Tải bản đầy đủ (.pdf) (306 trang)

Dịch và lý thuyết, thực hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 306 trang )

I H C QU C GIA HÀ N I
ĐỖ

1


2





ó





à



Ố Ấ ĐỀ

ự ì

à



ý





Đố ượ
ủ ý ậ
ớ á #ộ ơ & '
*ả





/

0 á



/

/ấ 3ề & ả ă

/

7á 8 ươ

/




á -ì








à
ọ & á



ệ ủ

ó
)



á #ấ # ế

.

-'

&




2



6

8 á8

ỏ ơ

Ề Ý

ê



ề ị

<

ậ8
à

Ý
? ệ



Ơ


ụ ủ

7á 8 ổ

á

Cị

ọ D

ă

/ 7â

ỏ ơ

ơ

ữ ọ

ơ




Ữ Ọ

Ề Ị




)
)2



à& '



)E

ậ8

F
à "

Á



ì


ì






Ì




FF



ó

F2

3


G

Hơ 3ồ #ố -í ị

/ 7á 3ặ 3 ể
/ 7á
/ 7â



ầ 3ố

ỏ ơ









F<

ó


.N
ế

.N

ậ8

.
à &

Á
?ắ

' ' Đ(Ạ

'ạ


Sả



Oế

#ả

..

#ả

ỏ ơ


.F

C ễ 3ạ ạ
/ 7â

Ủ + Á ,Ì

.2

ậ8

.
à -

Ý

U





7á & ể

/ W-ì
/ 7â

Ĩ

Ơ

Ữ / Ị

ĩ

2

ĩ


á &ể

ự ị
ỏ ơ

2

ĩ

á &ể

2F
ĩ

6

ậ8

6F
à 0

Á
Cị
Cị



Cị

ươ

/ 7â

4




ỏ ô

ĩ


ƯƠ

Á


62

ự '

E

3ươ

E)

ậ8

E.


à 3

Á
Đị


/



Á



ĩ

E2



'ạ # ế 3ổ



E2



ủ 8 á8 ị

E6



ỏ ô



ậ8
à 4


Đị

/

ĩ











ỏ ô

/



à


à

Ữ / Ụ

ữ à

á -ị ủ



ó

<





N



.

ậ8

NN
à 5



7 ọ

ừ -'

/

7 ú ý 3ế

F

7 ọ

.

Wơ -ọ
à8 '

2

 9 ' Ị



-ị ủ

)

Ừ / ĐẶ

N

ă



N)

á 3ộ ủ

ừ 8 ù ợ8 ớ

á

ả 3ố



ế 3ượ

& O
ướ
á
ủ á

ớ Hự & ệ 3ượ
ê

ư ưở





7 ú ý 3ế

ĩ _ á Hắ

E

7 ú ý 3ế

ô

ữ ị

< 7 ú ý 3ế ` ổ ` ủ

ợ8 ừ à â

ưở
N2

ỗ 3ồ


NF
N.

6

ơ


N)

á 8 ẩ

&ế

í





7 ọ ừ 8 ù ợ8 ớ & ả ă
ủ ế /ệ
á

ê



ừ_ 3ế

á


ừ ụ

ĩ






N6

ơ #ả
NE



N<

5


7 ú ý 3ế á # ể ượ
' ừ âO - ở ườ 3ọ
Đặ

â



-'

à ê

N




ỏ ơ

N

ậ8

F
à

:

ĐƠ
Đơ

ị ị

3ượ ấ 3ị

Đơ

ị ị

à 3ơ

bá 3ị
/

bá 3ị


/



ưở



á 3ơ


ư à 3ơ
ô

ị ị

ị ị

ỏ ô

Ị Ị
















à' á 3ơ

à'







ậ8

ă #ả

2

Oê #ả
ị ủ




ô


E
ữ ị

E

Oê #ả
))

à


/ề











ỏ ô








)F

ự 3ị

)

ậ8

F2
à

ĐÁ
Đặ

ấ 3ề

G

ê

Đá

ẩ `Wí ` à `? ã`
á #ả

0

O


ướ

/

7





/



ỏ ơ


FE

/

6

'Á Ả

ậ8






F<

à' à





.F









.2

O ướ







.2

.6


à

"

