Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

đề tài ' hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương '

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.97 KB, 8 trang )

Hoạt động tín dụng của Ngân hàng trung ương
Lời mở đầu
Trong điều kiện sản xuất và lưu thông hàng hóa được mở rộng cả về quy mô lẫn
phạm vi, đòi hỏi lưu thông tín dụng cũng phải được mở rộng, đã thức đẩy quá trình
cạnh tranh giữa các ngân hàng về nghiệp vụ phát hành tiền.Ở Việt Nam, trong vài thế
kỷ trước vẫn là một nước nông nghiệp, thương mại kém phát triển, do đó hoạt động
kinh doanh tiền tệ ra đời muộn. Ngân hàng Đông Dương là ngân hàng xuất hiện đầu
tiên ở Việt Nam.
.Ngân hàng trung ương (Central Bank) ở bất cứ quốc gia nào đều là một trong
những cơ quan có vị thế cực kỳ quan trọng, là ngân hàng đứng đầu trong hệ thống
ngân hàng. Đặc điểm nổi bật của ngân hàng trung ương là nó không giao dịch, làm
nghiệp vụ trực tiếp với các nhà kinh doanh và công chúng, khách hàng của nó là tất cả
các ngân hàng khác. Ngân hàng trung ương giữ vai trò là ngân hàng của các ngân
hàng; bảo quản quỹ dự trữ tiền tệ của các ngân hàng; cho các ngân hàng vay vốn khi
cần thiết, thực hiện chính sách tiền tệ tín dụng của nhà nước; cơ quan phát hành tiền tệ
trong nước; thanh toán và tín dụng quốc tế với ngân hàng trung ương các nước khác; là
cơ quan cung cấp tiền cho ngân sách khi cần và làm một số nghiệp vụ của kho bạc nhà
nước.
I. Cơ sở lý thuyết
Nghiệp vụ tín dụng của NHTW được hiểu là hoạt động cho vay của NHTW. Tuy
nhiên khách hàng đi vay của NHTW là những khách hàng đặc biệt , đó là các tổ chức
tín dụng hay chính phủ. Nói cách khác NHTW thực hiện chức năng NH của các NH,
NH của chính phủ.
Khi NHTW cho các tổ chức tín dụng vay , hoạt động này đạt 2 mục đích: phát
hành tiền của NHTW vào lưu thông thông qua các tổ chức tín dụng, điều tiết vốn khả
dụng của các tổ chức tín dụng thông qua điều tiết lượng tiền tệ trong lưu thông.
Khi NHTW tạm ứng cho NSNN theo quyết định của Thủ tướng chính phủ, lúc đó
tiền của NHTW được phát hành vào lưu thông thông qua chỉ tiêu của chính phủ, mặt
khác chính phủ có điều kiện thực hiện nhiệm vụ của mình. Như vậy với hoạt động tín
dụng, NHTW vừa sử dụng như 1 kênh phát hành tiền đồng thời là công cụ để tăng
cường khả năng điều tiết lượng cung tiền, nâng cao hoạt động quản lý của NHTW.


Hoạt động tín dụng của NHTW bao gồm:
1.Tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng
Tái cấp vốn là việc cấp tín dụng của NHTW cho các NHTM và các tổ chức tín dụng
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để các NHTM mở rộng hoạt động cho vay hoặc
khôi phục năng lực thanh toán.
Tái cấp vốn gồm có:
1.1Chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá
a. Khái niệm:
Chiết khấu là việc NHTW mua lại lần đầu các hối phiếu và các chứng từ có giá
ngắn hạn, chưa đáo hạn thanh toán theo yêu cầu của NHTM.
Tái chiết khấu là việc NHTW mua lại những phiếu nợ chưa đến hạn mà NHTM
đã chiết khấu cho khách hàng trước đấy.
b. Đối tượng và điều kiện chiết khấu
- Đối tượng chiết khấu
+ Tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHTM được phát hành thông qua đấu thầu.
+ Hối phiếu – nếu là hối phiếu thì hối phiếu đã được chiết khấu lần đầu.
Trang 1
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng trung ương
+ Các chứng từ có giá ngắn hạn khác.
- Điều kiện chiết khấu
+ Đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ.
+ Đảm bảo khả năng thanh toán khi đáo hạn.
+ Đảm bảo khả năng chuyển nhượng.
+ Thời gian hiệu lưc còn lại không vượt quá thời hạn tối đa do NHTW quy
định.
c. Phương thức chiết khấu :
- Phương thức chiết khấu mua đứt
- Phương thức chiết khấu có kỳ hạn.
d. Phương thức giao dịch
- Phương thức giao dịch trực tiếp

