Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Bình luận về Việt nam với việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia trong phòng chống mua bán người theo quy định của Công ước phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia UNTOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.22 KB, 22 trang )

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
ĐỀ BÀI: Bình luận về Việt nam với việc thực
hiện nghĩa vụ quốc gia trong phòng chống
mua bán người theo quy định của Cơng ước
phịng chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia UNTOC
Họ và tên : NGUYỄN QUỐC HƯNG
Lớp: K7A
MSSV: 193801010267


MỤC LỤC
A. Mở đầu.....................................................................1
B. Nội dung..................................................................2
1. Lý luận chung về việc thực hiện nghĩa vụ quốc
gia trong phòng chống mua bán người theo quy
định của Cơng ước phịng chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia UNTOC...................................2
1.1. Khái quát về quốc gia và nghĩa vụ của
quốc gia...................................................................2
1.2. Khái quát về hợp tác quốc tế trong đấu
tranh phòng chống tội phạm................................2
1.3. Khái quát về tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia...................................................................3
1.4. Khái qt về phịng chống nạn mua bán
người........................................................................3
1.5. Cơng ước phịng chống tội phạm có tổ chức
xun quốc gia UNTOC..........................................4
2. Nghĩa vụ quốc gia trong phòng chống mua
bán người theo quy định của Cơng ước phịng


chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
UNTOC........................................................................4
2.1. Bảo vệ các nạn nhân của việc buôn bán
người........................................................................5


2.2. Ngăn ngừa, hợp tác và các biện pháp khác
..................................................................................6
3. Thực tiễn về việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia
trong phịng chống mua bán người theo quy định
của Cơng ước phịng chống tội phạm có tổ chức
xun quốc gia UNTOC của Việt Nam...................7
3.1. Những thành tựu của Việt Nam trong việc
thực hiện nghĩa vụ quốc gia trong phòng chống
mua bán người theo quy định của Cơng ước
phịng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia UNTOC...............................................................8
3.2. Hạn chế và khó khăn của Việt Nam trong
việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia trong phòng
chống mua bán người theo quy định của Cơng
ước phịng chống tội phạm có tổ chức xun
quốc gia UNTOC....................................................10
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc thực
hiện nghĩa vụ quốc gia trong phòng chống mua
bán người theo quy định của Cơng ước phịng
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
UNTOC của Việt Nam.............................................13
C. Kết Luận................................................................15




A. Mở đầu
Ngày nay, với việc các quốc gia đang ngày càng phát triển và mở rộng quan hệ
với nhau. Các quốc gia bắt đầu giao lưu, hợp tác trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, văn hóaxã hội cho đến những vấn đề bí mật quốc gia như quân sự, chính trị,… và trong đó vấn
đề hợp tác để đấu tranh phòng chống tội phạm cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm.
Đặc biệt, với thực tiễn hiện tại các loại tội phạm quốc tế ngày càng có tổ chức và hoạt
động ngày càng mạnh mẽ với các thủ đoạn tinh vi hơn. Điển hình đó chính là tội mua
bán người, lợi dụng thực tiễn nghèo đói, thiếu việc làm, tình hình chính trị bất ổn, vấn
nạn bất bình đẳng giới và sự mở của biên giới mạnh mẽ giữa các quốc gia, loại tội
phạm này đã trở nên nguy hiểm hơn rất nhiều và đòi hỏi sự hợp tác của các quốc gia
để phòng chống một các hiệu quả nhất. Cộng đồng quốc tế đã tiến hành soạn thảo và
thông qua Công ước quốc tế Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia tại trụ sở Liên
hiệp quốc vào năm 2000. Nhận thấy mục đích của Cơng ước này là thúc đẩy hợp tác
để ngăn ngừa và chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia một cách hiệu quả hơn,
hồn tồn phù hợp với lợi ích của Việt Nam, phù hợp với chủ trương, đường lối, chính
sách, pháp luật của Việt Nam trong việc đấu tranh phịng chống tội phạm. Vì vậy,
ngày 15/11/2000, Việt Nam đã quyết định thông qua Công ước này. Trải qua một
khoảng thời gian rất dài, thực hiện các nghĩa vụ quốc gia trong Công ước, Việt Nam đã
đưa ra được những chính sách vơ cùng hiệu quả, đạt được rất nhiều thành tựu trong
phòng chống mua bán người. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn cịn rất nhiều khó khăn và
hạn chế, nhiều nghĩa vụ còn chưa thực hiện tốt và thậm chí bị báo cáo TIP 2020 xếp
vào nhóm 2 cần phải theo dõi. Vì vậy, em xin lựa chọn đề tài “Bình luận về Việt nam
với việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia trong phòng chống mua bán người theo quy định
của Cơng ước phịng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia UNTOC “làm đề tài
tài tiểu luận kết thúc học phần của mình. Bài tiểu luận sẽ nêu lên các vấn đề lý luận
chung, các nghĩa vụ theo công ước, thành tựu, hạn chế và giải pháp về việc thực hiện
nghĩa vụ quốc gia trong phòng chống mua bán người theo quy định của Cơng ước
phịng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia UNTOC của Việt Nam. Vì sự hạn
chế về điều kiện tài liệu và hiểu biết nên khi nghiên cứu không thể tránh khỏi những
sai sót mong thầy (cơ) đóng góp ý kiến để bài làm của em có thể được hồn thiện hơn.

