Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SỎI NIỆU QUẢN BẰNG TÁN SỎI NỘI SOI VỚI NGUỒN NĂNG LƯỢNG XUNG HƠI TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 63 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi tiết niệu đứng thứ 3 trong những bệnh lí hay gặp nhất của
đường tiết niệu, chỉ sau nhiễm trùng niệu và bệnh lí liên quan tiền liệt tuyến.
Trong đó sỏi niệu quản chiếm 20-40%, đứng thứ 2 sau sỏi thận. Sỏi niệu quản
có thể kết hợp với sỏi ở vị trí khác nhau của đường tiết niệu .
Sỏi niệu quản đa số xuất phát từ sỏi thận. Trong quá trình hình thành ,
sỏi di chuyển xuống niệu quản, do sự viêm phù nề niêm mạc khi di chuyển
của sỏi và kích thước của sỏi mà sỏi không trôi được xuống bàng quang và
đái ra ngoài. Sỏi niệu quản là một bệnh lí cần phải điều trị vì niệu quản là con
đường độc đạo dẫn nước tiểu từ thận xuống bàng quang. Nếu niệu quản bị tắc
do sỏi thì thận sẽ giãn dần và ứ nước, ứ mủ, bị hủy hoại dẫn đến nguy cơ suy
thận và mất chức năng thận.
Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị hiệu quả sỏi niệu quản. Theo
khuyến cáo của hội niệu khoa Mỹ (AUA) và Châu Âu (EUA), tán sỏi ngoài
cơ thể là phương tiện được ưu tiên lưạ chọn hàng đầu trong điều trị sỏi niệu
quản không biến chứng.
Tán sỏi nội soi ngược dòng được chỉ định cho những trường hợp sỏi
niệu quản đoạn chậu, không được khuyến cáo cho những sỏi niệu quản đoạn
cao do khó tiếp cận được sỏi và sỏi dễ chạy lên thận, dẫn đến cuộc mổ thất
bại. Gần đây, nhờ những tiến bộ kỹ thuật với ống soi nhỏ và những phương
tiện phá sỏi hiệu quả nhưng ít gây tổn thương thành niệu quản như xung hơi
và laser, nội soi niệu quản tán sỏi được chỉ định rộng rãi hơn. Theo Nguyễn
Kim Tuấn (2013) tại Bệnh viện trung ương Huế trên 1276 bệnh nhân nội soi
1
tán sỏi ngược dòng, tỷ lệ tán thành công 92,55%, thất bại 7,45%, trong đó sỏi
niệu quản đoạn bụng thất bại 4,66%, sỏi tiểu khung thất bại 2,79%. Thất bại
do đặt máy 2,11%, sỏi chạy lên thận khi tán bằng laser 1,83%, khi tán bằng
xung hơi là 24,52%.
Tại bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên đã triển khai tán sỏi nội
soi ngược dòng trong điều trị sỏi niệu quản với nguồn năng lượng xung hơi từ
2002 và dần trở thành phẫu thuật thường quy, giúp bệnh nhân rút ngắn thời


gian điều trị, phục hồi sức khỏe nhanh chóng và ít biến chứng. Tỉ lệ bệnh
nhân phải mổ mở ngày càng thấp.
Tuy nhiên trong quá trình điều trị, chúng tôi thấy phương pháp này đã
bộc lộ những ưu và nhược điểm nhất định. Vẫn còn tỉ lệ sót sỏi, có tai biến
trong quá trình tán sỏi, có trường hợp thất bại Vì vậy, chúng tôi đã tiến
hành nghiên cứu “Đánh giá kết quả điều trị sỏi niệu quản bằng tán sỏi nội
soi ngược dòng với nguồn năng lượng xung hơi tại Bệnh viện đa khoa
trung ương Thái Nguyên”
Với mục tiêu:
1. Đánh giá kết quả điều trị sỏi niệu quản bằng tán sỏi nội soi ngược
dòng với nguồn năng lượng xung hơi tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái
Nguyên.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị nội soi tán
sỏi niệu quản bằng năng lượng xung hơi tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái
Nguyên.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1 . Một số đặc điểm về giải phẫu học của niệu quản
1.1.1. Giải phẫu niệu quản
• Vị trí và hình thể
Niệu quản là một ống dẫn nước tiểu từ bể thận xuống bàng quang,
nằm sau phúc mạc, dọc hai bên cột sống thắt lưng và ép sát vào thành bụng
sau, niệu quản bắt đầu từ khúc nối bể thận - niệu quản đi thẳng xuống eo trên,
rồi bắt chéo động mạch chậu, chạy vào chậu hông rồi chếch ra trước và đổ
vào bàng quang. Niệu quản ở người lớn dài khoảng từ 25 - 28 cm, bên phải
ngắn hơn bên trái khoảng 1 cm, đường kính ngoài khoảng 4 – 5 mm, đường
kính trong khoảng 3 - 4 mm.
Hình 1.1. Giải phẫu niệu quản mặt trước .
• Cấu tạo và hình thể trong

Niệu quản đường kính 4-6mm cấu tạo gồm nhiều lớp.
3
Thành niệu quản dày 1 mm có cấu trúc gồm 3 lớp
- Lớp niêm mạc: Niêm mạc niệu quản liên tục với bể thận ở trên và
bàng quang ở dưới, bao gồm lớp tế bào biểu mô chuyển tiếp được đệm bởi tổ
chức sợi xơ có khả năng co giãn. Cấu tạo lớp niêm mạc cho phép niệu quản
căng và xẹp khi co bóp khi có nhu động. Lớp niêm mạc có độ dày khác nhau,
ở đoạn niệu quản trong thành bàng quang có sáu lớp tế bào và đoạn niệu quản
chỗ nối với bể thận có hai lớp tế bào.
- Lớp cơ: Gồm 3 lớp, lớp trong là lớp cơ dọc, lớp giữa là lớp cơ vòng,
lớp ngoài thô sơ gồm vài bó cơ dọc. Lớp cơ niệu quản sắp xếp theo kiểu vòng xoắn.
- Lớp bao ngoài: Lớp áo vỏ xơ ở trên, liên tiếp với lớp vỏ xơ của thận
và ở dưới tiếp với vỏ xơ của bàng quang. Có nhiều mạch máu nối tiếp nhau,
hệ thống thần kinh và một số tế bào hạch chi phối hoạt động của niệu quản.
Hình 1.2. Cấu tạo vi thể niệu quản .
• Liên quan giải phẫu
- Phẫu thuật tiết niệu đòi hỏi phải hiểu rõ về mối liên quan giải phẫu.
- Niệu quản bắt đầu từ vị trí nối giữa bể thận- niệu quản,nằm sau động
mạch và tĩnh mạch thận. Sau đó đi xuống dưới dọc theo cạnh trước của cơ
4
đáy chậu. Niệu quản phải liên quan đại tràng lên, manh tràng, ruột thừa và
mạc treo. Niệu quản trái liên quan đại tràng xuống, đại tràng sigma và mạc
treo. Đi được 1/3 đoạn từ thận xuống bàng quang, động mạch sinh dục chạy
chéo trước niệu quản. Khi đi vào đoạn chậu, niệu quản chạy trước động mạch
chậu, thường ở đoạn tách của động mạch chậu chung ra các nhánh động mạch
chậu trong, chậu ngoài .
Do nằm gần 1 số đoạn ruột nên khi ruột bị viêm, ác tính từ hồi tràng,
ruột thừa , đại tràng phải, đại tràng trái, đại tràng sigma có thể liên quan đến
niệu quản gây rò hoặc tắc nghẽn niệu quản. Ở nữ ,niệu quản khi vào đáy chậu
nằm sau động mạch tử cung và liên quan gần tới cổ tử cung.vì vậy khi cắt tử