- Phương thức giao dịch gián tiếp:
e. Công thức tính giá trị thanh toán khi chiết khấu
Gck
Gtt =
LSCK*t
1 +
365 * 100
Trong đó:
Gtt: Giá trị thanh toán cho ngân hàng xin chiết khấu
Gck: Tổng giá trị chiết khấu
LSCK: Lãi suất chiết khấu
t: Thời hạn chiết khấu
1.2 Cho vay cầm cố chứng từ có giá
a. Khái niệm :
Là hình thức tái cấp vốn mà NHTM chuyển giao bản gốc các chứng từ có giá
cho NHTW để cầm cố cho khoản vay ngắn hạn.
b. Điều kiện cho vay cầm cố:
- Các NHTM xin cho vay cầm cố phải là ngân hàng đang hoạt động bình
thường ổn định.
- NHTM là người thụ hưởng hợp pháp với các chứng từ xin cầm cố.
- Các chứng từ xin cầm cố phải hợp pháp, đảm bảo khả năng thanh toán.
1.3Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng
a. Khái niệm:
Là hình thức tái cấp vốn của NHTW đối với NHTM trong trường hợp các
NHTM bị thiếu vốn do các khoản tín dụng dã thực hiện với khách hàng chưa
đến hạn thu nợ, nhờ đó các NHTM có thể duy trì hoạt động cho vay một cách
bình thường.
b. Điều kiện cho vay:
- NHTM phải hoạt động bình thường, có uy tín, chất lượng tín dụng tốt, tỷ lệ
nợ xấu không quá quy định.

- Hồ sơ tín dụng xin vay lại là hồ sơ có chất lượng, thể hiện qua khách hàng
vay vốn của NHTM là những khách hàng có uy tín, hoạt động sản xuất kinh
doanh ổn định, hiệu quả.
Trang 2
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng trung ương
c. Mức cho vay và thời hạn cho vay:
- Mức cho vay tối đa không quá 80% tổng dư nợ của các hồ sơ tín dụng xin
vay lại.
- Thời hạn cho vay là khi cho vay theo hình thức này thì nguồn thu nợ của
NHTW chính là nguồn thu nợ của NHTM đối với khách hàng của họ, do đó
thời hạn cho vay phải phù hợp với thời hạn cho vay còn thể hiện trong hồ sơ
tín dụng để đảm bảo cho NHTM trả nợ cho NHTW.
1.4. Cho vay thanh toán
Các hình thức cho vay thanh toán:
* Cho vay thanh toán thường xuyên (Thanh toán bù trừ, cho vay qua đêm)
- Được sử dụng thường xuyên và chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động thanh
toán qua NHTW
- NHTW đề ra quy định chẩn mực liên quan đến thanh toán bù trừ đồng thời
là người tổ chức chủ trì thanh toán
- Để tham gia vào thanh toán bù trừ, các NHTM ngoài các điều kiện về mặt
kĩ thuật cần phải có TK giao dịch tại NHTW.
- Các thành viên tham gia thanh toán bù trừ phải thực hiện nguyeen tắc là
phải thanh toán ngay, sòng phẳng số tền phải thanh toán với ngan hàng chủ
trì thanh toán bù trừ.
- Phương thưcs cho vay thanh toán thường xuyên:
+Phương thức cho vay qua đêm
+Phương thúc cho vay thấu chi
- Những NHTM nào được NHTW cho vay thấu chi, thì TK tiền gởi của
NHTM đó có thể có số dư bên có cũng có thể có số dư bên nợ.
* Cho vay khôi phục năng lực chi trả