Em xin cảm ơn.
1


B. Nội dung
1. Lý luận chung về việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia trong phòng chống
mua bán người theo quy định của Cơng ước phịng chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia UNTOC
1.1. Khái quát về quốc gia và nghĩa vụ của quốc gia
Quốc gia là một khái niệm khơng gian, văn minh, xã hội và chính trị; trừ tượng
về tinh thần, tình cảm và pháp lý; để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính
quyền và những con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó; họ gắn bó với nhau
bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tơn giáo, ngơn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử
lập quốc và những con người chấp nhận nền văn hóa cũng như lịch sử lập quốc đó
cùng chịu sự chi phối của chính quyền và họ cùng nhau chia sẻ quá khứ cũng như
hiện tại và cùng nhau xây dựng tương lai trên lãnh thổ có chủ quyền đó. [9]
Quyền năng chủ thể Luật quốc tế của quốc gia là tổng thể những quyền và nghĩa
vụ mà quốc gia có được khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế. quốc gia là chủ thể
duy nhất có quyền năng đầy đủ khi tham gia quan hệ quốc tế, điều này thể hiện ở các
nghĩa vụ quốc tế cơ bản sau: Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia; Tôn trọng sự bất
khả xâm phạm về lãnh thổ của các quốc gia khác; Không áp dụng vũ lực và đe dọa
dùng vũ lực; Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; Hợp tác hữu nghị với
các quốc gia khác nhằm duy trì hịa bình, an ninh quốc tế; Tơn trọng ngun tắc bình
đẳng trong quan hệ quốc tế. [8]
1.2. Khái quát về hợp tác quốc tế trong đấu tranh phịng chống tội phạm
Có thể hiểu hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm là sự thỏa thuận, trao đổi và
thống nhất các kế hoạch, chương trình chung giữa các quốc gia với nhau trên cơ sở hỗ
trợ, giúp đỡ lẫn nhau nhằm đạt được mục tiêu chung đó là đấu tranh, phịng ngừa tội
phạm vì lợi ích các bên, phù hợp với pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Hoạt
động hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trên thực tế được thực

hiện qua các hoạt động tư pháp, đó là: xác định quyền tài phán, thỏa thuận thành lập
Tòa án quốc tế chuyên xét xử các tội phạm quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự. Có
thể chia cơ sở pháp lý thành hai loại như sau: theo các quy định pháp lý trên cơ sở các
điều ước quốc tế hoặc các tổ chức quốc tế mà quốc gia đã tham gia ký kết, gia nhập
hoặc là thành viên; theo các quy định pháp lý trên cơ sở quy định của pháp luật quốc
2


gia. Về các hình thức giải quyết cơ bản được hình thành qua quá trình phát triển hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm: Thứ nhất, hợp tác chính
thức giữa các chính phủ với nhau. Thứ hai, hợp tác khơng chính thức giữa các cơ quan
có thẩm quyền, hệ thống chuyên ngành hoặc tổ chức có liên quan trong cơng tác
phịng, chống tội phạm giữa các quốc gia với nhau.
1.3. Khái quát về tội phạm có tổ chức xun quốc gia
Trong Cơng ước Palermo năm 2000 có ghi nhận định nghĩa về tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia và xác lập phạm vi điều chỉnh của Cơng ước, theo đó, tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia là hành vi phạm tội được thực hiện ở nhiều quốc gia hoặc
được thực hiện ở một quốc gia, nhưng phần chủ yếu của việc chuẩn bị, lên kế hoạch,
chỉ đạo hay điều khiển việc thực hiện tội phạm lại diễn ra ở một quốc gia khác, hoặc
đây là hành vi tội phạm được thực hiện ở một quốc gia nhưng có liên quan đến một
nhóm tội phạm có tổ chức tham gia thực hiện các hoạt động tội phạm ở nhiều quốc
gia, hoặc tội phạm được thực hiện ở một quốc gia nhưng có ảnh hưởng nghiêm trọng
đến một quốc gia khác. [3]
Với tính chất là một trong các loại hình của tội phạm quốc tế, tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia có đặc điểm là: Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia là một trong
số ít tội phạm có tính chất quốc tế có thể được truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với cả
pháp nhân. Tùy theo pháp luật quốc nội, trách nhiệm này có thể là hình sự, dân sự hay
hành chính. Trách nhiệm pháp lý của pháp nhân phát sinh trong trường hợp pháp nhân
tham gia các hành vi phạm tội thuộc diện điều chỉnh của Công ước liên quan đến
nhóm tội phạm có tổ chức. Trong định chế tội phạm có tính chất quốc tế, khơng nhiều

điều ước quốc tế về loại tội phạm này có quy định về trách nhiệm pháp lý của pháp
nhân. [10]
1.4. Khái quát về phòng chống nạn mua bán người
Nạn mua bán người (hay buôn người) là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao,
chứa chấp hoặc nhận người nhằm thu lợi nhuận bất hợp pháp từ việc bóc lộc các nạn
nhân dưới nhiều hình thức khác nhau như bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy và
buôn bán nội tạng…Đối với tội buôn bán người và các tội khác có liên quan đến việc
khai thác người khác hành nghề mại dâm được công ước năm 1950 điều chỉnh. Trước
Công ước năm 1950, hành vi buôn bán người và các hành vi khác liên quan đã được
3


