng mọi giá, Socrate đã coi trọng tư
cách công dân hẳn hoi của ông hơn cả tính mạng của ông.
Và, có một sự việc, tuy nhỏ, nhưng qua đó có thể thấy được sự hẳn hoi của

Hồ Chí Minh. Chuyện là, hoạ sĩ Dương Bích Liên được cấp trên điều động đến
sống với Hồ chủ tịch một thời gian để vẽ chân dung. Hoạ sĩ vẽ rất nhiều ký hoạ
về bác Hồ. Một vị lãnh đạo xem những ký hoạ của Dương Bích Liên không hài
lòng và quyết định đưa họa sĩ trở về cơ quan chủ quản. Dương Bích Liên ra đi
13
mà Bác không hay. Đến lúc biết việc ra đi đột ngột của người hoạ sĩ, bác liền cho
người đuổi theo và đưa hoạ sĩ trở về. Người mời Dương Bích Liên dùng cơm
thân mật rồi sau đó hai bác cháu mới chia tay (thuật theo lời của Hào Hải, một
bạn vong niên gần gũi với Dương Bích Liên).
Còn sự việc sau đây là một sự kiện lớn: Sau Hiệp định Geneve, trong một
chuyến thăm Ấn Độ, một phóng viên nước ngoài đặt câu hỏi về Ngô Đình Diệm,
cụ Hồ đã trả lời đại ý: Tôi đến đây không phải để nói xấu ông Ngô Đình Diệm,
ông là người yêu nước nhưng theo cách của ông ấy… Trong cách trả lời này, có
sự khôn ngoan, nhưng nổi lên vẫn là sự hẳn hoi của một chính khách lớn.
Bài 4: "Nói đi đôi với làm" là căn cốt minh triết mọi thời

Có một giá trị căn cốt của minh triết mọi nơi và mọi thời: nói đi đôi với
làm". Đây là giá trị của những giá trị: không có nó, tất cả những giá trị khác
khó mà bền vững và dù cao siêu, tốt đẹp đến đâu, dễ trở thành "nói suông",
tức là số không. "Nói đi đôi với làm" là một giá trị hằng hữu của minh triết
Hồ Chí Minh.
Minh triết trong vốn trí tuệ và tâm linh của chúng ta không tách rời minh
triết nhân loại bao gồm minh triết của nhiều nền văn minh, nhiều khu vực văn
hóa, tôn giáo Ngay trong bản thân minh triết lưu hành ở Việt Nam có thể tìm
thấy nhiều vết tích vang vọng của minh triết những nền ván hoá, văn minh khác.
Người Việt không thể không tìm hiểu minh triết của những nền văn hoá khác.
Công việc này giúp chúng ta thấy được rõ hơn, tinh tế hơn bản sắc riêng của
mình. Đồng thời thấy được tính phổ quát của minh triết, thấy dược cái chung
giữa ta và người, Cũng có thể xem đây là một sự chuẩn bị tinh thần đi vào con
đường hội nhập.

Nghiên cứu minh triết ở Việt Nam bắt đầu bằng sự tổng kiểm kê và sưu
tầm bổ sung những viên ngọc quý của Minh triết hiện đương rải rác khắp nơi.
Chỉ có những viên ngọc quý trong ca dao tục ngữ là được sưu tầm tương đối
đầy đủ, tuy vậy chưa được nghiên cứu sâu sắc ở "mặt cắt" minh triết, vả chăng
vẫn còn sót ca dao tục ngữ của những dân tộc anh em.
Minh triết của Đạo giáo đã được những học giả nghiên cứu khá sâu nhưng
chưa được phổ cập. Có một vốn minh triết nữa rất quan trọng: đó là những suy
nghĩ, những bài học minh triết được rút ra từ hoạt động của những người hoạt
động chính trị và xã hội, những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, những