Khi NHTM mất khả năng chi trả thực sự túc khi dự trữ sơ cấp tại các NHTM
được sử dụng hết thì các NHTM đó bắt buộc phải thực hiện biện pháp thiết lập cân
bằng cung cấp thanh khoản.
1.5. Cho vay theo đối tượng chỉ định
Các loại cho vay theo đối tượng chỉ định được NHTW thực hiện mà không đòi hỏi
các NHTM phải có đảm bảo, chỉ theo yêu cầu NHTM làm trung chuyển các khoản tín
dụng này đúng đối tượng.
Các đối tượng chỉ định bao gồm:
- Cho vay chỉ định với các chương trình dự án phát triển kinh tế của CP
- Các chương trình khắc phục hậu quả thiên tai, mất mùa,…
Mức lãi suất cho vay thường mang tính chất tượng trưng, thậm chí là bằng 0.
2. Tạm ứng cho NSNN
Tại 1 thời điểm của năm ngân sách, NSNN có thể tạm thời thừa hoặc thiếu vốn
tạm thời. Để đáp ứng cho nhu cầu chi, được sự đồng ý của chính phủ, quốc hội,
NHTW có thể tạm ứng cho Ngân Sách vay để kịp thời thực hiện các khoản chi.Để
đảm bảo cho đồng tiền ổn định, về nguyên tắc, NHTW không được phép phát hành
tiền để bù đắp thâm hụt NS, mà chỉ tạm ứng cho NS có đảm bảo bằng tín phiếu kho
bạc, và phải được hoàn trả trong năm ngân sách
NHTW có thể cung ứng tín dụng cho chính phủ thông qua việc mua trái phiếu
chính phủ như sau:
+ NHTW mua một khối lượng trái phiếu chính phủ theo yêu cầu và phân bổ của
bộ tài chính trong từng đợt phát hành.
Trang 3
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng trung ương
+ NHTW làm đại lý hoặc bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ đồng thời qua
đó tiến hành các nghiệp vụ trên thị trường mở để điều tiết khối lượng tiền cung ứng
theo mục tiêu chính sách tiền tệ.
3. Bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng
BL của NHTW là sự cam kết thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên có quyền là
tổ chức tài chính nuocs ngoài nếu người được bảo lãnh là các NHTM trong nước

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ theo hợp
đồng tín dụng đã kí.
Bên bảo lãnh là NHTW
Bên được bảo lãnh là tổ chức tín dụng vay vốn từ nuocs ngoài được chính phủ
chỉ định (NHTW không bảo lãnh các tổ chức cá nhân vay vốn)
Bên thụ hưởng bảo lãnh các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ các nước,
NHTM nước ngoài, các tập đoàn kinh tế nước ngoài.
Tái bảo lãnh vay vốn là cam kết của bên tái bảo lãnh với bên cho vay về việc trả
nợ tiền vay đầy đủ, đúng hạn của bên bảo lãnh, trường hợp bên đi vay, bên bảo lãnh
không trả đủ nợ khi đến hạn thì bên tái bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trả thay.
II. Cơ sở thực tiễn
Chiều 8/9, Ngân hàng Nhà nước công bố thông tin về tình hình hoạt động của hệ
thống ngân hàng trong tháng 8. Điểm đáng chú ý là số liệu về tăng trưởng tín dụng có
khác biệt lớn so với những con số từ Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia đưa ra trước
đó.
Cụ thể, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho biết, tín dụng đối với nền kinh tế
đến cuối tháng 8/2010 ước tăng 16,27% so với cuối năm 2009. Theo lãnh đạo cơ quan
này, đó là mức tăng trưởng hợp lý và phù hợp với định hướng 25% đặt ra cho năm
nay. Trong khi đó, nguồn tin từ Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia đề cập đến con số
15% sau 8 tháng đầu năm.
Trong tháng 7, con số tăng trưởng tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước công bố ước
tính là 12,97% so với cuối năm 2009.
Mối quan tâm của thị trường hiện nay là tăng trưởng tín dụng cụ thể trong tháng 8,
tín dụng bằng VND và đặc biệt là bằng USD, nhưng Ngân hàng Nhà nước không công
bố chi tiết.
Cũng trong tháng 8, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng
tiếp tục có tốc độ tăng trưởng cao hơn tín dụng; đến cuối tháng 8/2010 ước tăng
17,75% so với cuối năm 2009.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết, tổng phương tiện thanh toán
tháng 8/2010 ước tăng 16,31% so với cuối năm 2009; trong đó, tiền mặt lưu thông