cộng đồng quốc tế quan tâm, lên tiếng đấu tranh từ rất sớm. Bằng chứng là sự xuất
hiện của các điều ước quốc tế về vấn đề này bao gồm các điều ước quốc tế năm 1904,
sau đó là điều ước quốc tế khác vào năm 1910 và 1921. Tuy nhiên, các điều ước này
vẫn chưa phản ánh chặt chẽ, đầy đủ các hành vi, hình phạt đối với loại tội phạm này,
do đó, Cơng ước 1950 ra đời. Cơng ước đã tổng hợp, thống nhất các quy định trong
các điều ước đã ban hành từ trước đó. Ngồi ra cơng ước cịn quy định các trường hợp
và điều kiện dẫn độ tội phạm cho quốc gia khác.
1.5. Công ước phịng chống tội phạm có tổ chức xun quốc gia UNTOC
Dựa trên cơ sở các khuyến nghị và điều ước quốc tế mẫu chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia, cộng đồng quốc tế đã tiến hành soạn thảo và thơng qua Cơng
ước quốc tế Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia tại trụ sở Liên hiệp quốc vào
năm 2000. Công ước Liên Hợp Quốc về chống xuyên quốc gia Organized Crime
(UNTOC) được thông qua bởi Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốcvào ngày
15 tháng 11 năm 2000. Nó cịn được gọi là Cơng ước Palermo, và ba Nghị định thư bổ
sung (Nghị định thư Palermo) là: Nghị định thư về Ngăn chặn, đàn áp và trừng phạt
buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; Nghị định thư chống buôn lậu người di
cư bằng đường bộ, đường biển và đường hàng không; Nghị định thư chống lại việc sản
xuất trái phép và bn bán vũ khí. Nhận thấy mục đích của Cơng ước này là thúc đẩy

hợp tác để ngăn ngừa và chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia một cách hiệu quả
hơn, hồn tồn phù hợp với lợi ích của Việt Nam, phù hợp với chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật của Việt Nam trong việc đấu tranh phịng chống tội phạm. Vì
vậy, ngày 15/11/2000, Việt Nam đã quyết định thông qua Công ước này. [18] Cả bốn
công cụ này đều chứa đựng các yếu tố của luật quốc tế hiện hành về bn người, bn
bán vũ khí và rửa tiền. Các Văn phòng Liên hợp quốc về ma túy và tội phạm
(UNODC) đóng vai trị như người giám hộ của UNTOC và các giao thức của nó. Cơng
ước này bắt đầu có hiệu lực vào ngày 29 tháng Chín năm 2003.
2. Nghĩa vụ quốc gia trong phịng chống mua bán người theo quy định của
Cơng ước phịng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia UNTOC
Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia của liên hợp quốc được tin tưởng sẽ sẽ rất hữu ích trong việc ngăn ngừa và
4


chống loại tội phạm này. Nghị định thư này sẽ được giải thích cùng với Cơng ước. Các
quy định của Công ước được áp dụng cho Nghị định thư này với những sửa đổi cần
thiết, trừ trường hợp trong Nghị định thư này có quy định khác. Những hành vi phạm
tội theo quy định tại điều 5 Nghị định thư này sẽ được coi là những hành vi phạm tội
theo quy định trong Cơng ước. Theo điều 2 mục đích của Nghị định thư này là ngăn
chặn và chống việc bn bán người, trong đó đặc biệt chú ý đến phụ nữ và trẻ em; bảo
vệ và hỗ trợ các nạn nhân của việc buôn bán này, cùng với việc tôn trọng đầy đủ các
quyền con người của họ và thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia thành viên để đạt
được mục tiêu này. Theo điều 5, Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng những biện pháp
lập pháp cũng như các biện pháp khác khi cần thiết để hình sự hóa những hành vi nêu
tại điều 3 Nghị định thư này khi những hành vi này được thực hiện một cách cố ý.
2.1. Bảo vệ các nạn nhân của việc buôn bán người
Thứ nhất, Theo Điều 6 về Hỗ trợ và bảo vệ các nạn nhân của việc bn bán
người, Trong những trường hợp thích hợp và trong chừng mực có thể theo pháp luật

trong nước, mỗi quốc gia thành viên sẽ bảo vệ sự riêng tư và nhân thân của các nạn
nhân của việc buôn bán người bằng những biện pháp, bao gồm, không kể những biện
pháp khác, việc tiến hành tố tụng pháp lý đối với hành vi bn bán đó một cách bí mật.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể, mỗi quốc gia thành viên sẽ bảo đảm rằng hệ thống pháp
luật và hành chính của nước mình có những biện pháp để cung cấp cho các nạn nhân
của việc buôn bán người: thông tin thích hợp về tồ án và thủ tục hành chính; sự hỗ trợ
để các nạn nhân được trình bày các quan điểm và mối quan ngại của họ và được xem
xét trong những giai đoạn thích hợp của q trình tố tụng hình sự đối với người phạm
tội, theo cách thức không làm ảnh hưởng đến quyền bào chữa. Mỗi quốc gia thành
viên sẽ cân nhắc việc áp dụng những biện pháp để các nạn nhân của việc buôn bán
người có thể phục hồi về thể chất, tinh thần và xã hội, tuỳ từng trường hợp cụ thể, bao
gồm cả việc hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức liên quan khác và các
thiết chế xã hội dân sự, và đặc biệt là cung cấp: nơi ở thích hợp; những hướng dẫn và
thơng tin, đặc biệt đối với các quyền hợp pháp của các nạn nhân của việc bn bán
người bằng ngơn ngữ mà họ có thể hiểu được; hỗ trợ y tế, tinh thần và vật chất; và các
cơ hội việc làm, giáo dục và đào tạo. Mỗi quốc gia thành viên sẽ cố gắng bảo đảm sự
an toàn thân thể cho các nạn nhân của việc buôn bán người khi họ đang ở trong lãnh
thổ của quốc gia đó. Mỗi quốc gia thành viên sẽ bảo đảm rằng trong hệ thống pháp
5


luật quốc gia của mình có các biện pháp giúp cho các nạn nhân của việc bn bán
người có thể được đền bù cho những thiệt hại mà họ phải chịu.
Thứ hai, Theo Điều 7 của Địa vị của các nạn nhân của việc buôn bán người tại
quốc gia tiếp nhận. Mỗi quốc gia thành viên sẽ cân nhắc việc áp dụng các biện pháp
lập pháp và các biện pháp khác để các nạn nhân của việc buôn bán người có thể được
ở lại trên lãnh thổ của mình, tạm thời hay vĩnh viễn, tuỳ từng trường hợp cụ thể.
Thứ ba, Theo Điều 8 về Việc hồi hương của các nạn nhân của việc buôn bán
người. Quốc gia thành viên mà một nạn nhân của việc buôn bán người là cơng dân hay
có quyền thường trú ở đó tại thời điểm vào lãnh thổ của quốc gia thành viên tiếp nhận