cung có thể phạm phải niệu quản. Ngoài ra các bệnh lí ống dẫn trứng, vòi
trứng có thể phạm vào niệu quản ở vùng chậu .
Niệu quản có 3 chỗ hẹp sinh lý mà sỏi thường dừng lại khi di chuyển từ
thận xuống bàng quang. Vị trí thứ nhất là chỗ nối bể thận niệu quản, đường
kính khoảng 2mm (6F). Vị trí hẹp thứ hai là chỗ niệu quản bắt chéo động
mạch chậu, đường kính khoảng 4mm (12F). Vị trí thứ ba là chỗ niệu quản đổ
vào bàng quang, lỗ niệu quản 3 - 4mm (9F-12F) .
Hình 1.3. Ba vị trí hẹp của niệu quản .
UPJ ( Ureteropyelo junction): đoạn nối bể thận- niệu quản,
Iliac vessels: mạch chậu, Ureteral orifice : lỗ niệu quản.
5
Niệu quản chia làm 04 đoạn từ trên xuống dưới:
+ Đoạn thắt lưng: Dài từ 09 - 11cm, liên quan ở sau với cơ thắt lưng,
các dây thần kinh đám rối thắt lưng (thần kinh sinh dục đùi), với các mỏm
ngang của đốt sống thắt lưng (L2 - L5), phía trong bên phải liên quan với tĩnh
mạch chủ, bên trái với động mạch chủ, cùng đi song song với niệu quản
xuống hố chậu có tĩnh mạch sinh dục .
+ Đoạn chậu: Dài 03 - 04 cm, bắt đầu khi đi qua cánh xương cùng tới
eo trên của xương chậu, liên quan với động mạch chậu: Bên trái niệu quản bắt
chéo động mạch chậu gốc trên chỗ phân nhánh 1,5 cm, bên phải niệu quản
bắt chéo động mạch chậu ngoài dưới chỗ phân nhánh 1,5 cm, cả hai niệu quản
đều cách đường giữa 4,5 cm tại nơi bắt chéo động mạch. Tại chỗ vắt qua động
mạch niệu quản thường bị hẹp, là điều kiện thuận lợi cho sỏi dừng lại gây
bệnh sỏi niệu quản.
+ Đoạn chậu hông: Dài 12 - 14 cm, niệu quản chạy từ eo trên xương
chậu tới bàng quang, đoạn này niệu quản đi cạnh động mạch chậu trong chạy
chếch ra ngoài và ra sau theo đuờng cong của thành bên xương chậu. Tới nền
chậu hông chỗ gai ngồi thì vòng ra trước và vào trong để tới bàng quang, liên
quan của niệu quản phía sau với khớp cùng chậu, cơ bịt trong, bó mạch thần
kinh bịt bắt chéo phía sau niệu quản, phía trước liên quan khác nhau giữa nam

và nữ.
- Nữ giới: niệu quản khi rời thành chậu hông đi vào đáy của dây chằng
rộng tới mặt bên của âm đạo rồi đổ ra trước âm đạo và sau bàng quang. Khi
qua phần giữa dây chằng rộng niệu quản bắt chéo sau động mạch tử cung.
- Nam giới: niệu quản chạy phía trước trực tràng, lách giữa bàng quang
và túi tinh, bắt chéo ống tinh ở phía sau .
6
+ Đoạn bàng quang: Dài từ 1 - 1,5 cm, niệu quản đi vào bàng quang
theo hướng chếch từ trên xuống dưới vào trong và ra trước. Niệu quản trước
khi đổ vào bàng quang đã chạy trong thành bàng quang một đoạn, tạo thành
một van sinh lý có tác dụng tránh trào ngược nước tiểu từ bàng quang lên niệu
quản. Hai lỗ niệu quản cách nhau 2,5 cm khi bàng quang rỗng và 5 cm khi
bàng quang đầy .
Trên lâm sàng, dựa trên phim chụp X-Quang, chia niệu quản ra thành 3
đoạn .
- Niệu quản đoạn trên (upper ureter): Từ khúc nối bể thận - niệu quản
đến bờ trên của xương cùng.
- Niệu quản đoạn giữa (middle ureter): Từ bờ trên xương cùng chạy
xuống bờ dưới xương cùng.
- Niệu quản đoạn dưới (lower ureter): Chạy từ bờ dưới xương cùng
xuống bàng quang.
Hình 1.4. Phân chia niệu quản.
I: Niệu quản đoạn 1/3 trên; II: Niệu quản 1/3 giữa; III: Niệu quản 1/3
dưới; UO( Ureteral orifice): Vị trí lỗ niệu quản
Mũi tên đậm chỉ động, tĩnh mạch chậu chung .
7
• Hệ thống mạch máu và thần kinh của niệu quản
Hình 1.5. Mạch máu nuôi niệu quản và bàng quang .
- Mạch máu cung cấp cho niệu quản từ nhiều nguồn: Nhánh từ động
mạch thận cấp máu cho 1/3 trên niệu quản và bể thận. Các nhánh nhỏ từ động