ngoài hệ thống ngân hàng tăng 8,37%.
Theo lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, mức tăng trưởng tín dụng hiện nay là hợp lý,
trong định hướng 25% cho cả năm 2010.
1. Thực trạng tái cấp vốn
Thực tế tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó NHTW sẽ cung ứng tiền vào
nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các NHTG trên cơ sở nhận tái chiết khấu,
tái chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng trung gian.Nếu chính sách của NHTW là
muốn bành trướng khối lượng tiền tệ, thì NHTW sẽ khuyến khích NHTG trong việc đi
vay bằng cách hạ thấp lãi suất tái chiết khấu và những điều kiện tái chiết khấu dễ dàng
hơn, và ngược lại.Ngoài việc gián tiếp làm thay đổi lãi suất, chính sách tái chiết khấu
của NHTW còn có những vấn đề quan trọng khi nó giúp cho NHTG khai thông năng
lực thanh toán, nhờ đó có thể cứu vãn những cơn sụp đổ tài chính_ngân hàng.Cụs thể
Trang 4
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng trung ương
là khi các NHTG bị đê dạo phá sản, NHTW sẽ cấp dự trữ cho các NHTG thông qua tái
chiết khấu ,tái cầm cố các chứng từ có giá từ đó khôi phục khả năng thanh toán của
các NHTG.NHTW khẳng định, việc tái cấp vốn dưới hình thức cho vay có bảo đảm sẽ
được thực hiện kịp thời trên cơ sở đề nghị của NHTG, điều kiện cung cầu vốn thực tế
và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ cơ chế tái cấp vốn hiện hành. Chính từ việc
tái cấp vốn đã làm cho các NHTG có thể tồn tại và phát triển hơn làm cho nền kinh tế
ngày càng vững hơn.
Cụ thể như đầu tháng 7, khoảng 10.000 tỷ đồng đã được dùng tái cấp vốn cho
Vietinbank, giúp ngân hàng này triển khai chương trình ưu đãi xuất khẩu. Khi có tin
chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 chỉ tăng 0,06%, thấp nhất hơn một năm qua, Ước tính số
vốn Ngân hàng Nhà nước cung ứng để các ngân hàng cho vay nông nghiệp nông thôn
sẽ vào khoảng 30.000 tỷ đồng, trong đó khoảng 10.000 tỷ đồng dành cho trung dài
hạn. Như vậy có thể yên tâm dư nợ tín dụng sẽ tăng trưởng tốt. Ngân hàng Nhà nước
tiếp tục cung ứng tiền trung dài hạn cho Agribank để phục vụ khu vực nông thôn.
Ngân hàng Nhà nước bơm khoảng 10.000 tỷ đồng, nhưng thực tế Agribank đã phân bổ
chỉ tiêu về địa phương tới 12.000 tỷ, một số tiền rất quan trọng, có sức lan tỏa nhanh