sẽ tạo điều kiện và chấp nhận việc hồi hương của người đó. Khi một quốc gia thành
viên đưa một nạn nhân của việc buôn bán người trở về một quốc gia thành viên mà
người đó là cơng dân hay có quyền thường trú ở đó tại thời điểm vào lãnh thổ của quốc
gia thành viên tiếp nhận, việc hồi hương này sẽ được xem xét cùng với sự an tồn của
người đó và tình trạng của bất kỳ thủ tục pháp lý nào liên quan đến việc người đó là
nạn nhân của hành vi buôn bán người và phải hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện. Để
tạo điều kiện thuận lợi cho việc hồi hương của một nạn nhân của việc buôn bán sẽ
đồng ý cấp giấy tờ thông hành hay những giấy phép khác cần thiết để người đó có thể
đi lại và trở về lãnh thổ nước mình.
2.2. Ngăn ngừa, hợp tác và các biện pháp khác
Thứ nhất, về việc ngăn ngừa buôn bán người. Các quốc gia thành viên sẽ đề ra
các chính sách, chương trình tồn diện và các biện pháp khác để ngăn ngừa và chống
việc buôn bán người và bảo vệ các nạn nhân của việc buôn bán người. Các quốc gia
thành viên sẽ nỗ lực thi hành các biện pháp như nghiên cứu, thông tin và các chiến
dịch truyền thông đại chúng cũng như các sáng kiến xã hội và kinh tế để ngăn ngừa và
chống hành vi buôn bán người. Các chính sách, chương trình và các biện pháp khác
được đề ra, sẽ bao gồm việc hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức liên
quan khác và các thiết chế xã hội dân sự. Các quốc gia thành viên sẽ thực hiện và tăng
cường các biện pháp, bao gồm việc thông qua hợp tác song phương hoặc đa phương.
Các quốc gia thành viên sẽ áp dụng hay tăng cường các biện pháp lập pháp hay các
biện pháp khác.

6


Thứ hai, về trao đổi thông tin và đào tạo, các cơ quan hành pháp, nhập cư và các
cơ quan liên quan khác của các quốc gia thành viên, khi thích hợp, sẽ hợp tác với nhau
bằng cách trao đổi thơng tin, phù hợp với pháp luật quốc gia mình. Các quốc gia thành
viên sẽ cung cấp hay tăng cường việc đào tạo cho các cán bộ hành pháp hay quản lý
nhập cư và các cán bộ liên quan khác về ngăn ngừa buôn bán người.

Thứ ba, về các biện pháp tại biên giới, không làm phương hại đến các cam kết
quốc tế liên quan đến tự do đi lại của người dân, các quốc gia thành viên, trong chừng
mực có thể, tăng cường sự kiểm sốt biên giới cần thiết để ngăn ngừa và phát hiện việc
buôn bán người. Mỗi quốc gia thành viên phải áp dụng các biện pháp lập pháp và các
biện pháp khác để ngăn chặn trong phạm vi có thể. Khơng làm phương hại đến điều 27
của Công ước, các quốc gia thành viên xem xét việc tăng cường hợp tác giữa các cơ
quan kiểm sốt biên giới bằng cách thiết lập và duy trì các kênh thông tin trực tiếp bên
cạnh những phương thức khác.
Thứ tư, về an ninh và kiểm soát giấy tờ. Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng
những biện pháp cần thiết trong phạm vi các phương tiện sẵn có để: bảo đảm rằng các
giấy tờ thông hành hoặc nhận dạng do mình cung cấp có đặc tính khơng thể dễ dàng bị
sử dụng sai mục đích và khơng thể dễ dàng bị giả mạo hoặc thay đổi, sao chép hay cấp
một cách bất hợp pháp và bảo đảm tính tồn vẹn và an tồn của các giấy tờ thơng hành
hay nhận dạng được cấp bởi quốc gia thành viên đó hay cấp thay mặt quốc gia thành
viên đó và ngăn ngừa việc tạo ra, cấp và sử dụng những giấy tờ này một cách bất hợp
pháp.
3. Thực tiễn về việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia trong phòng chống mua bán
người theo quy định của Cơng ước phịng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia UNTOC của Việt Nam
Những năm gần đây, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia diễn biến phức tạp và
có chiều hướng gia tăng về quy mơ, và các quốc gia trên tồn cầu cũng đang cùng
nhau phối hợp nhằm đối phó với các mạng lưới tội phạm quốc tế. Năm 2000, Đại hội
đồng Liên hợp quốc đã thông qua Công ước UNTOC cùng các Nghị định thư kèm
theo, và Công ước đã có hiệu lực vào năm 2003.Với 186 quốc gia thành viên, Công
ước UNTOC là một trong những hiệp ước được phê chuẩn rộng rãi nhất về vấn đề
pháp luật hình sự quốc tế. Công ước đưa ra giải pháp cho mọi vấn đề của tội phạm có
7