Nguồn: />14
doanh nhân, những người hoạt động tôn giáo- họ là những người trực tiếp và
thường xuyên vật lộn với thực tiễn Việt Nam.
Minh triết văn hóa Việt trước hết là 3 nguồn Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo
trong "tam giáo đồng nguyên" thời cổ.
Minh triết trong vốn trí tuệ và tâm linh của chúng ta không tách rời minh triết
nhân loại bao gồm minh triết của nhiều nền văn minh, nhiều khu vực văn hóa,
tôn giáo. Ảnh: phoquang.org
Trong thời đại Hồ Chí Minh, minh triết Hồ chí Minh với sức thấm sâu, lan
tỏa rộng trong lòng dân là một nguồn trung tâm trong đa nguồn minh triết Việt.
Có lần kể 'lục giáo'của Nguyễn Khắc Viện cho họa sĩ Lê Bá Đảng, tôi hỏi 'giáo'
nào là quan trọng hơn cả. Ông cười và trả lời: 'Việt giáo là quan trọng nhất'.
Không khỏi liên tưởng đến một câu nói của Hồ Chí Minh: 'Đảng của tôi là Đảng
Việt Nam'. Câu nói này góp phần làm sáng tỏ gốc nguồn của minh triết Hồ Chí
Minh.
Minh triết bao giờ cũng gắn với những giá trị. Có một giá trị căn cốt của
minh triết mọi nơi và mọi thời: nói đi đôi với làm". Đây là giá trị của những giá
trị: không có nó, tất cả những giá trị khác khó mà bền vững và dù cao siêu, tốt
đẹp đến đâu, dễ trở thành "nói suông", tức là số không. "Nói đi đôi với làm" là
một giá trị hằng hữu của minh triết Hồ Chí Minh.

Từ năm 1927, trong cuốn Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc, trong
23 điều phải có về tư cách của người cách mệnh thì điều thứ 10 là "Nói thì phải
làm". Điều thứ 10 này đã được nhấn mạnh bằng mệnh lệnh thức. Trong cuốn
15
"Sửa đổi lối làm việc" (1947) quan hệ phải có giữa "nói và làm" được khẳng định
thông qua quan hệ phải có giữa " lý luận và thực hành".:
- "Lý luận phài đem ra thực hành "
- "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích
để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung thì cũng như không có tên"
- "Lý luận cốt áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem lòe thiên
hạ thì lý luận ấy cũng vô ích."
Giữa nói và làm Hồ Chí Minh nhấn mạnh vào "làm":
- "miệng nói, tay làm" "Phải thật thà nhúng tay vào việc"
- "Nói ít, làm nhiều"
- "Các việc đáng làm, thì có khó mấy cũng cố chịu quyết làm cho kỳ
được."
- "Nói miệng, ai cũng làm được. Ta cần phải thực hành "
- "Trong Đảng ta, có một số người chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua
giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực không làm được.
Những người như thế cũng không thể dùng vào công việc thực tế "
Bác đã nói thì làm. Và làm thực sự
16
Ngay sau Cách mạng
tháng tám 1945, nạn đói vẫn đe
dọa. " Với cương vị Chủ tịch
nước, Bác kêu gọi: " Tôi xin
đề nghị với đồng bào cả nước,
và tôi xin thực hành trước: cứ
mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi
tháng nhịn ăn 3 bữa. Đem gạo

đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân
nghèo
"Chuyện kể rằng có một lần Tiêu Văn - trung tướng trong quân đội Tưởng
Giới Thạch - mời chiêu đãi Bác đúng vào bữa cơ quan nhịn ăn để cứu đói. Khi
Bác dự tiệc về , anh em báo cáo với Bác rằng phần gạo của Bác đã cho vào hũ
gạo cứu đói rồi. Vậy mà Bác vẫn quyết định "nhịn bù" một bữa vào ngày hôm
sau"[1]
Hồ Chí Minh đăt cao yêu cầu làm gương mẫu cho mọi người noi theo:
"một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền" (Hồ
Chí Minh Toàn tập, tập 1, tr.253).
Chúng ta đều biết chỉ qua hành động, qua "nhúng tay vào việc", qua lăn
lưng ra làm mới trở thành gương mẫu. Xưa nay chưa có ai chỉ bằng "lời nói" mà
trở thành gương mẫu. Có một mối liên hệ sâu sắc giữa tư tưởng phát huy sức
cảm hóa của những "tấm gương sống" và tư tưởng biểu dương "người tốt, việc
tốt"của Hồ Chí Minh. Những "tấm gương sống", những "người tốt" có sức thuyết
phục hồn nhiên và sâu sắc vì họ là hiện thân của công việc, của lao động, của
thực hành, của "miệng nói tay làm", của " nói ít làm nhiều", họ là sự hiện thân
của minh triết Hồ Chí Minh.
Minh triết văn hóa Việt trước hết là 3 nguồn
Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Ảnh:
dentutraitim.net
17
Mục "Chân dung Người đương thời" trên VTV1 có sức hấp dẫn mạnh mẽ
vì qua đây, khán giả tiếp xúc với những con người sống động, mỗi người một vẻ,
một cảnh ngộ nhưng tất cả đều bị cuốn hút bởi công việc mình làm, đều mải mê
tìm tòi, sáng tạo, đều kiên trì chí hướng, "có khó mấy cũng cố chịu quyết làm cho
kỳ được".
Minh triết Hồ Chí Minh được sáng tỏ trong mục Truyền hình này hơn đâu
hết: "một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền". Để học tập tư tưởng, đạo đức của Bác trước hết cần tìm hiểu con người,