để kích cầu đầu tư nông thôn. Đây là lần đầu tiên trong gần 10 năm qua, Ngân hàng
Nhà nước hỗ trợ vốn để ngân hàng thương mại cho vay trung dài hạn.
* Hiện thực trạng cho vay tái cấp vốn của NHNN vẫn tồn tại một số hạn chế:
Thứ nhất là tên gọi công cụ “tái cấp vốn” đã gây nhầm lẫn cho nhiều người đọc,
nhất là các nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách nước ngoài thuộc các tổ chức
tài chính quốc tế. Thuật ngữ “tái cấp vốn” được hiểu là NHNN cấp/bổ sung vốn hoạt
động cho các NH, nhất là các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước. Trong khi thực tế, hoạt
động tái cấp vốn của NHNN chỉ hỗ trợ tạm thời sự thiếu hụt về nguồn vốn trong hoạt
động kinh doanh của các NH và quan hệ tái cấp vốn ngày là quan hệ vay trả có thời
hạn. Điều này làm giảm tính minh bạch trong hoạt động tái cấp vốn của NHNN.
Thứ hai là hiệu lực can thiệp của công cụ này đến thị trường tiền tệ chưa cao và
mối liên hệ giữa công cụ tái cấp vốn và tổng phương tiện thanh toán chưa rõ ràng.
Thứ ba là thời gian hoàn thành một đề nghị cho vay cầm cố giấy tờ cấp vốn
(GTCG) của NHNN còn dài. Đối với đề nghị vay vốn của các NH có trụ sở chính tại
Hà Nội thì thời gian thực hiện từ khi nhận đủ hồ sơ đến khi vay vốn thường không quá
2 ngày làm việc, nhưng đối với các NH không có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian
này thường bị kéo dài ra, có khi lên tới 5 ngày làm việc. Đây là một trong những hạn
chế cơ bản của công cụ này, làm giảm tính chất hỗ trợ khẩn cấp của công cụ tái cấp
vốn để bổ sung dự trữ của các NH.
Thứ tư là sự quan tâm và hiểu biết của hệ thống NHTM tới các nghiệp vụ tái
cấp vốn không đồng đều và nhìn chung chưa cao. Các NH thường xuyên tiếp cận vốn
nguồn vốn này với nguồn vốn này chỉ là 4 NHTM Nhà nước có trụ sở tại Hà Nội.
Ngoài ra, các cán bộ nghiệp vụ của các NHTM còn lúng túng. Tuy NHNN đã
ban hành các quy chế về các công cụ tái cấp vốn và quy trình thực hiện khá rõ ràng, dễ
hiểu nhưng các cán bộ này vẫn chưa nắm vững được nội dung cần thiết của bộ hồ sơ
vay vốn, trình tự thực hiện nghiệp vụ.
Tổng hạn mức chiết khấu đã phân bổ cho các NH chỉ đạt 60-80% tổng hạn mức
được phép sử dụng trong quý. Điều này thể hiện sự thiếu quan tâm của các NH đối với
hình thực tái cấp vốn này.
Thứ năm, về cơ bản, không có nhiều khác biệt giữa hình thức chiết khấu có thời

hạn và hình thức cầm cố GTCG có thời hạn. Tuy nhiên lãi suất áp dụng lại khác nhau.
Trang 5
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng trung ương
Mặt khác, hình thức chiết khấu GTCG của NHNN trên thị trường mở. Điều này dẫn
tới sự khác biệt không cần thiết trong việc tiếp cận các công cụ của NHNN.
* Giải pháp cho thực trạng tái cấp vốn hiện nay chính là:
Một, nên gọi tái cấp vốn là công cụ cho vay hỗ trợ vốn của NHTW để đúng với
bản chất và mục tiêu của công cụ này.
Hai, NHNN cần hiện đại hoá hệ thống thông tin, hệ thống vi tính và công nghệ.
Ba, tổ chức đăng ký giao dịch và xử lý, giải quyết các yêu cầu của NHTM qua
hệ thống mạng vi tính.
Bốn, Thống đốc NHNN nên uỷ quyền, phân cấp cho Vụ trưởng Vụ Tín dụng
chủ động giải quyết ở mức độ nào đó.
Năm, NHNN cũng cần đẩy mạnh tuyên truyền về công cụ này đối với tất cả các
NHTM, nhất là các NHTM cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài mạnh dạn sử
dụng công cụ vay tái cấp vốn.
Sáu, NHNN cũng nên bãi bỏ hạn mức tín dụng, mà cần căn cứ vào nhu cầu thực
tế của NHTM và giấy tờ có giá của NHTM để quyết định cho vay.
Cuối cùng là, NHNN cũng cần đa dạng hơn nữa các giấy tờ có giá giao dịch
trên thị trường mở, giao dịch tái cấp vốn. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ
làm nghiệp vụ cho vay tái cấp vốn tại NHNN là hết sức cần thiết và có tính cấp bách
trong việc nâng cao hiệu quả và hoàn thiện công cụ này.
2.Tạm ứng ngân sách nhà nước
Xử lý bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó
không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển
bền vững của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động
lớn như: giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra
nhiều nước trên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ
ở Việt Nam.Nhưng NHTW không cho vay để bù đắp thiếu hụt NSNN, mà chỉ
được tạm ứng trong trường hợp NSNN bị thiếu hụt. Nếu chấp nhận bội chi ngân