>Ể ĐẠ ĐẶ

,(


Á

Wầ

-ọ

W
-'

ì
#ả



W
-'

ì

#ả



/

7

/




ê





.E

ấ 3ề
Oể 3ạ 3ặ

ế ớ à -'

3ộ 3á' ủ




Oế # ể



Oế



Oế

/



Oế

/



Oế ươ

/

S

ú

&


>Ế
(Ặ
Á

Ơ Ì

ậ -'





2





6)

ả #ê

-'



ĩ

-'


ấ8 3ộ ươ
3ươ





3ươ
ó

Ề Ị


-'
O

62


ậ _ -'




6


E)
E.


Á >Ê



2F
2<

à

e


.<

ậ8

Ý



â

Oê #ả

à

e


ướ


ấ 3ề
Oể 3ạ 3ặ -ư
â ộ
............................................ 150
ọ ở /ệ ?

ă

Oể 3ạ í
ỏ ơ

ấ 3ề

ă
ê

Â

Ă


'ạ
ế

Ầ ĐỐ' Ớ'



& ế


/



ể #ế

ƯỜ' Ị



E2

ẹ 3ẻ

E6

hOê #á
/

-

E<
à

' 3ộ

ề ý







ạ'

E
E

7


/



0ế





ỏ ô

ậ8

<




& ả'

<)

PHỤ LỤC
à
? ị8 3 ệ



ă a ô

à ị

F

à
ự ấ 'á
ị8 3 ệ
ủ iCj Wj k/ 0

ườ

ấO &



á


á 8 ẩ
E

à "
Cụ

ữ ọ





)

à &
Cị

ươ

3ươ

) E

à /ấ 3ề ươ

3ươ

-'






))

à 0
W ơ à ị

ơ

).

W ơ à ìl

).

W ơ à ă a ơ

)2

/ề ầ

ơ

)2F

/

/à ý


ĩ

/

Cị

/

mộ Hố #à

8

ơ


ư

ữ à

ơ

)2

ế à'l
ơ ị

3ể

)6F



)6


Ờ'

Ĩ' ĐẦ

Chun luận gồm có hai phần: phần chính-chun luận và phần
phụ lục. Phần chuyên luận đề cập tới hầu hết các vấn đề cơ bản của
lý luận dịch. Phần này gồm 15 bài học và được dạy trong 6 học trình,
90 tiết. Việc giảng dạy được phân bổ với số tiết như sau: một số các
bài như “Phương pháp dịch”, “Thủ pháp dịch”, “Chọn từ trong
dịch”, “Mơ hình dịch”... được dạy từ 6 đến 8 tiết, một số ít bài như
“Các giai đoạn của quá trình dịch”, “Đơn vị dịch”, “Đánh giá bản
dịch”, được dạy từ 4 đến 6 tiết. Có kiểm tra giữa chuyên luận: gồm
một buổi kiểm tra và một buổi trả bài với thời gian từ 6 đến 8 tiết. Sau
khi học xong, sẽ có bài thi được tiến, hành trong thời gian 4 tiết.
Chuyên luận được viết chủ yếu là dựa trên các tư liệu dịch văn
học, tức là các ví dụ minh họa, phân tích được rút ra từ các bản dịch
văn học và phần lớn các bài học là đề cập đến những vấn đề của dịch
văn học. Tất nhiên, trong chuyên luận cũng có những bài chung cho
mọi thể loại dịch như "Các giai đoạn của quá trình dịch", "Phương
pháp dịch", "Thủ pháp dịch"... Các vấn đề thuộc về các thể loại dịch
như “Dịch chính luận - thơng tin báo chí”, “Dịch khoa học - kỹ
thuật”... không được đề cập hoặc bàn sâu... Những vấn đề này người
học sẽ tự bổ cứu trong q trình cơng tác hoặc nghiên cứu sau này.
Chúng tôi nghĩ rằng sau khi đã nắm được những vấn đề chung và cơ
bản về lý luận dịch, thì người học sẽ có cơ sở để đi sâu vào những
vấn đề đó.