cuộc đời và những câu nói của Bác. Nhưng không thể quên minh triết Hồ Chí
Minh đương biểu hiện ngời sáng ở ngàn vạn "tấm gương sống"và "người tốt,
việc tốt" đương xuất hiện khắp nơi trên đất nước,không kể trước đây họ từng ở
phía nào của chiến tuyến.
Số đông trưởng thành và được tôi luyện trong thực tiễn của cuộc Cách
mạng mà Hồ Chí Minh là người thiết kế và người đôn đốc gây dựng, họ phải
giải quyết những nhiệm vụ mà lịch sử Việt Nam bốn ngàn năm chưa từng đặt ra,
những hậu quả của những tai họa mà Lịch sử (hay là Số phận?), những nhiệm vụ
mà họ phải chèo chống giữa phong ba bão táp của lịch sử trong khi Người thuyền
trưởng lão luyện không còn nữa Họ giống như những Sisyphus phải vần lên
đỉnh núi những tảng đá nặng gấp ngàn lần sức lực của họ. Hòn đá to. Hòn đá
nặng. Một người không vần nổi thì 3 người , 3 trăm người , 3 vạn người , 3
triệu người Cuối cùng, khác với nhân vật huyền thoại, họ đã hoàn thành nhiệm
vụ. Có khi chính họ là Hồ Chí Minh mà không tự biết.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh

Song Thành
Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là sự vận dụng thuần thục
phương pháp biện chứng duy vật macxít
Hồ Chí Minh không có tác phẩm riêng bàn về phương pháp. Nhưng trong
thực tế lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo và
nhuần nhuyễn các nguyên lý của phép biện chứng duy vật macxít kết hợp với các
yếu tố biện chứng của triết học phương Đông qua đó tạo nên một hệ thống
phương pháp riêng của mình, rất macxít mà cũng rất Hồ Chí Minh, không trộn
lẫn được. Vì vậy, có thể nói, có phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh,
phương pháp đó vẫn là phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin

Nguồn />18
nhưng đã được vận dụng và chuyển hoá vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để xử
lý thành công những vấn đề do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, nó in đậm

màu sắc Việt Nam - Hồ Chí Minh và bằng cái riêng đã làm phong phú thêm cái
chung.
Vậy nội dung và đặc điểm của phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là
gì?
Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái
riêng và cái chung.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, đó là quan điểm cốt lõi nhất của nhận
thức luận macxít và cũng là nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Theo
quan điểm của C.Mác: "ở mỗi dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực hiện
theo mức độ mà nó là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy". Nói cách
khác, lý luận chỉ được coi là đúng đắn khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của
mỗi dân tộc.
Hồ Chí Minh cũng quan niệm: "Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong
kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét so sánh thật kỹ lượng, rõ ràng,
làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế, đó là lý luận chân
chính".
Theo quan niệm đó, Hồ Chí Minh luôn luôn lấy thực tiễn, lấy sự kiện của
đời sống dân tộc và thời đại làm định hướng cho tư duy và hành động, lấy mục
tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ để xem xét lý luận, để lựa chọn
con đường và bước đi cho cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà tránh được giáo
điều, rập khuôn (do chỉ biết lặp lại cái chung), đồng thời cũng tránh để không rơi
vào cơ hội, xét lại (do quá nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù).
Đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, nhưng Hồ Chí Minh biết rút ra từ học thuyết
cách mạng và khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết cho giai đoạn trước
mắt của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam: từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tức
là từ độc lập dân tộc tiến lên CHXH.
Tiếp theo, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhờ đứng
vững trên quan điểm thực tiễn và đường lối độc lập tự chủ, một mặt, chúng ta