sách địa phương thì cần quản lý và giám sát chặt chẽ việc vay vốn. Các khoản vốn vay
chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở kinh tế. Các khoản vay của
ngân sách địa phương cần được tổng hợp và báo cáo Quốc hội để tổng hợp số bội chi
NSNN hằng năm. Vấn đề vay vốn của các địa phương không được kiểm soát chặt chẽ
chẳng những tạo ra nguy cơ vay vốn tràn lan, đầu tư kém hiệu quả mà còn ảnh hưởng
đến tính bền vững của NSNN trong tương lai. Bội chi NSNN hằng năm không được
kiểm soát chặt chẽ trước khi trình Quốc hội, mức bội chi thực tế khác với mức bội chi
báo cáo cáo Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh nặng nợ cho NSNN, bởi NSNN là một
thể thống nhất và đa số các địa phương trông chờ chủ yếu vào ngân sách trung
ương.Chính vì vậy để bù đắp bội chi thì chính phủ phát hành trái phiếu chính phủ
NHTW sẽ mua lượng trái phiếu đó, và phát hành ra cho các NHTG để mua lượng trái
phiếu đó để cho nền kinh tế tăng trưởng hơn không gặp phải tình trạng mất cân bằng
về kinh tế hay nói cách khác nền kinh tế không bị sụp đổ. Đây là một phần để giúp
cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
3. Bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng
Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố quan trọng và luôn luôn xuất
hiện trong các thương vụ dưới nhiều dạng thức khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro
không thực hiện hợp đồng, rủi ro tín dụng…). Như vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để
hạn chế được những rủi ro và do đó bảo lãnh ngân hàng ra đời. Với vai trò là công cụ
bảo đảm, công cụ tài trợ và công cụ đôn đốc các bên tham gia hoàn thành hợp đồng, sự
Trang 6
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng trung ương
xuất hiện của các hợp đồng bảo lãnh ngân hàng đã góp phần thúc đẩy thương mại phát
triển.
Hiện nay, việc sử dụng bảo lãnh ngân hàng bùng nổ mạnh mẽ và mang lại thu
nhập đáng kể cho ngân hàng. Có thể chắc chắn rằng những thương vụ lớn và có yếu tố
nước ngoài tham gia hiện nay không thể nào không có một hợp đồng bảo lãnh đi kèm.
Hơn nữa, bảo lãnh ngân hàng còn được sử dụng rộng rãi trong các hợp đồng thương
mại, xây dựng trong nước có giá trị lớn. Sự tăng trưởng này một phần là do bảo lãnh
ngân hàng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho cho tất cả các dịch vụ, bao gồm cả những

