Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích đặc điểm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp và tác động của bối cảnh cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.75 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 1
NỘI DUNG........................................................................................................................... 1
1. Định nghĩa quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp............................1
2. Đặc điểm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp...............................2
2.1.

Đặc điểm chung........................................................................................................2

2.1.1.

Đặc điểm chung phổ quát..................................................................................2

2.1.2.

Đặc điểm chung đặc thù.....................................................................................3

2.2.

Đặc điểm riêng của quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp.........7

2.2.1.

Chủ thể có quyền và chủ thể có nghĩa vụ...........................................................7

2.2.2.

Phạm vi quyền....................................................................................................7

3. Tác động của bối cảnh cải cách tư pháp đến việc bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong lĩnh vực tư pháp....................................................................................11


KẾT LUẬN......................................................................................................................... 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................15


MỞ ĐẦU
Quyền con người, quyền công dân là vấn đề được các quốc gia trên thế giới quan tâm
và đều được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia .Trong lĩnh
vực tư pháp, việc bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân có ý nghĩa rất quan trọng bởi
đây là lĩnh vực trực tiếp liên quan đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm... của con
người, nơi công lý cần phải được bảo vệ ở mức cao nhất. Ở Việt Nam, trên cơ sở thống nhất
quan điểm con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển bảo đảm quyền con
người, quyền công dân luôn được Đảng và Nhà nước xem là nhiệm vụ quan trọng trong các
nội dung về chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền.
Trên cơ sở nhận thức và tìm hiểu của bản thân, em xin triển khai chủ đề : “Phân tích
đặc điểm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp. Theo quan điểm của
anh/chị, bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay đã tác động như thế nào đến việc bảo đảm
quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp”. Qua đó, trình bày khái qt
các đặc điểm của quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp và sự ghi nhận
các quyền này trong pháp luật Việt Nam cũng như sự tác động của bối cảnh cải cách tư
pháp tới việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp trong giai
đoạn hiện nay.
NỘI DUNG
1.

Định nghĩa quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp
Quyền con người ( Human rights) là những quyền tự nhiên của con người và không

bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy
Liên hiệp quốc, quyền con người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân

phẩm, những tự do cơ bản của con người. So với quyền con người thì khái niệm quyền cơng
dân mang tính xác định hơn, gắn liền với mỗi quốc gia và được pháp luật quốc gia quy định,
là những đảm bảo pháp lý của quốc gia cho cơng dân trên các lĩnh vực chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa,…Quyền con người, quyền cơng dân là vấn đề có lịch sử lâu đời về cả lý
luận và thực tiễn, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau.
1


Hiện nay, trong thời kỳ hội nhập, tiến bộ, Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới
hầu như đều có chế định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Việc
xác định quyền con người, quyền công dân ngày càng đầy đủ và cụ thể trong pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia là cơ sở để các quốc gia tích cực, chủ động bảo đảm các quyền trên
thực tế, phát huy hơn nữa quyền làm chủ của con người. Trong đó việc ghi nhận quyền con
người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp là một vấn đề quan trọng, cơ bản của mỗi
quốc gia. Theo đó, quyền con người, quyền cơng dân trong lĩnh vực tư pháp là nhóm các
quyền cơ bản, thiết yếu của mỗi cá nhân khi họ tham gia vào các hoạt động tư pháp. Hoạt
động tư pháp là hoạt động bao gồm hoạt động tố tụng và thi hành án như: Khởi tố, điều tra
các vụ án hình sự; Thực hành quyền cơng tố của Viện kiểm sát; Xét xử của Toà án; Quyết
định đưa bản án, quyết định của tòa án ra thi hành trong thi hành án; Giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng tư pháp; Áp dụng các biện pháp bảo đảm cho hoạt động tố tụng tư pháp:
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, áp dụng các biện pháp ngăn chặn.. . Đây là các hoạt
được thực hiện dựa trên những nguyên tắc dân chủ, mang tính chất nền tảng với mục tiêu là
bảo vệ công lý, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Các quy định về đảm bảo quyền
con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp là những quy định cơ bản, mang tính
chung nhất và có tính chỉ đạo đối với tồn bộ hoạt động tư pháp
2.
Đặc điểm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp
2.1. Đặc điểm chung
2.1.1. Đặc điểm chung phổ quát
Quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp là một lĩnh vực của quyền

con người, quyền cơng dân nói chung. Do đó, các quyền con người, quyền công dân trong
lĩnh vực tư pháp mang các đặc điểm chung của quyền con người. Cụ thể:
Tính phổ biến: Quyền con người là bẩm sinh, vốn có, mọi thành viên trong nhân loại
đều bình đẳng với nhau, khơng bị phân biệt bởi bất cứ lý do gì dù là giới tính, màu da, dân
tộc, tơn giáo,đại vị xã hội…. Sự bình đẳng khơng có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ
mà là bình đẳng về tư cách chủ thể và nội dung thụ hưởng, cơ hội thụ hưởng các quyền con
người là như nhau. Tương tự như quyền con người nói chung, quyền con người, quyền cơng