mạch chủ bụng, động mạch mạch treo tràng dưới, động mạch chậu trong,
động mạch sinh dục cấp máu cho 1/3 giữa niệu quản. Nhánh từ động mạch
bàng quang, động mạch chậu trong cấp máu cho 1/3 dưới niệu quản. Các mạch
máu này tiếp nối với nhau thành một lưới mạch phong phú quanh niệu quản.
- Các tĩnh mạch nhận máu từ các nhánh tĩnh mạch niệu quản đổ về tĩnh
mạch bàng quang, tĩnh mạch thận ở trên.
- Hệ thần kinh chi phối niệu quản là hệ giao cảm và phân bố theo động
mạch. Chúng có nguồn gốc từ đám rối thận, đám rối tinh và đám rối hạ vị,
gồm sợi vận động chi phối cho cơ trơn thành niệu quản, và các sợi cảm giác
mang cảm giác đau khi có sự căng đột ngột thành niệu quản .
8
1.1.2. Giải phẫu niệu quản và ứng dụng lâm sàng trong nội soi niệu
quản ngược dòng.
Khi tìm một viên sỏi niệu quản trên phim chụp hệ tiết niệu thường
người đọc hình dung ra đường đi của niệu quản liên quan với cột sống. Niệu
quản nằm dọc theo cạnh bên cột sống, bắt chéo trước khớp cùng chậu, vòng
ra ngoài rồi sau đó đi vào bàng quang. Một hình cản quang nằm trên đường đi
này có thể nghi ngờ là sỏi niệu quản. Chẩn đoán xác định sỏi niệu quản phải
kết hợp với các phương tiện chẩn đoán hình ảnh cần thiết khác như siêu âm,
chụp niệu đồ tĩnh mạch.
Nhận biết niệu quản trong khi mổ dựa vào các mốc giải phẫu: niệu
quản nằm áp sát phía trước cơ thắt lưng chậu, tĩnh mạch sinh dục, nhu động
của niệu quản và mạng lưới mạch máu quanh niệu quản. Trong khi soi bàng
quang thường thấy lỗ niệu quản hình bầu dục, nhỏ như hạt đậu. Hai lỗ niệu
quản tạo với cổ bàng quang thành một tam giác cân, cách nhau 2,5cm ( khi
bàng quang rỗng) và 5cm khi bàng quang đầy. Vì vậy muốn tìm lỗ niệu quản
trong khi soi được thuận lợi, không nên để bàng quang quá căng làm cho 2 lỗ
niệu quản cách xa nhau và bị đẩy lên cao làm cho quá trình tìm và đặt ống soi
vào lỗ niệu quản khó khăn.
Niệu quản bình thường có đường kính trong tương đối đồng đều và dễ

dàng giãn nở. Niệu quản có 3 chỗ hẹp tự nhiên có thể nhận thấy trong nội soi
là: chỗ nối niệu quản bể thận, đoạn niệu quản chậu bắt chéo động mạch và
niệu quản đổ vào bàng quang. Mức độ hẹp tùy vào từng bệnh nhân khác nhau,
thông thường không ảnh hưởng đến nội soi. Tuy nhiên một số trường hợp hẹp
nhiều không đặt được ống soi niệu quản nếu không tiến hành nong niệu quản.
Đường kính lòng niệu quản nơi nối tiếp bể thận niệu quản trung bình 2mm,
chỗ niệu quản bắt chéo động mạch chậu 4cm, chỗ nối tiếp niệu quản bàng
9
quang, lỗ niệu quản 3- 4mm. Đây chính là giải phẫu của niệu quản ứng dụng
trong nội soi đó là liên quan chặt chẽ đến tư thế đặt máy nội soi niệu quản
ngược dòng. Các đoạn khác của niệu quản có đường kính từ 5- 6mm . Sỏi
niệu quản đoạn bắt chéo động mạch chậu có thể nhìn thấy rõ niệu quản nẩy
theo nhịp đập của động mạch. Tại vị trí này khi tán sỏi đề phòng tai biến
thủng niệu quản có thể gây nên tổn thương động mạch. Trong quá trình soi
niệu quản phải tôn trọng sự mềm mại của niệu quản. Chỉ cần đẩy dây hướng
dẫn vào thành niệu quản đoạn gấp khúc cũng có thể làm thủng niêm mạc niệu
quản. Khi đưa ống soi nếu trong lòng niệu quản không đủ rộng có thể gây trợt
niêm mạc niệu quản tạo thành một nếp gờ làm cản trở quá trình soi, nếu tiếp
tục đẩy máy lên sẽ bong niêm mạc niệu quản khỏi lớp dưới niêm mạc, gây
nên thiếu máu nuôi dưỡng và hậu quả là chảy máu và có thể làm hẹp niệu
quản sau này .
Đường uốn cong và sự di động của niệu quản: nếu nhìn từ trong niệu
quản qua ống soi thì thấy đường đi của niệu quản từ bàng quang lên bể thận
phải thay đổi hướng nhiều lần, làm cho người ta nghĩ khó có thể đưa được
ống soi cứng lên niệu quản. Tuy nhiên, nhiều tác giả đã chứng minh được
rằng có thể đưa được ống soi cứng vào trong niệu quản- bể thận ( Young-
1912, Goodman- 1977, Lyon- 1978, Perez- Castro- 1980). Ống soi sau khi đi
qua lỗ niệu quản phải hướng về phía sau đi sát thành bên khung chậu, rồi
hướng ra trước khi vượt qua động mạch chậu, tiếp tục hướng ra trước để vượt
qua cơ đái chậu và hướng về phía sau khi lên bể thận. Sự ra đời của ống soi