dịch vụ không mang tính tài chính như hợp đồng xây dựng, bảo hành sản phẩm và
những dịch vụ mang tính tài chính như cam kết cung cấp thấu chi, cam kết tham gia
liên doanh, tái bảo hiểm và những cam kết tài chính khác. tại Việt Nam, mặc dù bảo
lãnh ngân hàng mới được Ngân hàng Nhà nước chính thức đưa vào áp dụng từ năm
1994 song đã phát huy được những vai trò quan trọng và mang lại thu nhập đáng kể
cho các ngân hàng. Như vậy bảo lãnh ngân hàng là dịch vụ ngân hàng hiện đại, mang
lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp và ngân hàng.
Thông tin được Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước)
Nguyễn Ngọc Bảo đưa ra tại một hội thảo diễn ra mới đây về vấn đề nợ công, do Ủy
ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội tổ chức cho thấy, tỷ lệ nợ Chính phủ bảo lãnh
hiện chiếm 7% so với GDP, trong đó có 5% là vay trong nước, vay nước ngoài chiếm
2%.
Tuy nhiên, ông Bảo cho biết, nếu xét về cơ cấu dư nợ với số tuyệt đối thì vay
nước ngoài đang có xu hướng tăng, trong khi vay trong nước đang có xu hướng giảm.
Đây là vấn đề cần được quan tâm, bởi theo ông Bảo, liệu thực tế này có phù hợp với
chủ trương vay nợ của chúng ta hay không?
Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, trong giai đoạn 2005 - 2009, khối
lượng vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh có xu hướng
tăng qua hằng năm. Nếu như năm 2005 chỉ khoảng 0,9 tỷ USD, thì con số này đã tăng
gấp 4 lần trong năm 2009, đạt 3,986 tỷ USD, đồng thời tỷ lệ nợ nước ngoài trong tổng
dự nợ của Chính phủ cũng tăng lên mức 14,27% trong năm 2009, gấp 2 lần con số
6,4% của năm 2005.
Đáng chú ý, tỷ trọng dư nợ nước ngoài của doanh nghiệp được Chính phủ bảo
lãnh cũng có xu hướng tăng, từ 6,4% năm 2005, đã tăng lên 13,3% năm 2008 và
14,27% trong năm 2009.
Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ nói, sẽ rất tốt nếu như các khoản nợ này được quản lý
tốt và có hiệu quả, để có thể tái tạo được nguồn ngoại tệ trả nợ nước ngoài. Song nếu
ngược lại, chắc chắn gánh nặng nợ công cũng như gánh nặng cho cán cân thanh toán
quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới sẽ càng nặng hơn.
Song các cá nhân tổ chức cũng nên thận trọng với vấn đề vay vốn nước ngoài.

Bộ Tài chính vừa đưa ra một số cảnh báo về hình thức hoạt động lừa đảo trong cho
vay và bảo lãnh vay vốn nước ngoài mới xuất hiện tại Việt Nam trong thời gian gần
đây.
Theo Bộ Tài chính, thời gian gần đây lợi dụng các chủ trương và chính sách mở
cửa của Việt Nam đã có nhiều tổ chức và cá nhân (cả trong nước và ngoài nước đã tự
xưng là đại diện của các đinh chế tài chính nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc
tế) đã gặp giới doanh nghiệp Việt Nam và lãnh đạo nhiều Bộ, ngành và các tỉnh, thành
phố trực thuộc T.Ư để đưa ra các bản chào các khoản tín dụng nước ngoài với số tiền
khá lớn, lãi suất cực kỳ ưu đãi (thực sự là phi thị trường), thời hạn cho vay (bao gồm
thời gian âm hạn) đến 15 năm, thậm chí 20 năm.
Trang 7
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng trung ương
Tuy nhiên, để tiếp cận vay được các khoản tín dụng nước ngoài này các đối
tượng tự xưng nêu trên đều yêu cầu nhất thiết phải có bảo lãnh của Chính phủ, cụ thể
là Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Bộ Tài chính cũng nhấn mạnh khi phát hiện thấy có âm mưu lừa đảo, đề nghị
báo cáo cho cơ quan an ninh của Công an tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư để có biện
pháp xử lý kịp thời đối với hành vi này.
Kết luận
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng
Trang 8

×