2


dân trong lĩnh vực tư pháp là quyền là mọi cá nhân, công dân không phân biệt về dân tộc,
tôn giáo, địa vị xã hội,…đều bình đẳng và có cơ hội thụ hưởng như nhau.
Tính khơng thể chuyển nhượng: Quyền con người là các quyền tự nhiên, thiêng liêng
và bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Các
quyền con người không bị tước bỏ hay hạn chế bởi bất kỳ một chủ thể nào kể cả nhà nước,
mọi giới hạn, hạn chế hay sự tước bỏ quyền của cá nhân phải do luật định và chỉ nhằm bảo
vệ lợi ích chính đáng, tương xứng của một cộng đồng hay tập thể.
Tính khơng thể phân chia, phụ thuộc lẫn nhau: Các quyền con người gắn kết chặt
chẽ với nhau. Các quyền đều có tầm quan trọng như nhau, việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ
quyền nào đều ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển, nhân phẩm, giá trị của con người sự vi
phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đối với việc bảo đảm
quyền khác và ngược lại sự tiến bộ của một quyền sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới
quyền khác trong toàn bộ hệ thống các quyền. Chẳng hạn như trong xét xử vụ án hình sự,
khi quyền bào chữa khơng được đảm bảo thì sẽ ảnh hưởng tới quyền tranh tụng của người
tham gia tố tụng.
2.1.2. Đặc điểm chung đặc thù
Bên cạnh những đặc điểm chung mang tính phổ qt, quyền con người, quyền cơng
dân mang tính đặc thù đối với mỗi quốc gia . Cụ thể:
Quyền con người là giá trị chung của nhân loại: Đặc điểm này khẳng định những

đặc điểm chung, mang tính phổ quát của quyền con người. Quyền con người vừa là sản
phẩm của văn minh nhân loại, vừa là sản phẩm của đấu tranh lâu dài của con người chống
lại áp bức, bóc lột; làm chủ thiên nhiên và tự hồn thỉện chính mình. Ở Việt Nam, nhận thức
về những giá trị của quyền con người, quyền công dân đã được Đảng và Nhà nước tiếp thu
từ rất sớm, các tư tưởng về quyền con người, quyền cơng dân nói chung, quyền con người,
quyền cơng dân trong lĩnh vực tư pháp nói riêng đã được ghi nhận từ bản Hiến pháp đầu
tiên vào năm 1946 và tiếp tục phát triển qua các bản Hiến pháp, sau đó được hồn thiện
trong các quy định của Hiến pháp năm 2013 hiện hành. Nghị quyết của Bộ Chính trị số 01/
N Q-TƯ “Về cơng tác lý luận trong giai đoạn hiện nay” (ngày 28/3/1992, Đảng chủ trương :
3


“Kế thừa và phát huy những; truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong
nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh,
vi lợi ích chân chính và phẩm giá con người (…) Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ,
trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người trái
với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội; Chú trọng nghiên cứu những vấn đề về thời
đại, về chủ nghĩa tư bản hiện đại, về những biến đổi trong các quan hệ quốc tế, về trật tự
thế giới mới, dự báo xu hướng phát triển của thế giới và của khu vực trong những thập kỷ
tới” 1
Trong xã hội có sự phân chia giai cấp đối kháng, quyền con người mang tính giai
cấp. Quyền con người là thành quả của các cuộc đấu tranh đó. Vì vậy, quyền con người
khơng thể khơng mang tính giai cấp. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thủ tiêu chế độ người bóc lột người là nhằm
đem lại quyền lợi cho toàn thể nhân dân lao động. Những người cộng sản không đấu tranh
cho riêng giai cấp của mình mà đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng nhân loại. Nhân dân
Việt Nam thừa nhận những người cộng sản Việt Nam không chỉ là đại biểu trung thành lợi
ích giai cấp cơng nhân mà cịn là đại biểu trung thành lợi ích của nhân dân lao động và của
cả dân tộc Việt Nam
Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc

gia. Trên thực tế, khơng có quyền con người nào tồn tại ngoài quyền dân tộc cơ bản. Thực
thi quyền con người phải dựa trên cơ sở ưu tiên bảo vệ quyền dân tộc tự quyết, chủ quyền
quốc gia. Chỉ ở một nước độc lập thực sự, quyền con người mới được thực thi đầy đủ và có
điều kiện để đảm bảo một cách chắc chắn nhất
Quyền con người gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa của mỗi quốc gia. Quyền con người phát triển không ngừng, gắn liền
với các hình thái kinh tế – xã hội, với nền vân minh nhân loại. Mỗi bước tiến của lịch sử
nhân loại đều đánh dấu nấc thang mới trong nhận thức và việc hiện thực hố các quyền con
người. Ngồi những giá trị phổ biến, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia tuỳ theo chế độ chính trị,
1