vẫn tranh thủ viện trợ kinh tế và quân sự của các nước XHCN anh em, mặt khác,
chúng ta lại đánh theo đường lối và cách đánh Việt Nam, phù hợp với chiến
19
trường Việt Nam, vì vậy ta đã giành được thắng lợi vẻ vang: giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CHXH.
Khi miền Bắc từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiền tư bản bước
vào thời kỳ quá độ lên CHXH, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: "Chúng ta phải đùng
những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến lên CHXH" và
Người nhắc nhở: "Tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi đào của các nước
anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách
máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta".
Đó là biện chứng Hồ Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và
lý luận, giữa cái riêng và cái chung.
Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn và thống nhất của các
mặt đối lập.
Theo quan điểm macxít, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập là quy luật cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, bởi mâu thuẫn là hiện
tượng phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng và đấu tranh để đi tới chuyển hoá giữa
các mặt đối lập của mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động và phát triển.
Hồ Chí Minh cũng thừa nhận tính phổ biến của mâu thuẫn. Người viết:
"Cái gì cũng có mâu thuẫn, vì cái gì cũng có biến âm, dương, có sinh có tử, có
quá khứ, có tương lai, có cũ, có mới. Đó là những mâu thuẫn sẵn có trong mọi sự
vật".
Mâu thuẫn có nhiều loại với bản chất khác nhau: có mâu thuẫn bên trong
và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, đối kháng và không
đối kháng. Vì vậy, phân tích mâu thuẫn là điều kiện để nhận thức đúng sự vật.
Hồ Chí Minh chính là một bậc thầy trong nhận thức, phát hiện và xử lý mâu
thuẫn.
Trong đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp có nhận thức, phát hiện đúng
mâu thuẫn mới xác định rõ kẻ thù và bạn đồng minh, mới đề ra được chiến lược,

sách lược, bước đi đúng đắn cho mỗi giai đoạn của cách mạng.
Vận dụng phép biện chứng duy vật vào phân tích xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra hai mâu
thuẫn cơ bản: một là, mâu thuẫn vốn có của xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa
nông dân và địa chủ phong kiến và hai là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với bọn thực dân xâm lược Pháp, từ đó Hồ Chí Minh xác định nhân dân
Việt Nam có hai kẻ thù chính là đế quốc và phong kiên tay sai, cách mạng dân
20
tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc giành
lại độc lập cho dân tộc và chống phong kiên đem lại ruộng đất cho dân cày.
Tuy xác định xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam có hai mâu thuẫn
cơ bản, nhưng trong việc xử lý mâu thuẫn, Hồ Chí Minh không coi hai mâu
thuẫn đó ngang nhau, phải tiến hành song song, đồng thời. Theo Hồ Chí Minh,
trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn nổi lên gay gắt nhất, trở thành
mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và
bọn tay sai, có giải quyết được vấn đề dân tộc mới giải quyết được vấn đề dân
chủ. Vì vậy, ngay trong Chính cương vắn tắt (1930), Hồ Chí Minh cũng chỉ nêu
chủ trương "thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân
cày nghèo" mà chưa nêu khẩu hiệu "người cày có ruộng". Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5/1941) dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, cũng chủ trương tạm gác khẩu
hiệu ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian, đề thêm khẩu hiệu
"giảm tô, giảm tức", chia lại ruộng công,
Làm.như vậy, theo Hội nghị phân tích, nếu không đánh đuổi được Pháp -
Nhật, nếu dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu thì vấn đề ruộng đất cũng
không sao giải quyết được. Cuộc Cách mạng tháng 8/1945 đã lôi cuốn hàng chục
triệu nông dân, dù chưa được chia lại ruộng đất của địa chủ vẫn hăng hái tiến
bước cùng giai cấp công nhân làm nên cuộc cách mạng long trời lở đất, giành lại
nền độc lập cho dân tộc. Thắng lợi đó là sự thể hiện phép biện chứng của Hồ Chí
Minh trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.