tổ chức xuyên quốc gia và xây dựng một công cụ hiệu quả cũng như thể chế pháp lý

cần thiết cho hợp tác quốc tế trong cơng tác phịng chống mọi hình thức của tội phạm
có tổ chức xun quốc gia. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước vào ngày 8-62012. [17]
3.1. Những thành tựu của Việt Nam trong việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia
trong phòng chống mua bán người theo quy định của Cơng ước phịng chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia UNTOC
Sau một thời gian dài tham gia Cơng ước phịng chống tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia UNTOC, có thể thấy rằng Việt Nam đã
thực hiện rất tốt các nghĩa vụ của mình và đạt được rất nhiều thành
tựu to lớn.
3.1.1. Thành tựu về truy tố tội phạm mua bán người
Theo báo cáo của Bộ Công an, từ ngày 1/1/2012 đến ngày 30/8/2020, tổng số tin
báo, tố giác và kiến nghị khởi tố về tội phạm mua bán người là 1.162 tin, 100% đã
được xác minh, xử lý. Về điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, từ ngày
1/1/2012 đến ngày 30/8/2020, tổng số vụ án về mua bán người được khởi tố là hơn
1.400 vụ với 2.500 bị can. Riêng 6 tháng đầu năm 2021, cả nước phát hiện 29 vụ/43
đối tượng phạm tội mua bán người; giải cứu, tiếp nhận, hỗ trợ 56 nạn nhân. Các vụ án
về mua bán người đều được Viện Kiểm sát kiểm sát theo quy định, đạt tỉ lệ 100%. [18]
So sánh với Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm
2009) thì quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội “Mua bán người” đã có những
sự thay đổi đáng kể. Về cấu thành cơ bản Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định:
“Người nào mua bán người thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm” theo quy định này
một thời gian dài các cơ quan chức năng đã hiểu rằng chỉ cần người nào có hành vi coi
con người là một loại hàng hóa dùng để trao đổi mua bán là đã đáp ứng cấu thành cơ
bản của tội phạm. Điều 150 Bộ luật hình sự năm 2015 đã đưa tinh thần Điều 3 của
Nghị định thư Palermo vào quy định về cấu thành cơ bản của tội “Mua bán người” một
cách cụ thể hơn và mở rộng hơn. Ngồi hành vi khách quan mang tính chất “Mua bán”
cịn có các hành vi khác khơng địi hỏi phải chứng minh có tính chất vụ lợi, mua bán.
[11]
8



Nhiều hành vi trước đây xử theo tội mua bán người, nhưng sau khi Bộ luật hình
sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực, thì được xử theo tội khác như:
Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại; tội tổ chức đưa người trốn đi nước
ngoài trái phép; tội cưỡng bức lao động…
3.1.2. Thành tựu về bảo vệ nạn nhân của nạn buôn người
Về hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, theo Bộ LĐTB&XH, đến nay, cả nước có 425 cơ
sở trợ giúp xã hội, trong đó 195 cơ sở cơng lập và 230 cơ sở ngồi cơng lập thuộc các
loại hình cơ sở trợ giúp xã hội. Từ năm 2011 đến tháng 6/2020 đã tổ chức tiếp nhận,
hỗ trợ cho hơn 7.300 nạn nhân. 100% nạn nhân bị mua bán, sau khi tiếp nhận, được
lực lượng chức năng công an, bộ đội biên phịng, chính quyền địa phương phối hợp
bảo vệ, thực hiện dịch vụ hỗ trợ học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý… để nạn nhân
nhanh chóng tái hịa nhập cộng đồng. Trong đó có những mơ hình tiêu biểu như: Nhà
Nhân ái tại Lào Cai và An Giang; Ngôi nhà bình yên, thuộc Trung tâm Phụ nữ và phát
triển. Thơng qua sự hỗ trợ của Nhà Nhân ái, có 2 em học đại học, 1 em học cao đẳng,
12 em học trung cấp, 17 em học xong văn hóa, 34 em học nghề; đã hỗ trợ khó khăn
ban đầu cho 121 người với mức hỗ trợ từ 1.000.000 – 4.000.000đ/người.
3.1.3. Thành tựu về phòng ngừa và hợp tác phòng chống mua bán người
Về hợp tác đa phương, Việt Nam là thành viên Công ước của Liên Hợp Quốc về
chống tội phạm có tổ chức xun quốc gia (TOC), Cơng ước ASEAN về phòng, chống
mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng
chống và trừng trị việc mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Cơng
ước TOC. Việt Nam cũng tham gia Thỏa thuận tồn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và
trật tự - thỏa thuận liên chính phủ đầu tiên về di cư, đồng thời đã ban hành Kế hoạch
triển khai thỏa thuận này, với các giải pháp cụ thể và toàn diện nhằm ngăn ngừa nguy
cơ mua bán người trong di cư quốc tế. Trong hợp tác song phương, Việt Nam tiếp tục
triển khai có hiệu quả các hiệp định hợp tác giữa Việt Nam với Campuchia, Lào, Thái,
Trung Quốc và Anh về phịng, chống mua bán người, trong đó duy trì họp thường niên
với cơ quan thực hiện hiệp định, phối hợp tổ chức các đợt cao điểm tấn công trấn áp
tội phạm mua bán người. Việt Nam cũng đang thực hiện các dự án hợp tác trong

khuôn khổ Chương trình ASEAN-ACT do Chính phủ Australia tài trợ. Ngồi ra, Việt
Nam thường xuyên trao đổi về chủ trương, thành tựu của Việt Nam trong phòng chống
9