Ngồi phần chính, chun luận cịn có thêm phần phụ lục đề
cập đến những vấn đề chưa có hoặc chưa được nói kỹ ở các bài học
như “Ngữ dụng dịch”, “Dịch tương đương”, “Nhịp điệu và dịch” và
đặc biệt là "Dịch thơ" - vấn đề khó nhất của dịch văn học nói riêng và
của việc dịch nói chung. Ở phần phụ lục, tác giả đã chọn đưa vào một
số bài viết và bài dịch có giá trị, trong đó có mấy bài do tác giả dịch.
Khi soạn phần phụ lục, chúng tôi đã phải mất khá nhiều thời gian và

9


công sức để chọn được những bài tốt, thực sự có giá trị và có ích đối
với người học. Phần lớn số trang trong phụ lục được dành cho việc
dịch thơ. Sở dĩ như vậy là vì trên thực tế công tác dịch viết hiện nay ở
nước ta, việc dịch thơ khá phổ biến và được thực hiện theo nhiều
quan niệm khác nhau. Nhưng dù được thực hiện theo quan điểm nào
đi nữa, thì về đại thể, chất lượng dịch đều còn thấp, chưa truyền đạt
được cái hay, cái đẹp của nguyên bản và còn xa mới đáp ứng được sự
chờ đợi của người đọc. Trên các trang báo, hay tạp chí hiện nay, cái
mà người đọc ngại nhất là thơ sáng tác và nhất là thơ dịch vì tỷ lệ các
bài đọc được, bài hay rất thấp1.
Trong quá trình dạy chuyên đề “lý thuyết dịch” trong khoảng
hơn hai thập niên vừa qua, vấn đề dịch thơ có lúc được giảng, có lúc
khơng được giảng tùy thuộc vào đối tượng người học và thời gian
học. Vì vậy, ở phần phụ lục, chúng tôi dành nhiều trang cho phần
này để người học tự nghiên cứu và có hướng để tự tìm hiểu thêm tư
liệu và có điều kiện đi sâu nghiên cứu.
Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo. Trong danh mục,
thực sự chúng tôi chỉ nêu khoảng già nửa số cuốn sách, bài báo mà
chúng tơi đã có đọc để viết chun luận. Để tiết kiệm giấy, chúng tơi

có lúc đã phải “gộp” chẳng hạn như: các sách viết về ngơn ngữ của
các giáo sư... hoặc “Tạp chí Văn học nước ngồi”... Nếu khai đủ thì
chỉ riêng hai mục trên đã có tới mấy chục đầu sách, đầu báo. Ngồi
ra, trong thư mục, chúng tơi cũng khơng nêu tên các tác phẩm dịch
đã được sử dụng.

1

Xin xem "Góc nhỏ thơ trữ tình " (Thơ dịch) đang đăng trên báo Người Hà Nội do
nhiều người dịch.

10


/'

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÝ LUẬN DỊCH
I. Sự hình thành của lý luận dịch
- Về mặt lịch sử, khái niệm “lý luận dịch” mới xuất hiện gần đây
trên cơ sở của dịch văn học. Lần đầu tiên, khái niệm đó được sử dụng
ở Liên Xơ (cũ) trong những năm 20 của thế kỷ này. Bắt đầu là từ
Mácxim Gorơki với việc thành lập các trường đào tạo người dịch thơ
và văn xuôi, với việc xuất bản cuốn Các nguyên tắc dịch văn học làm
hai lần vào năm 1919 và 1920.
Việc ngôn ngữ học chú ý đến vấn đề dịch có quan hệ với việc
nghiên cứu dịch máy bắt đầu phát triển mạnh vào đầu những
năm 1950.
Nhiều nhà bác học bắt đầu chú ý đến những vấn đề lý luận dịch
dưới góc độ khơng chỉ của dịch văn học, mà là xuất phát từ toàn bộ
hoạt động đa dạng của việc dịch ở thời đại chúng ta, bao gồm dịch

khoa học kỹ thuật, chính luận (nhiều hơn dịch văn học), các hình thức
dịch miệng, dịch để dạy học... và tồn bộ các khả năng của hoạt động
ngơn ngữ như là một hành động giao tiếp nhất định.
Từ giữa những năm 1950, khái niệm "lý luận dịch" bắt đầu được
gặp nhiều hơn trong hệ thống các khoa học về ngôn ngữ với tư cách
là một ngành của ngôn ngữ học hiện đại, đồng thời bắt đầu xuất hiện
ở các nước khác nhau các quan điểm rộng rãi cố gắng bao quát toàn
bộ các hiện tượng được thống nhất bằng khái niệm "dịch".
Khái niệm "dịch” bắt đầu được sử dụng để chỉ bất kỳ thao tác
nào nhằm thay thế một hệ thống ký hiệu này bằng một hệ thống ký
hiệu khác mà vẫn giữ lại nội dung thông tin.