niệu quản mềm (Marshall- 1964) giúp cho đặt ống soi lên niệu quản nhẹ
nhàng hơn .
Ở nam giới niệu đạo dài, vì vậy khi đưa ống soi lên đoạn niệu quản trên
khó khăn hơn nữ giới, đặc biệt là trong trường hợp sau khi gây tê tủy sống
bệnh nhân bị cương dương vật. Đối với bệnh nhân bị phì đại tuyến tiền liệt,
10
thùy giữa to cũng gây khó khăn khi đặt ống soi trong niệu quản. Để đặt được
ống soi vào niệu quản thuận lợi hơn có khi phải để bệnh nhân ở tư thế khác
nhau: tư thế sản khoa nhưng một chân co một chân duỗi…
Các biến đổi giải phẫu so với bình thường làm ảnh hưởng đến kết quả
soi niệu quản, những bệnh nhân dị dạng niệu quản như niệu quản đôi thường
có hẹp lòng niệu quản và cấu trúc bị yếu tại vị trí chia tách. Niệu quản đổ vào
bàng quang lệch vị trí như có thể đổ gần ụ núi…Những biến đổi giải phẫu
trên bệnh nhân sau mổ ( mổ sỏi niệu quản, mổ cắt tử cung, mổ bóc u tuyến
tiền liệt…) làm co kéo niệu quản, gấp góc niệu quản .Các trường hợp khác
cũng có thể gây khó khăn khi soi niệu quản do niệu quản bị chèn ép: đang
mang thai, u nang buồng trứng, u xơ tử cung…
1.2. Cơ chế bệnh sinh hình thành sỏi tiết niệu
1.2.1. Nguyên nhân
Dựa theo nguyên nhân hình thành sỏi, một số tác giả như Guyon,
Hamburger, Coivelair khi nghiên cứu về nguyên nhân hình thành sỏi đã chia
sỏi tiết niệu làm 2 loại
+ Sỏi cơ thể: là những sỏi tiết niệu được sinh ra có nguồn gốc từ bệnh
toàn thân, các rối loạn chức năng các cơ quan khác gây ra sỏi tiết niệu. Sỏi
thuộc loại này gặp trong các trường hợp: Bệnh cường tuyến cận giáp hay
tuyến giáp gây tăng canxi máu, bệnh goutte, chấn thương nặng của xương,
bệnh tăng canxi máu
+ Sỏi cơ quan: dùng chỉ sỏi tiết niệu có nguồn gốc từ các tổn thương ở
ngay các bộ phận trên hệ thống tiết niệu, dẫn đến ứ nước, nhiễm khuẩn và gây
sỏi. Ví dụ: Bệnh lí hẹp khúc nối bể thận- niệu quản, túi thừa bàng quang, túi

thừa niệu quản
11
Một số tác giả không tán thành cách chia này , vì các dị tật đường niệu
hay rối loạn chuyển hóa chỉ là những điều kiện thuận lợi để hình thành sỏi.
Do vậy, sỏi cơ thể hay sỏi cơ quan chỉ là một.
1.2.2. Thuyết hình thành sỏi tiết niệu
Cơ chế hình thành sỏi tiết niệu nói chung còn là vấn đề chưa được xác
định rõ ràng, một số giả thuyết được đưa ra: Thuyết “Keo-tinh thể’’ hay còn
gọi là thuyết keo che chở của Butt (1952). Theo giả thuyết này, tất cả các loại
dịch trong cơ thể như dịch mật, dịch tụy, nước bọt và nước tiểu đều bao gồm
hai thành phần chính là các tinh thể và chất keo( hay còn gọi là chất keo che
chở). Các tinh thể bao gồm Acid Uric, Acid oxalic, Canxi, Cystin, Xanthin
các tinh thể này luôn có xu hướng lắng đọng và kết tụ với nhau tạo sỏi. Bình
thường các tinh thể này không lắng đọng tạo sỏi được do lưu tốc dòng nước
tiểu, các chất keo che chở luôn chuyển động va chạm và làm cho các tinh thể
cũng chuyển động theo, nếu vì một lý do nào đó, các chất keo che chở giảm đi
về số lượng hay chất lượng (trọng lượng phân tử giảm đi, chuyển động giảm),
thì các tinh thể không bị va chạm có điều kiện lắng đọng tạo sỏi.
Ngoài ra sự hình thành sỏi còn được giải thích bởi thuyết “Hạt nhân”,
thuyết nhiễm khuẩn, giả thuyết Randall (1973), thuyết tác dụng của
Mucoprotein hay thuyết “Khuôn đúc”. Tuy nhiên mỗi thuyết chỉ giải thích
được một khía cạnh nhỏ của qua trình hình thành sỏi phức tạp và đang còn
được tiếp tục nghiên cứu.
1.2.3. Thành phần hoá học của sỏi
Thành phần tinh thể tạo sỏi gồm có 5 loại
+ Calcium oxalate: Hay gặp nhất, chiếm 60-90% các loại sỏi, màu vàng
hoặc đen, sỏi cản quang, bề mặt xù xì và nhiều gai, sỏi rất rắn.
+ Calcium phosphate: Dưới dạng Brushite hayApatite, màu trắng, có
nhiều lớp cản quang, kích thước lớn, dễ vỡ khi tán.
12

+ Struvite: Magnesium ammonium phosphate chiếm 5 – 15% các loại
sỏi, phát triển nhanh thành sỏi to, sỏi san hô, màu trắng ngà. Sỏi do nhiễm vi
khuẩn gram âm, nên nhu mô thận bị phá huỷ nhanh chóng và điều trị gặp
nhiều khó khăn.
+ Acid uric: Gồm Amoni urat và Natri monohydrat, loại này gặp 1 –
20%, màu nâu, không cản quang, hay gặp ở nam giới, hay kết hợp với sỏi
Calcium oxalate, rất cứng.
+ Cystine: Chiếm 1-2 %, màu trắng ngà, thành phần hầu như chỉ có
Cystine, đôi khi kết hợp với sỏi Calcium phosphate, thường gặp ở người trẻ,
sỏi cứng, ít gặp ở Việt Nam.
Trên thực tế, các thành phần này thường phối hợp với nhau để cấu tạo
thành sỏi hỗn hợp. Dựa vào mức độ cản quang sỏi trên phim, màu sắc sỏi có
thể tiên lượng được mức độ rắn của sỏi .
1.2.4. Các yếu tố nguy cơ sỏi tiết niệu
• Yếu tố nội sinh
- Tuổi và giới: Tỷ lệ mắc sỏi cao nhất gặp ở lứa tuổi từ 20 – 50 tuổi, tuy
nhiên, ở hầu hết các bệnh nhân bằng chứng khởi phát sỏi từ tuổi thanh thiếu
niên (13 – 19 tuổi). Tỷ lệ Nam/Nữ là 3/1, Finlayson (1974) cho rằng nồng độ
hooc môn giới tính có ảnh hưởng đến sự hình thành một số loại sỏi
- Chủng tộc: Sỏi tiết niệu không phổ biến ở thổ dân châu Mỹ, người da
đen, trong khi bệnh khá phổ biến ở người Capcase, người châu Á .
- Di truyền: Yếu tố di truyền trong phạm vi gia đình theo kiểu đa gen
đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên các tập quán ăn uống trong gia
đình cũng có vai trò quan trọng.
- Các dị dạng bẩm sinh: Các dị dạng như hẹp chỗ nối niệu quản bể
thận, phình to niệu quản, niệu quản đôi…là điều kiện thuận lợi tạo sỏi, do ứ
đọng nước tiểu và nhiễm khuẩn.
13
Ngoài ra còn có một số yếu tố nguy cơ nội sinh khác tạo điều kiện hình
thành sỏi niệu như béo phì, cao huyết áp, cường tuyến cận giáp