Hồ Chí Minh cũng là bậc thầy về xử lý mâu thuẫn địch - ta, nêu tấm
gương về nghệ thuật vận dụng mâu thuẫn, khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ
kẻ thù. Theo quyết định của Đồng minh tại Hội nghị Pốtxđam (tháng 7/1945),
gần 20 vạn quân Tưởng đổ vào Bắc Đông Dương (từ vĩ tuyến 16 trở ra) và hàng
vạn quân Anh - Ấn Độ đổ vào Nam Đông Dương với danh nghĩa giải giáp quân
đội Nhật. Núp dưới bóng quân đội Anh, thực dân Pháp cũng đem quân trở lại
nước ta. Nếu kể cả quân đội Nhật tuy đã đầu hàng nhưng chưa bị tước vũ khí, thì
vào lúc đó, có gần nửa triệu quân nước ngoài đóng trên đất nước ta. Cùng một
lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, tình thế cách mạng Việt Nam như đang "nghìn
cân treo sợi tóc". Để bảo vệ thành quả cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương phải
phân hoá kẻ thù, bằng cách khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ của chúng.
Quân đội Tưởng vào miền Bắc có ba thế lực: cánh Lư Hán thuộc Đệ nhất
chiến khu Vân Nam, cánh Tiêu Văn thuộc Đệ tứ chiến khu Quảng Tây, cánh Chu
21
Phúc Thành thuộc quân khu Trung ương Trùng Khánh. Chúng giống nhau về
mục tiêu "diệt cộng, cầm Hồ" để dựng lên chính phủ tay sai, phục vụ cho mưu đồ
lâu dài của chúng, nhưng mâu thuẫn với nhau về lợi ích cá nhân. Biết Lư Hán
vốn có tư thù sâu sắc với Tưởng Giới Thạch và cả với Pháp (vì đã bị Pháp tịch
thu mấy chuyến hàng lớn trên tuyến đường sắt Hải Phòng Côn Minh), Hồ Chí
Minh đã chủ động tới thăm chúng nhằm tranh thủ Lư Hán, đồng thời, nhượng bộ
cho vợ chồng Tiêu Văn một số đặc quyền kinh tế để cô lập cánh Chu Phúc
Thành Nhờ đó, chúng ta buộc họ phải thay đổi thái độ đối với Chính phủ Hồ
Chí Minh, đã sử dụng được lực lượng quân đội Tưởng làm bình phong, ngăn
chặn quân đội Pháp đang lăm le ra miền Bắc.
Trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội Pháp cũng chia thành hai phe: cánh
diều hâu chủ chiến, đứng đầu là Cao ủy Đông Dương Đácgiăngliơ (D'argenlieu),
cánh tương đối hiểu biết, muốn hoà hoãn, tiêu biểu là đại tướng Lơcléc (Leclerc),
tổng chỉ huy quân đội viễn chinh. Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Lơcléc: "Ngài là
một đại quân nhân và là một nhà ái quốc. Ngài đã chiến thắng và chiến thắng anh
dũng kẻ xâm lăng nước ngài Lừng danh với những chiến công, ngài lại đi đánh

một dân tộc chỉ muốn độc lập, thống nhất quốc gia và một nước chỉ muốn hợp
tác như anh em với nước ngài sao?".
Lòng tụ trọng bị tổn thương, ít lâu sau Lơcléc từ chức Tổng chỉ huy, xin
chuyển về Pháp, mở đầu cho sự liên tục thay đổi Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở
Đông Dương.
Đánh giá sách lược của Hồ Chí Minh
Trong giai đoạn này, đồng chí Lê Duẩn đã viết: "Những biện pháp cực kỳ
sáng suốt đã ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của
sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân
nhượng có nguyên tắc".
Nhắc lại những năm tháng đó, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng viết: "Nếu
bấy giờ không có Hồ Chí Minh thì khó lường hết cái gì có thể xảy ra".
Đối với mâu thuẫn địch - ta, chỉ có một cách xử lý duy nhất là "Hễ còn
một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta phải kiên quyết đánh đuổi nó đi". Còn
với mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xuất phát từ quan điểm "Hễ là người Việt
Nam thì ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc", Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết
mọi lực lượng "miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian,
thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc”, "Không được phép bỏ
một lực lượng nào sẵn sàng phục vụ quốc gia".
22
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là lấy cái chung, cái tương đồng
để khắc phục cái riêng, cái dị biệt, lấy nhân ái, khoan đung để cảm hoá, lấy nhân
nhượng, thoả hiệp lẫn nhau để giải quyết bất đồng, "biến đại sự thành tiểu sự,
biến tiểu sự thành vô sự". Người phê phán một số cán bộ chỉ biết "chia rẽ, bênh
vực lớp này chống lại lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp nhân nhượng
lẫn nhau, hoà thuận với nhau quên rằng lúc này ta phải toàn dân đoàn kết,
không chia già trẻ, giàu nghèo để giữ nền độc lập, chống kẻ thù chung".
Như vậy, trong mâu thuẫn nội bộ nhân dân (mâu thuẫn không đối kháng),
có mặt thuận và mặt nghịch, bên cạnh mặt mâu thuẫn còn có mặt thông nhất, để
tồn tại trong sự thống nhất, phải biết lấy thuận chế nghịch, lấy cái chung, cái