mua bán người tại Đối thoại nhân quyền với EU, Australia... cũng như các buổi làm
việc định kỳ với một số cơ quan đại diện nước ngoài tại Hà Nội.
Nỗ lực cũng như cam kết của Việt Nam trong phòng, chống mua bán người thời
gian qua đã được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Đặc biệt, những nhiệm vụ, giải
pháp được đề ra trong Chương trình phịng, chống mua bán người giai đoạn 20212025 và định hướng đến năm 2030 được đánh giá là mang tính đột phá, tồn diện...
[18]
Trong cơng tác truyền thơng, giáo dục phịng ngừa, các bộ, ngành, đoàn thể
Trung ương, địa phương đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật, nâng cao hiểu biết cho nhân dân đặc biệt là những người dân thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng như ti vi, báo đài, phim tài liệu, các nền mạng xã
hội và trực tiếp có mặt tại cộng đồng với những hình thức, biện pháp phong phú, đa
dạng, đặc biệt là hưởng ứng "Ngày toàn dân phịng, chống mua bán người- 30/7." Từ
đó, có hiệu quả rõ rệt, người dân đã nâng cao cảnh giác trước thủ đoạn hoạt động của
tội phạm mua bán người.
Từ năm 2019 đến nay, Bộ Cơng an với vai trị Cơ quan Thường trực Chương
trình 130/CP đã tham mưu Ban Chỉ đạo phịng, chống tội phạm của Chính phủ (gọi tắt
là Ban Chỉ đạo 138/CP) triển khai thực hiện có hiệu quả cơng tác phịng, chống mua
bán người. Hàng năm, lực lượng Cơng an, chủ cơng là Cảnh sát hình sự phối hợp với
Bộ đội Biên phòng các cấp xây dựng, phối hợp triển khai các kế hoạch nghiệp vụ, điều
tra theo tuyến, địa bàn trọng điểm (đảm bảo 100%), kết hợp với tuần tra, kiểm soát,
quản lý xuất nhập cảnh qua biên giới. Đồng thời, tổ chức triển khai thực hiện cao điểm
tấn công trấn áp tội phạm mua bán người, đưa người ta nước ngoài trái phép trên phạm
vi toàn quốc, tập trung vào các tuyến biên giới với Campuchia, Lào và Trung Quốc.
[7]
3.2. Hạn chế và khó khăn của Việt Nam trong việc thực hiện nghĩa vụ quốc

gia trong phòng chống mua bán người theo quy định của Cơng ước phịng chống
tội phạm có tổ chức xun quốc gia UNTOC
Mặc dù đã xây dựng và ban hành được khung pháp lý cơ bản, đồng thời đưa ra
nhiều biện pháp hiệu quả nên bảo vệ nạn nhân và hợp tác để phịng chống tình trạng
bn bán người tuy nhiên, trong thực tiễn tội phạm này ngày càng tinh vi, phức tạp, có
10


tổ chức với đường dây, quy mô lớn hơn trước rất nhiều, vẫn cịn nhiều khó khăn, hạn
chết trong thực tiễn và nhiều quy định của pháp luật còn chưa chặt chẽ. Tình hình hoạt
động của tội phạm mua bán người vẫn diễn biến phức tạp, trong nước còn tiềm ẩn
nhiều đường dây, băng nhóm hoạt động, chưa có điều kiện điều tra, khám phá
Tại Việt Nam, theo báo cáo của các đơn vị, địa phương, từ năm 2010 đến tháng
6-2021, đã phát hiện xảy ra gần 3.500 vụ, với 5.000 đối tượng, lừa bán gần 7.500 nạn
nhân (từ năm 2019 đến nay, đã phát hiện xảy ra hơn 370 vụ, với gần 500 đối tượng,
lừa bán hơn 550 nạn nhân). Tội phạm mua bán người đã xảy ra trên phạm vi 63 tỉnh,
thành phố, nạn nhân không chỉ là phụ nữ, trẻ em, mà đã xuất hiện tình trạng mua bán
nam giới, mua bán trẻ sơ sinh, bào thai, mua bán nội tạng, đẻ thuê.... Trong đó, có
nhiều vụ mua bán trẻ sơ sinh, bào thai sang Trung Quốc; mua bán nội tạng; mua bán,
đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Gần 85% số vụ mua bán người ra nước ngoài, tập trung
chủ yếu qua các tuyến biên giới giữa Việt Nam với Căm-pu-chia, Lào và Trung Quốc,
trong đó, sang Trung Quốc chiếm 75%. Thủ đoạn phạm tội của các đối tượng chủ yếu
là lợi dụng tình trạng khó khăn về kinh tế, thất nghiệp, thiếu việc làm, trình độ học vấn
thấp, “nhẹ dạ, cả tin” của người bị hại để lừa bán nạn nhân từ nông thôn ra thành thị,
các khu cơng nghiệp, hoặc ra nước ngồi, trong đó trên 85% nạn nhân là phụ nữ, trẻ
em. Thời gian gần đây, đối tượng phạm tội lợi dụng chính sách mở, thơng thống
trong thủ tục xuất nhập cảnh tổ chức thành những đường dây đưa người ra nước ngoài
dưới dạng du lịch, thăm thân, lao động trái phép. Sau đó thu giữ giấy tờ, hộ chiếu,
không làm các thủ tục cư trú, bắt lao động cưỡng bức và lạm dụng tình dục. [15]
Với hành vi “chuyển giao và tiếp nhận” người thì phải chứng minh được mục

đích là “để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác”. Nếu được thực hiện trong
nước (mua bán trong nước) thì cơ quan điều tra khơng gặp khó khăn. Nhưng với
những trường hợp “chuyển giao và tiếp nhận” được thực hiện ở nước ngồi thì rất khó
khăn trong thu thập chứng cứ. Trên thực thế, đa số các hành vi “chuyển giao và tiếp
nhận” trong vụ án mua bán người chủ yếu được thực hiện ở nước ngoài. Với các hành
vi “tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp” người thì phải chứng minh được mục đích
“kép” là “để chuyển giao” và “nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác”. Mà hầu
hết hành vi “chuyển giao” được thực hiện ở nước ngoài nên mặc dù các đối tượng có
hành vi “tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp” người trong nước nhưng không xử lý được
11