11


Nhà ngôn ngữ học Mỹ, R. Jakobson, đã phân biệt 3 hình thức
dịch thuật với các tên gọi khác nhau:
- Dịch bên trong ngơn ngữ (traduction intralinguale) là giải thích
các ký hiệu ngôn ngữ bằng các ký hiệu khác của cùng một ngơn ngữ.
Thí dụ: bệnh viện, nhà thương, nơi khám và chữa bệnh.
- Dịch qua ngôn ngữ khác (traduction interlinguale) là giải thích
các ký hiệu của một ngơn ngữ bằng những ký hiệu của một ngơn ngữ
khác. Thí dụ: bệnh viện - hospital.
- Dịch qua các ký hiệu khác (traduction intersémiotique) là giải
thích ký hiệu ngơn ngữ này bằng hệ thống ký hiệu ngơn ngữ khác.
Thí dụ: bệnh viện + (chữ thập đỏ).
II. Đối tượng của lý luận dịch và mối quan hệ của nó với các bộ
mơn khoa học khác
Các vấn đề lý luận dịch có thể được xét từ nhiều góc độ khác
nhau. Đối tượng nghiên cứu của nó có thể là việc chọn tài liệu dịch

xét về mặt nội dung, giá trị nhận thức và nghệ thuật của nguyên bản.
Tiếp theo, có thể nghiên cứu vai trị của các tác phẩm được dịch trên
bình diện văn học của ngơn ngữ dịch, cá tính của người dịch được
quyết định bởi thế giới quan, các quan điểm văn học, các thủ pháp
nghệ thuật, các sở thích của đất nước, thời đại của người đó.
Ngồi ra, dịch là một q trình sáng tạo, có quan hệ tới lĩnh vực
tâm lý học. Do đó, nó có thể được xem xét trên bình diện lịch sử văn
hố, văn học, tâm lý học.
Nhưng vì dịch có quan hệ trước hết với ngơn ngữ nên hơn ở đâu
hết, nó phải được nghiên cứu trên bình diện ngơn ngữ học, tức là
trong quan hệ với vấn đề tính chất của mối quan hệ giữa hai ngôn
ngữ và của các phương tiện tu từ của chúng. Hơn nữa, nghiên cứu
dịch trên bình diện nghiên cứu văn học ln ln có quan hệ với việc
xem xét các hiện tượng ngơn ngữ, phân tích và đánh giá các phương
tiện ngơn ngữ được người dịch sử dụng. Vì nội dung của nguyên bản
bao giờ cũng tồn tại trong thể thống nhất giữa nội dung và hình thức
với các phương tiện ngơn ngữ, nơi nội dung đó được thể hiện. Nội

12


dung này có thể được truyền đạt bằng các phương tiện ngôn ngữ ở
bản dịch. Tâm lý học của dịch có quan hệ với mối quan hệ giữa ngơn
ngữ và tư duy với các hình tượng ngơn ngữ.
Khơng thể có dịch ở ngồi ngơn ngữ học. Lý thuyết dịch với tư
cách chuyên ngành của khoa học ngữ văn trước hết là bộ môn thuộc
ngôn ngữ học. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, lý thuyết dịch
rất gần với khoa nghiên cứu văn học - với lịch sử và lý luận văn học,
với lịch sử của các dân tộc có quan hệ với hai ngơn ngữ.
Có thể phân định các bộ phận chủ yếu sau đây của lý luận dịch:

1. Các quan niệm của các nhà kinh điển như Mác- Ăngghen
Lênin về hoạt động dịch.
2. Lý luận chung về dịch có nhiệm vụ khái quát và hệ thống hoá
các quan sát của các hành động dịch cụ thể để xác định các quy luật
tồn tại trong mối quan hệ giữa các ngơn ngữ khác nhau và đóng vai
trị quan trọng trong dịch.
3. Lý luận riêng về dịch, tức là lý luận về việc dịch từ ngôn ngữ
này sang ngôn ngữ khác. Lý luận chung về dịch khái quát và hệ
thống hoá các cứ liệu của lý luận riêng về dịch.
Trong khuôn khổ của lý luận riêng về dịch, có thể phân biệt hai
bộ phận nhỏ sau:
a. Nghiên cứu các nhiệm vụ chung và các điều kiện làm việc đối
với các ngôn ngữ dịch trong mối liên hệ với các yêu cầu mà ngôn ngữ
đặt ra cho việc dịch.
b. Nghiên cứu các nhiệm vụ và các điều kiện dịch trong mối
quan hệ với các đặc điểm thể loại dịch (thông tin - báo chí, tư liệu sự
vụ, các văn bản khoa học chun ngành, các tác phẩm chính trị - xã
hội, ngơn ngữ diễn thuyết, văn học) và việc phát hiện các nguyên tắc
chung trong việc truyền đạt phong cách cá nhân của tác giả.
Lý luận dịch có quan hệ với ngơn ngữ đại cương, có đặc điểm ở:
1/ Tính hai mặt của việc nghiên cứu.
2/ Quan hệ tổng hợp đối với các hiện tượng ngôn ngữ trong mối
quan hệ của hai ngơn ngữ. Nó có quan hệ với tu từ học so sánh. Dịch

13


ln ln có quan hệ với các phong cách khác nhau của ngơn ngữ tồn
dân, ln ln phải tính đến mối quan hệ và thâm nhập lẫn nhau giữa
hai ngôn ngữ. Lý thuyết dịch có quan hệ với tu từ học vì nó có quan hệ

với việc truyền đạt phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Để kết luận chương mục này, chúng tôi xin phép được dẫn ra ý
kiến xác đáng sau của nhà lý luận dịch Ba Lan, Jery Pienkos: "Nhiệm
vụ của người dịch là chuyển những hiện tượng ngôn ngữ chứa đựng
trong văn bản nguồn thành những hiện tượng ngôn ngữ thể hiện
trong văn bản dịch. Hai ngôn ngữ (văn bản) này đối lập nhau trong
mối quan hệ phụ thuộc từ hai phía. Sự cân bằng ngơn ngữ nguồn và
ngôn ngữ dịch cũng như sự thống nhất về mặt hình thức, chúng ta có
thể gọi đó là dịch. Nghiên cứu sự tham gia của hai ngôn ngữ vào việc
miêu tả cùng một tình huống là phần việc của ngôn ngữ học được gọi
với cái tên là lý thuyết dịch nằm trong lĩnh vực quan tâm của ngôn
ngữ học ứng dụng1.
III. Bản chất của quá trình dịch
Trong lý luận dịch, thuật ngữ "dịch" được dùng chủ yếu với hai
nghĩa khác nhau: quá trình và kết quả.
Dịch là một quá trình phức tạp và sáng tạo, trong đó người dịch
thâm nhập vào mọi sự tinh tế về ý nghĩa của nguyên bản và tạo ra
một văn bản hoàn toàn mới. Văn bản mới này - bản dịch (translate) giữ lại mọi sắc thái nghĩa mà người dịch tiếp thu được qua q trình
phân tích và giải thuyết ngun bản.
Dịch là hình thức giao tiếp đặc biệt của những người nói các
thứ tiếng khác nhau (hay còn gọi là giao tiếp liên ngữ). Sự giao
tiếp của con người nhờ ngôn ngữ trong khoa học gọi là giao tiếp
bằng ngơn ngữ, cịn mỗi trường hợp giao tiếp cụ thể được gọi là
hành động giao tiếp.

1

Dẫn theo bài dịch cùa Nguyễn Chí Thuật trong cuốn Dịch giả và dịch thuật trong thế
giới hiện đại.