đồng thuận để khắc phục cái riêng, cái dị biệt. Đó là biện chứng trong cách xử lý
của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giũa mâu thuẫn và thống nhất các mặt đôi lập.
Biện chứng giữa cái "bất biến" và cái “vạn biến".
Đây là một tư tưởng biện chứng hết sức sâu sắc của triết học phương
Đông, xuất phát từ quan niệm vạn vật sinh hoá đều do điều lý (quy luật) chi phối,
nếu nắm được điều lý của vũ trụ thì có thể điều khiển được mọi biến hoá của trời
đất (hiện tượng), nghĩa là có thể lấy cái bất biến chế ngự được cái vạn biến, lấy
tĩnh chế động, lấy nhu thắng cương
Phép biện chứng duy vật macxít cũng đã đề cập đến các cặp mâu thuẫn và
thống nhất, vận động và đứng im, nhưng mối quan hệ giữa bất biên và vạn biên
trong phép biện chứng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc chủ yếu từ trong triết học
phương Đông và Việt Nam. Xưa Lý Thánh Tông, khi đi lo việc biên cương ở
phương Nam, có dặn lại nhiếp chính Ỷ Lan một câu: "Vạn biến như lôi, nhất tâm
thiền định", ý nói cứ lấy nhất tâm bất biến (là một lòng lo giữ việc nước) thì có
thể đối phó với vạn biên (dù có dữ dội như sấm sét).
Vậy ta hiểu "dĩ bất biến ứng vạn biến" mà Hồ Chí Minh nói đến là gì?
Theo cách nói của triết học, có thể hiểu "bất biên" là quy luật, vì chỉ có quy luật
(tự nhiên, xã hội, tư duy) là tồn tại lâu đài, là hầu như bất biến, còn "vạn biến" là
hiện tượng, là sự biểu hiện đa dạng của quy luật, cho nên có thể đưa vào quy luật
mà lý giải hiện tượng hay ngược lại, từ phân tích vô vàn hiện tượng có thể tìm ra
quy luật tương ứng.
Phép biện chứng duy vật thường chú trọng nhiều hơn về trình bày sự phát
triển biện chứng của sự vật, coi mâu thuẫn, vận động là tuyệt đối, thông nhất,
đứng im là tương đối. Trong thực tế vận dụng, đôi khi chúng ta lại có phần coi
23
nhẹ, thậm chí bỏ qua cái "bất biến" (tức là cái thống nhất, đứng im vốn là điều
kiện tồn tại của sự vật).
Trong vũ trụ và trong cuộc sống xã hội vốn tồn tại phạm trù "bất biến".
Hoá học được xây đựng trên cơ sở định luật bảo toàn trọng lượng. Công thức có
thể biến hoá, nhưng trị số thì không đổi. Năng lượng học dựa trên định luật bảo