• Yếu tố ngoại sinh
- Chế độ ăn, uống: Ở người trưởng thành uống nước ít hơn (< 1200ml/
ngày) là tăng nguy cơ hình thành sỏi, uống nhiều nước làm loãng nước tiểu có
thể làm thay đổi hoạt động ion giúp cho ngăn cản sự hình thành sỏi. Ăn một số
thức ăn mà nước tiểu bài tiết ra nhiều các chất tạo sỏi như: Purine (acid uric),
oxalate, hoặc calcium, phosphate…
- Nghề nghiệp: Sỏi niệu thường gặp ở những nghề nghiệp thường phải
ngồi nhiều, nghề hành chính. Những người làm việc trong môi trường nhiệt
độ cao cũng có nguy cơ bị sỏi niệu.
- Địa lý, khí hậu: Mối liên quan giữa những yếu tố địa dư lý, khí hậu
với nguy cơ mắc bệnh sỏi tiết niệu rất phức tạp, trong khi sỏi thận phổ biến ở
những vùng có khí hậu nóng thì một số nhóm cư dân lại có tỷ lệ mắc thấp
( người da đen, thổ dân châu phi), cũng như cư dân ở nhiều vùng ôn đới lại có
tỷ lệ mắc cao, điều đó có liên quan đến chế độ ăn quá dư thừa mà không cân
đối, ít vận động, uống ít nước của người phương tây. Khí hậu nóng ẩm theo
mùa làm tăng tỷ lệ bệnh sỏi tiết niệu do hiện tượng mất nước nhiều .
1.3. Biến đổi giải phẫu và sinh lí đường tiết niệu trên do sỏi niệu
quản
Khi sỏi mắc tại một vị trí nào của đường tiết niệu, gây nên các thương
tổn niêm mạc đường tiết niệu do cọ sát, gây cản trở lưu thông dòng nước tiểu,
dẫn đến ứ đọng phía trên hòn sỏi, xơ hóa thành niệu quản. Sự ứ đọng của nước
tiểu lâu ngày dẫn đến các biến chứng khác và dần dần phá hủy thận bên có sỏi.
1.3.1. Giai đoạn còn bù
Niêm mạc phù nề, thành niệu quản dày lên, niệu quản tăng nhu động để
tống nước tiểu qua chỗ bế tắc. Nếu tắc nghẽn lâu ngày niệu quản sẽ dài ra
14
thêm, bị xoắn vặn và các dải mô xơ phát triển trong thành niệu quản, chính
các dải mô xơ này sẽ gây tình trạng tắc nghẽn thứ phát ở niệu quản.
1.3.2. Giai đoạn mất bù
Áp lực phía trên niệu quản ngày càng tăng, thành niệu quản ngày càng

mỏng và lớp cơ không còn khả năng co bóp tạo nhu động, gây nên hiện tượng
ứ nước tiểu. Giai đoạn này có sự thay đổi ở thận và niệu quản.
Thay đổi ở thận: Thận ứ nước kéo dài dẫn đến tình trạnh nhu mô bị teo
mỏng, nếu phối hợp với nhiễm trùng. Gây ứ mủ, nhu mô thận sẽ bị phá hủy
dần đến hết
Thay đổi ở niệu quản: Sỏi cố định lâu ngày trong niệu quản sẽ bám
dính vào niêm mạc và không di chuyển được. Khi đó niệu quản bị xơ hóa và
có khả năng bị hẹp sau khi giải quyết lấy sỏi
1.3.3. Các biến chứng sỏi niệu quản
Sỏi niệu quản làm cản trở lưu thông, ứ đọng nước tiểu, dễ gây biến
chứng trong đó có những biến chứng dẫn đến tử vong nếu không được xử trí
kịp thời.
• Viêm đài bể thận, viêm thận kẽ
Sỏi nằm ở niệu quản lâu gây ứ tắc nước tiểu bên trên sỏi, dẫn đến viêm
thận bể thận.
Viêm đài bể thận cấp với các triệu chứng đau, sốt rầm rộ, toàn thân
mệt mỏi, đôi khi lượng nước tiểu trong ngày giảm đáng kể. Viêm đài bể thận
mạn, thể trạng chung suy sụp, đau âm ỉ vùng thắt lưng, tỷ trọng nước tiểu
giảm nhiều.
• Ứ nước, ứ mủ thận
Sỏi niệu quản để lâu chít hẹp niệu quản đây là một quá trình viêm xơ
niêm mạc, dưới niêm mạc và cơ thành niệu quản gây ứ đọng nước tiểu bên
trên sỏi, thận giãn to. Dương Văn Trung (2000) nghiên cứu trên 1519 bệnh
15
nhân sỏi niệu quản thấy 44,70% thận ứ nước độ III . Nguyễn Phúc Cẩm
Hoàng (2006) nhận xét có khoảng 30,9% thận ứ nước nặng trong 110 bệnh
nhân có sỏi niệu quản.
• Vô niệu và thiểu niệu
Sỏi niệu quản gây tắc kết hợp với viêm nhiễm làm ảnh hưởng nhanh
chóng đến chức năng thận. Vô niệu thường gặp khi sỏi niệu quản trên bệnh