14


Khơng nên giải thích q trình dịch chỉ đơn thuần là sự cải biến
nguyên bản từ ngôn ngữ này sang ngơn ngữ khác; vì sự cải biến đó
chưa phải là tồn bộ cơng việc được diễn ra trong q trình dịch. Sự
cải biến liên ngữ thường được người dịch thực hiện, nhưng trước khi
dịch, người dịch phải hiểu thông báo gốc là công việc phức tạp do
nhiều điều kiện ngôn ngữ học và tâm lý học: đó là việc hiểu ngôn
ngữ, hiểu đối tượng thông báo, hiểu các từ thực tế, hiểu thực tế được
phản ánh trong nguyên bản, cuối cùng là hiểu cá tính của người
thơng báo, sự phát triển của vốn khái niệm của bản thân người dịch.
Do đó, việc nghiên cứu q trình dịch phải dựa trên các nguyên tắc
của lý thuyết thông tin và sự phân tích đối chiếu giữa nguyên bản và
bản dịch bằng cách xác định những tương ứng về từ vựng, ngữ pháp
và tu từ của cặp ngơn ngữ được đối chiếu.
Tóm lại, ta có thể định nghĩa bản chất của q trình dịch như
sau: "Dịch là quá trình cải biến một sản phẩm ngôn ngữ từ thứ tiếng
này sang sản phẩm ngôn ngữ của thứ tiếng khác mà không làm thay
đổi nội dung tức là ý nghĩa của nó".
IV. Khái niệm cái bất biến trong khi dịch
Thực tiễn dịch chứng tỏ rằng mọi đại lượng tham gia vào việc
truyền đạt nghĩa đều chịu sự biến đổi ít hoặc nhiều. Để làm rõ cái bất
biến trong khi dịch, chúng ta hãy dẫn ra thí dụ sau: người Udơbếch
(LBN) quen gọi người phụ nữ mà mình yêu là: “Con vẹt của anh”. Sở
dĩ như vậy là vì đối với họ, con vẹt tượng trưng cho sắc đẹp nhờ vào
bộ lơng sặc sỡ của nó. Nhưng khi dịch sang tiếng Nga hoặc các thứ
tiếng khác, thì khơng thể giữ ngun hình ảnh trên. Người Nga hoặc
người Việt Nam quen xem vẹt là con vật hay bắt chước, xem nó
tượng trưng cho sự ngu dốt hoặc thói ba hoa. Vì vậy, người Nga sẽ

dịch là: "Bơng hồng của anh". Trong trường hợp này, "Con vẹt" đối
với người Udơbếch và "Bông hồng" đối với người Nga, đều diễn đạt
những ý nghĩa hoàn toàn giống nhau. Và chúng ta sẽ dịch nghĩa cái
bất biến là nội dung ý nghĩa không thay đổi trong khi dịch.
Khái niệm cái bất biến được hình thành trong ý thức con người
bằng cách nghiên cứu các q trình dịch. Nó chỉ tồn tại trong các biến

15


thể của mình1 và ngay trong phạm vi của một ngơn ngữ, cùng một
nội dung ý nghĩa, có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau.
Cái bất biến được người dịch nhận thức trong quá trình thâm nhập
vào nội dung đầy đủ của thông báo gốc khi anh ta có thể xây dựng sự
hiểu biết của mình về thực tế trên cơ sở của thơng báo được truyền
đi, tìm được những điểm chung trong vốn hiểu biết giữa mình và
người truyền, hiểu được nhiệm vụ thông báo của người truyền và
cách giải thích thực tế có quan hệ với nó. Sự kết hợp của tất cả những
nhân tố trên trong óc người dịch cho phép anh ta "cảm nhận" được
bất biến dịch để rồi có thể bước vào giai đoạn sau, giai đoạn cấu tạo
ra bản dịch.
Một vấn đề nữa cũng có tính chất quan trọng là việc giải thích
chức năng của sản phẩm lời nói của ngun bản là thước đo toàn bộ
hoạt động của người dịch trong q trình hiểu ngun bản. Cịn
ngược lại, nếu khơng làm như vậy, thì người dịch sẽ mất cơ hội để
nhận ra bất biến dịch.
L.S. Báckhuđarốp đã nhấn mạnh đến sự mất mát không tránh
khỏi trong khi dịch. Và sự mất mát đó thuộc về những yếu tố khả
biến. Về nguyên tắc, bất kỳ một văn bản nào cũng có thể dịch được
hiểu theo nghĩa là tạo nên được một văn bản bằng một ngôn ngữ