về tội mua bán người. Bên cạnh đó, q trình điều tra các vụ án mua bán người thường
thực hiện là truy xét, rất ít trường hợp bị bắt quả tang. Do vậy, đối với các vụ án không
thuộc trường hợp phạm tội quả tang, chỉ khi người bị hại trốn từ nước ngồi về và có
đơn tố cáo thì đối tượng phạm tội mới bị phát hiện. [18]
Luật hiện hành chỉ quy định nạn nhân được hỗ trợ về tâm lý trong thời gian cư
trú tại cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân như vậy là chưa đủ khi nhiều nạn
nhân trở về với những sang chấn về mặt tâm lý, hoảng loạn, lo lắng bị trả thù sau khi
cung cấp thông tin hoặc khi trở về địa phương bị kỳ thị, xa lánh, rất cần được hỗ trợ
tâm lý. Hay các quy định chỉ có nạn nhân thuộc hộ nghèo mới được xem xét hỗ trợ
văn hóa, học nghề, trợ cấp khó khăn ban đầu; mức chi hỗ trợ khó khăn ban đầu cho
nạn nhân còn thấp (1 triệu đồng/người), chưa bảo đảm cuộc sống khi về địa phương
hòa nhập cộng đồng, các quy định về trình tự, thủ tục nhận hỗ trợ chưa cụ thể, thống
nhất...
Công tác truyền thông ở nhiều địa phương còn dàn trải, diện bao phủ chưa nhiều,
còn chưa đi vào chiều sâu, chưa tiếp cận được đầy đủ mọi tầng lớp, độ tuổi nhân dân.
Công tác giáo dục, phổ biến pháp luật về phòng, chống mua bán người cịn hạn chế.
Xây dựng, duy trì và nhân rộng các mơ hình về phịng, chống mua bán người chưa đạt
hiệu quả cao. Công tác tiếp nhận, xác minh và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán cịn gặp

nhiều khó khăn và bất cập, việc vận dụng chính sách hỗ trợ nạn nhân, một số địa
phương lúng túng trong tổ chức thực hiện.
Bên cạnh đó, tiến độ xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật, nhất là các
văn bản hướng dẫn cơ sở thực hiện còn chậm, nội dung chưa cụ thể nên cịn có những
địa phương nhận thức chưa thống nhất. Đến thời điểm hiện nay chưa có văn bản nào
hướng dẫn, giải thích thủ đoạn khác là nhưng thủ đoạn nào, vì vậy khi chứng minh tội
phạm “Mua bán người” cơ quan chức năng bắt buộc phải chứng minh người bị mua
bán có bị cưỡng ép hay lừa gạt hay khơng? Sự đồng tình từ phía người bị hại (ở mức
độ nào đó thực sự là một sự cản trở rất lớn trong công tác đấu tranh phịng chống tội
phạm này. Ngồi ra, về tình tiết định khung ở điều 150 BLHS 2015, Nếu đối tượng
phạm tội ngay từ ban đầu đã xác định rõ những mục đích ấy đi một hoặc nhiều bộ
phận cơ thể của con người có nguy cơ dẫn đến tước đi sinh mạng sống của nạn nhân
như vậy thì việc định tội “Mua bán người” lại là quá nhẹ và không phù hợp.
12


Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên là do: Các cấp ủy đảng, chính
quyền ở một số đơn vị, địa phương chưa xác định rõ công tác phòng, chống mua bán
người là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên, chưa phát huy
hết vai trị, trách nhiệm, nhất là các cơ quan được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp
thực hiện các đề án, tiểu đề án; Chưa tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các
bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội trong thực hiện cơng tác phịng, chống mua bán
người nên hoạt động chưa thống nhất, hoặc trùng dẫm, đùn đẩy lẫn nhau. Đáng chú ý,
nguồn lực không đảm bảo u cầu đặt ra, kinh phí thực hiện cơng tác phịng, chống
mua bán người khơng được cấp kịp thời. Thiếu lực lượng chun trách thực hiện cơng
tác phịng, chống mua bán người; hầu hết cán bộ làm kiêm nhiệm.
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia trong
phòng chống mua bán người theo quy định của Cơng ước phịng chống tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia UNTOC của Việt Nam
Thứ nhất, nên có hướng dẫn mở rộng hơn khái niệm thế nào là “Lừa gạt”, thế

nào là “Thủ đoạn khác”, qua đó quy định mọi trường hợp nếu nạn nhân không tự bán
mình, tự mong muốn tham gia vào hoạt động trao đổi và hồn tồn khơng được tự chủ
trong việc thỏa thuận xác lập quyền nghĩa vụ của họ thì những người tham gia vào
việc chuyển giao hay tiếp nhận để vụ lợi đều phải xác định là “gian lận” hoặc “lừa
gạt”, do đó thỏa mãn cấu thành cơ bản của tội “Mua bán người”.
Thứ hai, Nếu đối tượng phạm tội ngay từ ban đầu đã xác định rõ những mục
đích lấy nhiều bộ phận cơ thể có thể dẫn tới tước đoạt tính mạng thì việc định tội “Mua
bán người” lại là quá nhẹ và không phù hợp. Theo quan điểm của cá nhân tơi thì các
trường hợp đó phải hướng dẫn xử lý về tội “Giết người”.
Thứ ba, hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự, ban hành các
văn bản hướng dẫn về quyền và nghĩa vụ của thân nhân nạn nhân khi tham gia phiên
tòa, vấn đề bảo vệ người làm chứng, người tố giác tội phạm, người bị hại. Theo đó,
cần chỉ rõ các biện pháp bảo vệ cụ thể, thủ tục yêu cầu bảo vệ, nguồn kinh phí thực
hiện các biện pháp này. [5]
Thứ tư, xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật phịng, chống mua bán
người. Hệ thống hóa, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về tội này.
13