nhân thận đơn độc, sỏi niệu quản hai bên, hoặc sỏi niệu quản khi thận bên kia
bệnh lý. Đây là biến chứng nặng, khi nước tiểu < 400ml/24 giờ (thiểu niệu),
hoặc < 100ml /24 giờ (vô niệu).
• Suy thận cấp và mạn
Đây là biến chứng nặng của sỏi niệu quản mà không được giải phóng
niệu quản kịp thời. Sỏi có thể gây tắc niệu quản hoàn toàn cấp tính, ứ đọng
nước tiểu ở thận, trong một số trường hợp gây phản xạ ngừng bài tiết của
thận. Nhiễm khuẩn tác động đến tính chất bệnh lý của sỏi niệu quản làm tăng
nguy cơ suy thận cấp và mạn. Tuỳ theo mức độ nặng nhẹ mà mức độ hồi phục
của thận khác nhau .
Nhìn chung các nghiên cứu đều cho thấy sỏi niệu quản đều gây tổn
thương thận và niệu quản. Bởi vậy cần can thiệp sớm nhằm tránh các biến
cứng nặng nề do sỏi niệu quản gây ra.
1.4. Chẩn đoán sỏi niệu quản
1.4.1. Triệu chứng lâm sàng
• Triệu chứng cơ năng
- Cơn đau quặn thận (điển hình): Đây là cơn đau kịch phát, xuất hiện
đột ngột sau khi bệnh nhân làm các động tác cố gắng hoặc lao động nặng
(gánh vác, chạy nhảy ). Đau dữ dội như nghiền nát phủ tạng, đau nhất là ở
vùng thắt lưng, lan dọc xuống dưới kết thúc ở bộ phận sinh dục ngoài hay mặt
16
trong đùi. Bệnh nhân không thể nằm yên trên giường được. Ấn vào vùng thắt
lưng gây đau dữ dội (phản ứng cơ thắt lưng).
Kèm theo có thể nôn, bụng chướng, bí trung đại tiện, tiểu rắt buốt, tiểu
máu toàn bãi. Cơn đau kéo dài vài chục phút, thậm chí vài ngày .
- Đau quặn thận không điển hình: Đau âm ỉ vùng thắt lưng, tăng lên khi
lao động nặng hoặc đấm nhẹ vào vùng thắt lưng. Đau không có hướng lan .
- Rối loạn tiểu tiện (đái rắt, đái buốt): Gặp trong trường hợp sỏi niệu
quản nằm sát thành bàng quang, kích thích bàng quang gây nên các triệu
chứng như viêm bàng quang.

- Đái máu: Là loại đái máu toàn bãi. Nước tiểu đỏ hồng, đỏ tươi, có khi
có máu cục. Đái máu xảy ra sau khi lao động nặng, di chuyển xa trên đường
xóc, kèm theo có đau quặn thận.
- Đái đục: Nước tiểu từ vẩn đục tới đục như nước vo gạo, mùi thối do
có biến chứng nhiễm khuẩn tiết niệu.
- Vô niệu: Lượng nước tiểu < 150ml/24 giờ. Đây là một biến chứng
nguy hiểm của sỏi niệu quản hai bên hoặc một số sỏi thận hai bên.
• Triệu chứng thực thể
Chỉ khi sỏi đã gây biến chứng.
Thận to, đau ít do ứ nước.
Thận to, đau, rung thận (+) do bị ứ nước nhiễm trùng hoặc ứ mủ.
• Triệu chứng toàn thân
Sỏi thận-niệu quản gây biến chứng suy thận mạn, có thể khám thấy các
triệu chứng của tình trạng tăng urê máu cao mạn tính.
Thiếu máu.
Gầy sút.
Nhức đầu, mất ngủ, ăn uống kém.
- Ít thay đổi khi có sỏi niệu quản một bên.
17
- Sốt khi sỏi gây tắc niệu quản và có nhiễm khuẩn đường niệu.
- Sỏi niệu quản hai bên hoặc sỏi thận một bên và sỏi niệu quản một bên
thì gây ảnh hưởng toàn thân nhanh chóng và gây hội chứng ure máu cao,
thiểu niệu, vô niệu
1.4.2. Cận lâm sàng
* Chụp phim hệ tiết niệu không chuẩn bị: Cỡ phim 30x40cm lấy chính
giữa từ xương xườn 11 đến bờ dưới khớp mu. Có thể phát hiện được 90% sỏi
tiết niệu, sỏi niệu quản. Ngoài ra còn phát hiện được các di dạng cột sống kèm theo.
Hình 1.6. Sỏi niệu quản trái 1/3 dưới.
* Chụp niệu đồ tĩnh mạch (UIV)
Đánh giá chức năng bài tiết và bài xuất của thận

Xác định vị trí của sỏi trên đường tiết niệu, kể cả sỏi không cản quang
Đánh giá hình dáng của đài bể thận và của cả hệ tiết niệu
Đánh giá sự lưu thông của thận- niệu quản và cả hệ tiết niệu
* Chụp niệu quản bể thận ngược dòng
Phát hiện vị trí sỏi, sự lưu thông của niệu quản, các biến đổi giải phẫu
của niệu quản, phân biệt các trường hợp vôi hóa hạch hoặc tĩnh mạch với sỏi
niệu quản.
* Siêu âm hệ tiết niệu: Siêu âm chẩn đoán các bệnh tiết niệu rất có giá
trị sau chụp X quang. Siêu âm không chỉ đánh giá được tình trạng ứ nước của
18
thận mà còn có thể phát hiện được tất cả các viên sỏi trong đường tiết niệu
trên với điều kiện kích thước sỏi lớn hơn 5mm, bất kể thành phần của sỏi.Độ
nhạy phát hiện sỏi của siêu âm từ 37 đến 64%.
* Chụp cắt lớp vi tính và MSCT: Là phương tiện tốt trong chẩn đoán
sỏi niệu quản, đặc biệt sỏi niệu quản nhỏ, sỏi không cản quang, hoặc các
trường hợp suy thận có creatinin máu tăng không chụp được UIV thì chỉ định
chụp cắt lớp vi tính không tiêm thuốc cản quang.
* Các xét nghiệm máu, sinh hóa, nước tiểu: Đánh giá mức độ thiếu
máu, chức năng thận, tình trạng nhiễm khuẩn tiết niệu kèm theo
Nhìn chung chẩn đoán sỏi niệu quản chủ yếu dựa vào siêu âm và chụp
X quang hệ tiết niệu và chụp niệu đồ tĩnh mạch .
Hình 1.7. Ba vị trí hay gặp của sỏi niệu quản .
1.5. Các phương pháp điều trị sỏi niệu quản
1.5.1. Điều trị nội khoa
Điều trị nội khoa thường được chỉ định khi sỏi niệu quản có kích thước
nhỏ < 5 mm, thận không bị ứ nước, hoặc ứ nước nhẹ, cơn đau quặn thận đáp
ứng với thuốc giảm đau.
19
Điều trị cơn đau quặn thận: Điều trị bằng các thuốc giảm đau, chống
co thắt, giãn cơ trơn, chống phù nề. Nếu kèm theo sốt, cần phối hợp giữa