khác tương đương về chức năng với nó bằng cách truyền đạt được
đầy đủ nhất những nội dung thông báo quan trọng nhất nhờ những
thủ pháp dịch có khả năng đền bù những mất mát khơng tránh khỏi.
V. Vấn đề khả năng dịch
Vì quá cường điệu các khó khăn của việc dịch mà trong những
thế kỷ trước, một số nhà ngôn ngữ học duy tâm ở các nước tư bản đã
kịch liệt phủ nhận khả năng dịch. Theo quan điểm của họ, khơng thể
có được bản dịch thoả đáng. Đây là bước thụt lùi của ngôn ngữ học.
1

Chẳng hạn các câu sau đây là các biến thể của cùng một cái bất biến:
- Cái mũ này bị hỏng.
- Cái mũ này khơng cịn tốt.
- Cái mũ này cần phải sửa chữa.
- Việc sửa chữa cái mũ này là cần thiết.

16


Tiêu biểu cho số người này là nhà ngôn ngữ học Đức, V.Humboldt.
Ơng đã nói như sau: “Mỗi ngơn ngữ vẽ một cái vịng chung quanh
nhân dân nói thứ tiếng đó, và chỉ có thể thốt ra khỏi cái vịng ấy khi
bước vào một cái vịng khác. Vì thế, việc nghiên cứu ngoại ngữ được
xem như là việc phát hiện ra một quan điểm mới trong thế giới quan
cũ, vì rằng hoặc ít hoặc nhiều, chúng ta đã đưa vào thứ ngoại ngữ đó
thế giới quan và quan điểm ngơn ngữ riêng của mình mà chính
chúng ta cũng khơng cảm thấy một cách hoàn toàn rõ ràng”.
Quan điểm trên của Humboldt đã bị bản thân cuộc sống và thực
tế của công tác phiên dịch bác bỏ. Thực ra, mọi ngôn ngữ phát triển
đều hồn tồn có đủ khả năng để truyền đạt nội dung được diễn đạt

bằng ngôn ngữ khác1. Việc dịch những kiệt tác của các nhà văn lớn
trên thế giới ra nhiều thứ tiếng là một dẫn chứng hùng hồn cho khả
năng dịch. Hơn nữa, có khi do sự sáng tạo và công phu lao động của
dịch giả mà bản dịch cịn có thể “hay” và nổi tiếng hơn cả nguyên
bản. Đó là trường hợp bài dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm,
bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh... Các Mác cũng đã có lần nói
rằng Ăng-ghen đã dịch tác phẩm của ơng một cách rất sáng tạo, có
đoạn cịn hay hơn cả ngun tác. Tóm lại, hồn tồn khơng có căn cứ
để phủ định khả năng dịch. Trong thực tế, trừ những trường hợp cá
biệt, khơng có người dịch nào đã gặp những chỗ không thể dịch được
ra tiếng mẹ đẻ bằng cách này hay cách khác, trừ phi anh ta khơng có
đủ trình độ cần thiết để dịch.
Các tác phẩm phong phú về nội dung tư tưởng và có tính nghệ
thuật cao của Việt Nam như Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, thơ Tố Hữu, Truyện Kiều,... đã được dịch ra nhiều thứ liếng
trên thế giới. Việc độc giả nước ngoài nhiệt liệt hoan nghênh và đánh
giá cao các bản dịch đó đã chứng tỏ các dịch giả Việt Nam và thế giới
đã làm trịn nhiệm vụ của mình và là bằng chứng xác nhận khả năng
dịch. Thực ra, vấn đề khả năng dịch không chỉ là vấn đề học thuật
thuần t, mà cịn là vấn đề chính trị - vấn đề phân biệt chủng tộc,
1

F.P. Filin: "Bất kỳ ngôn ngữ nào, dù là chậm phát triển, một khi có những (điều
kiện thuận lợi đều có thể trở thành ngơn ngữ có trình độ phát triển cao".
Xem bài "Một số vấn đề ngơn học hiện đại", Tạp chí Ngơn ngữ, số 3 - 1980.