toàn năng lượng. Toán học có những hằng số, hằng đẳng thức không đổi. Về mặt
xã hội, các chế độ xã hội đều có nhiều thay đổi, nhưng trong xã hội nào người ta
cũng vẫn cần đến ăn, mặc, ở tức là vẫn phải có sản xuất và phân phối, nghĩa là
sự khác nhau, như C.Mác nói, chỉ là về cách thức sản xuất và cách thức phân
phối, còn bản thân sản xuất và phân phối thì xã hội nào cũng vẫn phải có. Cũng
có thể gọi đó là các hằng số xã hội. Hồ Chí Minh tiếp thu phép biện chứng
macxít, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của tư duy biện chứng phương Đông.
Người thường bắt đầu từ cái bất biến để đi tới cái khả biến của xã hội và con
người. Thí dụ, Người nói: "Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều
thì dân nào cũng giống nhau ấy là dân nào cũng ưa sự lành, ghét sự dữ”. Khi
nghe một vị ủy viên Ban vận động đời sống mới nói cần định ra một cái hướng
mới cho cuộc vận động, vì khẩu hiệu "cần, kiệm, liêm, chính" xem ra vừa không
đủ, vừa cổ thì Hồ Chí Minh ngắt lời: "Cổ, lạ quá, thế cơm các cụ ăn ngày xưa,
bây giờ mình ăn cũng cổ à?". Theo Người, ăn cơm, uống nước, hít thở khí trời
không bao giờ cũ, xưa nay và sau này đều phải làm. Cần, kiệm, liêm, chính cũng
vậy.
Trước khi sang Pháp đàm phán, Người chỉ dặn lại cụ Huỳnh có một câu:
"Mong cụ ở nhà: dĩ bất biến, ứng vạn biến". Ta hiểu đó là Người nói đến mối
quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp, nguyên tắc và sách lược. Mục tiêu của
chúng ta là độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân, đó là
điều bất biến còn phương pháp - sách lược có thể tuỳ tình hình mà biến hoá đa
dạng, thay đổi linh hoạt, nhưng không được xa rời cái bất biến. Người nói: "Mục
đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên
tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt".
Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp biện chứng này một cách rất hiệu
quả trong chỉ đạo cách mạng, đưa tới những thắng lợi to lớn chưa từng có trong
lịch sử dân tộc. Đúng như một nhà báo Pháp đã nhận xét: "Chính sự kết hợp mà
không ai bắt chước nổi giữa tính mềm dẻo với tính cương nghị, giữa tính linh
hoạt về chính trị với tính cứng rắn về nguyên tắc, giữa việc vận dụng truyền
24

thông yêu nước với sự phân tích macxít đã tạo nên tính chất độc đáo của ông Hồ
Chí Minh".
Cũng xuất phát từ phép biện chứng Đông - Tây kết hợp này, chúng ta thấy
Hồ Chí Minh đã giải quyết rất thành công, vừa khoa học, vừa nhuần nhị các mối
quan hệ biện chứng giữa truyền thông và hiện đại, kế thừa và đổi mới, dân tộc và
giai cấp, nội lực và ngoại lực, lực - thế, thời… mà do phạm vi của bài viết, chúng
tôi không có điều kiện bàn hết ở đây.
Tóm lại, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được thể hiện một phần quan
trọng trong phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh. Về bản chất, đó là phương
pháp biện chứng duy vật macxít được vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, có sự
kết hợp với tư duy biện chứng phương Đông, in đậm dấu ấn phương Đông và
Việt Nam, nổi bật lên trong đó là sự kết hợp tính cương nghị về nguyên tắc với
tính mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, lấy cái đại đồng để khắc phục cái tiểu dị, đi
từ dân tộc đến giai cấp, nhằm mục tiêu đại đoàn kết dân tộc, phân hoá và cô lập
kẻ thù chính, giành thắng lợi cho độc lập dân tộc để từng bước đi lên CHXH.
Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh cũng do đó mà có vai trò rất to lớn đối
với công cuộc đổi mới của chúng ta, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế đang chuyển
biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay.
Tư tưởng về con người, bộ phận cơ bản của tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh
Thấm nhuần quan điểm cải tạo thế giới của triết học Mác, vấn đề được Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm là vấn đề con người và sự nghiệp giải phóng con
người. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là con người chung
chung, trừu tượng, phi lịch sử, mà là con người hiện thực, cụ thể, sinh động,
trước hết là nhân dân lao động và quần chúng bị áp bức ở khắp mọi nơi, không
phân biệt dân tộc và màu da.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có thể tóm tắt lại trong ba nội dung
cơ bản:
Con người là vôn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ

không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý
dân, trọng dân, vì "có dân là có tất cả". Người nói: "Trong bầu trời không gì quý
bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân". Do đó, "trong xã hội không có gì tất đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích
của nhân dân".
25

×