thuốc giảm đau với kháng sinh.
Uống nhiều nước: Từ 2 - 3 lít nước/ ngày, nếu không uống được phải
phối hợp truyền dịch với giảm đau và giãn cơ.
Điều trị nội khoa dựa vào thành phần hóa học của sỏi để dùng thuốc và
hướng dẫn chế độ ăn uống .
1.5.2. Phẫu thuật mở lấy sỏi
Phẫu thuật mở lấy sỏi niệu quản là một phẫu thuật khó do sỏi nằm
trong tiểu khung, sau phúc mạc và có các thành phần liên quan chặt chẽ xung
quanh như bó mạch chậu, trực tràng, bàng quang, tử cung, âm đạo…
Chỉ định: Cho các trường hợp sỏi to trên 1cm, cứng hoặc đã áp dụng
các phương pháp tán sỏi khác thất bại hoặc kèm theo các dị dạng bẩm sinh
đường tiết niệu như niệu quản đôi, giãn niệu quản.
Chỉ định phẫu thuật sỏi niệu quản ngày càng ít đi. Hiện nay dần thay
thế bằng các phương pháp điều trị ít xâm lấn .
1.5.3. Tán sỏi ngoài cơ thể
Tán sỏi ngoài cơ thể là một phương pháp ít gây sang chấn, dựa trên
nguyên lý sóng tập trung vào vào một tiêu điểm (sỏi niệu quản) với một áp
lực cao làm vỡ sỏi thành cách mảnh nhỏ sau đó bài tiết ra ngoài.
* Chỉ định
+ Kích thước sỏi từ 5 - 10mm.
+ Số lượng sỏi nhỏ hơn 2 viên ở một bên niệu quản và phải ở hai vị trí
khác nhau.
+ Chức năng thận còn tốt
+ Thuốc cản quang qua viên sỏi xuống được bàng quang
+ Không có nhiễm khuẩn tiết niệu.
20
+ Sỏi có độ cản quang phát hiện trên phim.
* Chống chỉ định
+ Sỏi có đường kính quá lớn.
+ Sỏi quá rắn như sỏi cystin hoặc sỏi quá mềm.

+ Sỏi nhiễm khuẩn hoặc nhiễm khuẩn tiết niệu.
+ Bệnh nhân nữ mang thai.
+ Những bệnh nhân mắc các bệnh đang tiến triển như suy gan, suy
thận, các bệnh tim mạch, tiểu đường, rối loạn đông máu.
+ Bệnh nhân có thành lưng quá dày như quá béo, gù vẹo.
* Biến chứng
Có thể gặp là cơn đau quặn thận và tắc nghẽn đường tiết niệu do sỏi di
chuyển sau tán sỏi
1.5.4. Tình hình tán sỏi niệu quản qua nội soi trên thế giới
• Lịch sử phẫu thuật nội soi tán sỏi niệu quản .
- Năm 1912, Hugh H. Young là người đầu tiên soi niệu quản bằng ống
soi bàng quang cứng cỡ 9,5F cho một bệnh nhi bị giãn niệu quản bẩm sinh.
Năm 1960 hệ thống ống soi của Hopkin đã phát triển, có khả năng tăng dẫn
truyền ánh sáng, ống soi cứng và mềm có kích thước nhỏ giúp dễ dàng đưa
ống soi lên niệu quản đoạn trên Goodman (1977) và Lyon (1978) lập lại ý
tưởng soi niệu quản với ống soi bàng quang cỡ 11F và chủ động nong niệu
quản trước khi soi. Đến năm 1979, Lyon cùng với Richard Wolf lần đầu tiên
đã cho ra đời ống soi niệu quản cứng có chiều dài 23 cm, cỡ 13 đến 16F, dựa
trên mô hình của ống soi bàng quang, cho phép đưa ống soi lên niệu quản cả
nam và nữ. Sau đó năm 1980 phẫu thuật viên niệu khoa Eerique Perez Castro
phối hợp với công ty Karl Storz đã chế ra ống soi cứng dài 40 cm, cỡ 09 -
11F, bắt đầu đánh dấu cho sự ra đời và phát triển của ống soi niệu quản bể
21
thận hiện đại như ngày nay, cho phép soi và đánh giá được đường tiết niệu
trên.
- Tán sỏi nội soi có một vị trí quan trọng trong điều trị sỏi niệu quản,
việc sử dụng máy nội soi ống mềm có đường kính nhỏ giảm tỷ lệ biến chứng và
tăng tỷ lệ thành công.
- Với các dụng cụ tán sỏi và lấy sỏi ít gây sang chấn cho niêm mạc niệu
quản ngày càng được đưa vào sử dụng rộng rãi. Các viên sỏi to hơn và ở cao

hơn có thể được tán dễ dàng. Hơn nữa với việc các nguồn năng lượng khác
nhau lần lượt ra đời, bổ xung cho nhau làm cho phương pháp tán sỏi nội soi
ngày càng hoàn thiện và phổ biến trong điều trị sỏi niệu quản.
Một số năng lượng dùng trong tán sỏi nội soi niệu quản gồm có thủy
điện lực, siêu âm, laser, xung hơi. Tán sỏi nội soi sỏi niệu quản bằng thủy
điện lực với một lực tương đương 120V, tạo ra một quả cầu trên viên sỏi, quả
cầu này xẹp lại sinh ra một sóng chấn động làm vỡ viên sỏi, khi tán sỏi cần
chú ý tránh cho đầu tán sỏi chạm vào niêm mạc .
Tán sỏi nội soi bằng siêu âm có xảy ra quá trình biến đổi năng lượng
điện thành sóng siêu âm với tần số 25000 Hz. Cần tán sỏi hoạt động và rung
với tần số cao, năng lượng sinh ra có hiệu quả tán sỏi.
Tán sỏi nội soi bằng xung hơi, đầu cần tán nối trực tiếp với bộ phận
điều khiển có chứa viên bi nhỏ bằng kim loại, khi máy hoạt động, khí nén đẩy
viên bi đập vào đầu cần tán với áp lực bằng 3 atmosphere và tần số 12Hz, va
chạm này sinh ra năng lượng, cho đến khi năng lượng này vượt quá sức căng
bề mặt viên sỏi làm viên sỏi vỡ .
Mục đích của tán sỏi nội soi là tạo ra các mảnh sỏi vụn có kích thước
dưới 2mm vì với kích thước lớn hơn 4mm, sỏi khó có khả năng tự ra ngoài và có
tỷ lệ khá cao phải tán sỏi nội soi lần hai, cho nên phải gắp ra bằng rọ .
22
Đặt thông niệu quản sau tán sỏi nội soi: Sau khi rút máy soi vẫn để dây
dẫn đường lại trong niệu quản, và xem xét đặt thông niệu quản. Sau khi đặt
thông niệu quản rút dây dẫn đường ra ngoài và đặt thông bàng quang.
• Chỉ định, chống chỉ định .
* Chỉ định tán sỏi nội soi sỏi niệu quản
- Vị trí: Nhờ thiết bị nội soi phát triển, ống nội soi cứng, bán cứng và
nguồn năng lượng phong phú ,cũng như kinh nghiệm của các phẫu thuật viên
được nâng lên. Tán sỏi niệu quản nội soi được mở rộng lên niệu quản đoạn
lưng, sử dụng ống soi mềm tán sỏi nội soi có thể lên cực dưới thận.
- Về kích thước sỏi: Theo hội tiết niệu Mỹ ( 2007) , đối với sỏi niệu