17


vấn đề đối lập hai loại ngôn ngữ - ngôn ngữ văn minh và ngôn ngữ

kém phát triển.
VI. Các phương pháp nghiên cứu về dịch1
Có quan hệ với sự phân biệt các nhiệm vụ là sự phân biệt các
phương pháp nghiên cứu về dịch. Ở giai đoạn hiện nay, có 3 nhóm
khác nhau về thủ pháp nghiên cứu việc dịch.
1. Các nhà nghiên cứu độc lập: tự mình nghiên cứu, tách khỏi các
thành tựu của khoa học về dịch. Đặc biệt thường thấy ở các nhà khoa
học của các nước phương Tây. Họ thường không chú ý đến các kết
quả nghiên cứu của các nước xã hội chủ nghĩa.
2. Các trung tâm nghiên cứu dịch văn học: gồm các nhà lý luận
và các nhà nghiên cứu lịch sử. Các trung tâm này có các quan điểm
riêng, có thủ lĩnh riêng.
Đó là các trung tâm ở Sacrbrucken (Đức), Trường Đại học ở New
York, các tạp chí ‘’Babel” của FIT, hai trung tâm của Tiệp Khắc.
3. Các trường phái nghiên cứu về dịch: khác nhau về hướng
nghiên cứu và diện chủ đạo trong việc nghiên cứu. Đứng đầu thế
giới hiện nay là trường phái “lý luận xơ viết về dịch”. Có hai trường
phái nhỏ;
a) Trường phái cổ điển: có liên quan đến thực tiễn nghệ thuật
của những người dịch. Khởi đầu từ Coócnây Chucốpxki và kết thúc
bởi các tác giả hiện đại. Trường phái này có các tên tuổi tiêu biểu sau:, ICaxkin, Rossels, Levích, Toper... Quan điểm của trường phái này được
trình bày một cách khái quát trong Tiểu bách khoa toàn thư năm 1968, ở
mục “Dịch văn học” do Toper viết. Ngày nay, các nguyên tắc của nó
được phát triển trong các trường đại học của Liên bang Nga, trong các
luận án2 tiến sĩ, phó tiến sĩ về lý luận và lịch sử của dịch văn học.
b) Lý luận ngôn ngữ học về dịch: đứng đầu là A.V. Phêđôrốp với

1
2


Mục này được viết đã lâu. Nếu nay mai có dữ liệu mới chúng tơi sẽ viết lại.
Trong đó có luận án PTS của người soạn cơng trình này bảo vệ năm 1978 ở
Mátxcơva.

18


tác phẩm chủ yếu là Cơ sở lý thuyết chung về dịch, xuất bản tất cả 3 lần
vào các năm 1953, 1958, 1968. Trung tâm nghiên cứu chủ yếu của nó
là Trường Đại học Ngoại ngữ Matxcơva. Các kết quả nghiên cứu
của nó được cơng bố trong tạp chí xuất bản hàng năm Sổ tay người
dịch và tuyển tập Nghệ thuật dịch, Sổ tay người dịch do L.S.
Báckhuđarốp, tác giả cuốn Ngôn ngữ và phiên dịch làm chủ biên. Đại
biểu của trường phái này là một loạt các nhà lý luận dịch Xơ viết có
tên tuổi ở trong và ngồi nước như V. Camisarốp, V. Krúpnốp, I.
Retsker. V. Phêđôrốp... Brandas, Givi Gachechilátze, T.L Levixcaia,
A.M Filtecman, I.I.Répdin,...
VII. Câu hỏi ôn tập
n


á
3ể

)n






- 3ờ -'

ọ à ý





ý




& ơ

à'l Ở ướ
ó_ a



' #ế

p

ịq_ ó

ó ó á 3ặ

ìl


Đố ượ





& '

ọ & á - H 'l

Fn

*ả



.n

W ế

à' à #ấ # ế



ư

2n




l ?ế

-'





ể ị



á -ì
ế

à ìl mố




ệ ủ

ó ớ

á #ộ

ịq_ á

ì


â

ơ

à ìl
l Ở

à'l p ê

ướ


p


á

ọ `7'





ườ
r ở

ọ q
3ượ & ơ

l /ì H 'l


19


20



×