Thứ năm, đẩy mạnh công tác truyền thông với nhiều sáng tạo mới mẻ, tiếp cận
được đông đảo người xem qua báo chí, phim ảnh, qua các nền tảng mạng xã hội,.. và
đến trực tiếp tại cộng đồng, tổ chức các hoạt động thiết thực hưởng ứng “Ngày tồn
dân phịng, chống mua bán người 30-7” và “Ngày thế giới phòng, chống mua bán
người 30-7”. Phối hợp tổ chức các chiến dịch truyền thông tại cộng đồng, nhất là các
địa bàn vùng sâu, vùng xa, dân trí thấp, đi vào chiều sâu của vấn đề, làm rõ các mánh
khóe, thủ đoạn và hậu quả nguy hiểm của tội phạm. Duy trì, nhân rộng các mơ hình,
câu lạc bộ phịng, chống mua bán người hoạt động hiệu quả; Lồng ghép và truyền tải
thơng điệp phịng, chống mua bán người vào các chương trình giáo dục cơng dân, giáo
dục ngoại khóa của các cấp học, ngành học.
Thứ sáu, về công tác điều tra, truy tố và xét xử tội phạm mua bán người: Tổ

chức điều tra cơ bản nắm chắc tình hình hoạt động tội phạm mua bán người và các đối
tượng khác có liên quan, áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, tập trung vào các tuyến, địa
bàn trọng điểm để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật
liên quan đến tội phạm mua bán người, trọng tâm trên các tuyến biên giới giữa Việt
Nam với Căm-pu-chia, Lào và Trung Quốc. Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, địa
phương, lực lượng chức năng các nước, tổ chức quốc tế nhằm trao đổi thông tin, thiết
lập đường dây nóng, xác định đầu mối phối hợp điều tra, bắt giữ, chuyển giao, truy nã
đối tượng phạm tội và giải cứu, tiếp nhận, bảo vệ nạn nhân bị mua bán. [15]
Thứ bảy, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về cư trú, cần quy định chặt chẽ
về việc đăng ký hộ khẩu, khai báo tạm trú, tạm vắng. Tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân đăng ký hộ khẩu bằng việc cải cách các thủ tục, giảm thiểu và niêm yết
công khai thủ tục. Tạo các điểm đăng ký, khai báo tạm trú ở địa bàn dân cư.
Thứ tám, cần tăng cường sự hiệu quả quản lý nhà nước đối với các cơ sở kinh
doanh “nhạy cảm” như nhà hàng, khách sạn, quán bar, quán karaoke,… - là những nơi
tụ tập tệ nạn mại dâm – tác nhân chủ yếu thúc đẩy nạn mua bán người.
Thứ chín, Bộ Cơng an và Cục Phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên
phòng cần phối hợp với các tổ chức Liên hợp quốc, tổ chức phi Chính phủ như:
UNODC, UNICEF, UNIAP, WV, IOM... trong khuôn khổ kế hoạch hợp tác quốc tế
trong phòng, chống ma túy, phòng chống mua bán người của Ban chỉ đạo 138/CP. Để
từ đó nâng cao trình độ về luật pháp quốc tế, nghiệp vụ chuyên sâu về kiểm soát mua
14


bán người và năng lực đấu tranh phòng, chống tội phạm được nâng lên, góp phần nâng
cao hiệu quả cơng tác phòng, chống mua bán người trên các tuyến biên giới.
Thứ mười, nhà nước cần đưa ra những chính sách xóa đói, giảm nghèo, phát
triển sản xuất đặc biệt cho bà con ở vùng sâu, vùng xa. Đồng thời, cần giải quyết nhu
cầu việc làm cho người trong độ tuổi lao động, có chính sách xuất khẩu lao động hợp
lý và tạo con đường hợp pháp, thuận lợi và phải quản lý tốt các ngành nghề.


C. Kết Luận
Như vậy bài tiểu luận đã đi vào bình luận về Việt nam với việc thực hiện nghĩa
vụ quốc gia trong phòng chống mua bán người theo quy định của Cơng ước phịng
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia UNTOC. Có thể thấy rằng, Việt Nam đã
đạt rất nỗ lực thực hiện các nghĩa vụ trong Công ước, tăng cường hợp tác, phối hợp,
đẩy mạnh tuyên truyền, hoàn thiện pháp luật và đưa ra các chính sách hiệu quả để
phịng ngừa tội mua bán người trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn cịn những hạn
chế, khó khăn địi hỏi rất nhiều nỗ lực đến từ Việt Nam và những giải pháp đã được
đưa ra để nâng cao chất lượng phòng ngừa tội mua bán người. Với xu thế toàn cầu hóa
như hiện nay, các quốc gia đang ngày càng mở rộng cánh cửa để đón chào những vị
khách từ bên ngồi tới, nhưng thuận lợi ln đi kèm khó khăn chính nên việc phát
triển hệ thống luật pháp của quốc gia và pháp luật quốc tế trong việc đấu tranh phòng
chống tội phạm cần phải được quan tâm và cải thiện hơn nữa để phấn đấu vì một thế
giới cơng bằng, văn minh, dân chủ.

15


Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật hình sự 2015.
2. Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
3. Cơng ước phịng chống tội phạm có tổ chức xun quốc gia UNTOC.
4. “Cơng ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
Thông qua ngày 15/11/2000 “(2018), Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, từ <
>, truy cập lần cuối ngày 5/12/2021.
5. Đoàn Ngọc Huyền, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội mua bán người
trong Luật Hình sự Việt nam “, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội, 2014.
6. Đào Lệ Thu (2020), “ Xu hướng quốc tế hóa của luật hình sự Việt Nam và vấn
đề đặt ra cho lập pháp hình sự “, truy cập lần cuối ngày 5/12/2021, từ < />xu-huong-quoc-te-hoa-cua-luat-hinh-su-viet-nam-va-van-de-dat-ra-cho-lap-phap-hinhsu.html>.

7. Huyền Chi (2021), “ Báo cáo TIP 2020 về nỗ lực chống mua bán người ở Việt
Nam có nhiều điểm chưa đúng “, truy cập lần cuối ngày 5/12/2021, từ <
/>16



×