quản đoạn trên kích thước <10 mm, tán sỏi nội soi ngược dòng là lựa chọn
thứ 2 sau tán sỏi ngoài cơ thể. Nếu sỏi >10mm có thể lựa chọn tất cả các
phương pháp điều trị ít xâm lấn trong đó có nội soi tán sỏi ngược dòng.
Do đó, nội soi ngược dòng có thể chỉ định cho sỏi < 1,5cm. Tuy nhiên
sỏi niệu quản đoạn dưới có thể chỉ định kích thước lớn hơn đoạn trên .Sỏi có
kích thước lớn tán sỏi nội soi hiệu quả thấp hơn.
- Sỏi hai bên và suy thận
Tán sỏi nội soi với bệnh nhân sỏi niệu quản hai bên, suy thận là giải
pháp can thiệp ít xâm lấn và hiệu quả cho bệnh nhân . Sau tán phải đặt sonde
JJ nhằm dẫn lưu thận, điều trị suy thận.
Tuy nhiên có thể phải chạy thận nhân tạo trước khi tán sỏi để đảm bảo
an toàn cho bệnh nhân, lấy hết sỏi và đặt thông JJ sau khi tán giúp cho niệu
quản lưu thông tốt.
- Chức năng thận
Nên chỉ định cho trường hợp chức năng thận tốt và trung bình, đây là
điều kiện cho thận có nhiều nước tiểu, đẩy các mảnh vụn sau tán xuống bàng
quang
23
- Các trường hợp khác
Sỏi niệu quản tái phát
Mảnh sỏi sót trên thận rơi xướng niệu quản sau : tán sỏi ngoài cơ thể
,lấy sỏi qua da , phẫu thuật mở.
Sỏi niệu quản sót sau : phẫu thuật mở, lấy sỏi qua nội soi niệu quản.
Bệnh nhân có sỏi thận có các chống chỉ định tương đối của tán sỏi
ngoài cơ thể , bệnh nhân đang đặt máy tạo nhịp hoặc phá rung, béo phì.
Sỏi niệu quản đã điều trị nội khoa thất bại
* Chống chỉ định
- Chống chỉ định tuyệt đối
+ Hẹp niệu đạo không đặt được ống soi niệu quản
+ Bệnh nhân biến dạng khớp háng , cột sống không nằm được tư thế

sản khoa
+ Đang có nhiễm khuẩn niệu chưa được điều trị .
+ Bệnh nhân đang điều trị rối loạn đông máu hoặc đang dùng thuốc
chống đông.
+ Các bệnh dị dạng đường tiết niệu
+ Xoắn vặn niệu quản
+ Các bệnh toàn thân nặng
- Chống chỉ định tương đối
+ U phì đại lành tính tuyến tiền liệt trên 50 gram.
+ Đang có rối loạn đông máu hoặc đang sử dụng thuốc chống đông
+ Các khối u chèn ép đường đi của niệu quản hoặc niệu quản bị xơ
cứng chít hẹp sau chấn thương, xạ trị
+ Sỏi bám dính vào niệu mạc , thuốc cản quang không thể vượt qua sỏi.
Đối với các chống chỉ định tương đối nếu sau điều trị vẫn có khả năng
đặt được máy thì có thể tiến hành thủ thuật nhưng cần cân nhắc thận trọng.
24
*Chỉ định tán sỏi niệu quản cho phụ nữ có thai
Thái độ xử trí sỏi niệu quản có 2 hướng, một là điều trị bảo tồn bằng
thuốc giảm đau, giãn cơ. Ở 3 tháng đầu thai kỳ, bào thai rất nhạy cảm với các
tác nhân có hại như thuốc mê… Các tác giả khuyên cố gắng điều trị bảo tồn
trong 3 tháng đầu và can thiệp vào 6 tháng sau . Nếu điều trị bảo tồn thất bại ,
bệnh nhân đau nhiểu, nhiễm khuẩn, sỏi gây tắc niệu quản 3-4 tuần, thì điều trị
can thiệp phải đặt ra. Lúc này cân nhắc đến tuổi thai, mức độ ảnh hưởng của
sỏi đối với thận và nên sử dụng ống soi mềm để tán sỏi niệu quản.
• Các biến chứng, tai biến của của tán sỏi nội soi
Mặc dù cho đến nay , nội soi và tán sỏi niệu quản đã phát triển nhiều về
kỹ thuật cũng như trang thiết bị, nhưng các tai biến và biến chứng vẫn có thể
xảy ra. Tỉ lệ các tai biến và biến chứng thay đổi tùy theo kinh nghiệm của
phẫu thuật viên từ 2% đến 20%. ( Heney, 1981; Blute,1989; Low 1993).
Các tai biến như thủng niệu quản (4,6%), đứt niệu quản (0,6% - Blute

1988),lạc đường, hẹp niệu quản (1,4%), nhiễm khuẩn tiết niệu và chảy
máu.Thủng niệu quản và lạc đường có thể xảy ra trong khi đặt ống soi và tán
sỏi nội soi. Tai biến này gặp ở những bệnh nhân dính sau kỹ thuật, niệu quản
gấp khúc, có biến đổi giải phẫu. Hẹp niệu quản là hậu quả của tổn thương
niệu quản , thủng niệu quản. Ống soi niệu quản kích thước lớn (> 10F) dễ gây
tổn thương và gây hẹp niệu quản. Sử dụng ống soi có đường kính nhỏ, ống soi
mềm, đặt stent niệu quản, tỷ lệ thủng và hẹp niệu quản được giảm xuống
(1,7% và 0,7%) (Blute 1988; Abdel Razzak & Bagley 1992).
• Tai biến trong tán sỏi
* Tổn thương niêm mạc niệu quản: Khi niêm mạc tổn thương đến lớp
cơ. Biến chứng này xảy ra khi nong niệu quản, đưa máy soi vào lòng niệu
quản hoặc khi gắp các mảnh sỏi nhỏ.
25

×