Các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.120

4


kinh tế, lịch sử, văn hố dân tộc, tơn giáo có những giá trị riêng khơng ai có thể xâm phạm
được (nếu nó khơng đi ngược lại những giá trị chung của nền văn minh nhân loại) 2.
Quyền con người là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chế độ xã hội chủ nghĩa
là chế độ lý tưởng bảo đảm, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người. Tư tưởng này
đã được ghi nhận cụ thể tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013. Quan điểm của Đảng luôn thể
hiện mối quan hệ giữa dân chủ và thực tế cuộc sống, theo đó dân chủ gắn liền với công
bằng xã hội phải được thể hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội thơng qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra và bằng hình
thức dân chủ trực tiếp; dân chủ đi đơi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hoá bằng
pháp luật và được pháp luật đảm bảo.
Quyền con người phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Quyền con người là
những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Ở Việt Nam, quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được tôn trọng và bảo đảm. Cùng với việc ghi nhận

quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp năm
1946, 1959, 1980, 1992, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi nhiều chính sách bảo đảm quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tham gia hầu hết các điều ước quốc tế
về quyền con người. Trong lĩnh vực tư pháp, quyền con người, quyền công dân được ghi
nhận cho mỗi lĩnh vực của hoạt động tư pháp, trong tố tụng và cả thi hành án.
Quyền con người không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Quyền con
người là sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ công dân, giữa quyền, lợi ích cá nhân với
quyền và lợi ích cộng đồng. Các quyền và lợi ích của cơng dân nước ta luôn được gắn với
nhau, được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật. Công dân Việt Nam được
thực hiện các quyền tự do cá nhân mà pháp luật không cấm, nhưng quyền tự do cá nhân
khơng được xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và cộng đồng, khơng

PGS, TS Nguyễn Hịa Bình, Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chun nghiệp, hiện đại, cơng bằng, nghiêm
minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Tạp chí cơng sản, 23/10/2023,
2

5


được thực hiện các hành vi gây nguy hại đến an ninh quốc gia và trật tự luật pháp xã hội
chủ nghĩa3.
Đối thoại, hợp tác quốc tế là yêu cầu cần thiết, khách quan để bảo vệ, thúc đẩy nhân
quyền, quyền công dân. Việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam được
thực hiện trên cơ sở khơng phải là áp đặt, máy móc, sao chép. Đảng và Nhà nước chủ
trương giải quyết vấn đề quyền con người bằng đối thoại hồ bình và mở rộng hợp tác quốc
tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi. Trên
cơ sở tiếp thu và nhận thức về giá trị, vai trị của quyền con người, Đảng ta ln thống nhất
quan điểm bảo đảm quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt
Nam. Dó đó, bên cạnh những nỗ lực trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người, Đảng và Nhà
nước luôn chú trọng tăng cường hợp tác quốc tế trong giải quyết vấn đề quyền con người,

xây dựng hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế, góp phần xây dựng và hồn thiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người gắn liền với việc bảo vệ và thúc đẩy hòa bình,
ổn định, an ninh, bình đẳng và cuộc sống phồn vinh tại mỗi quốc gia và trên toàn thế giới .
Hiện nay, trước những diễn biến phức tạp liên quan tới việc xuyên tác, phủ định vai trò lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước; cơng kích phân biệt chủng tộc, bất bình đẳng giới,… làm ảnh
hưởng nghiêm trọng tới những thành quả bảo vệ quyền con người của toàn bộ hệ thống
chính trị, Đảng và Nhà nước ta kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và luận điệu lợi dụng
vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước. Đối với các vấn đề
liên quan tới an ninh khu vực, tội phạm xuyên quốc gia gây ảnh hưởng tới quyền con người,
việc giải quyết các vấn đề được tiến hành trên cơ sở hịa bình, thỏa thuận và các văn bản
pháp lý song phương và đa phương mà Việt Nam là thành viên.

Trần Minh Tơn, Quyền con người- Quan điểm và chính sách của Đảng ta, Tạp chí cộng sản, năm 2007,
/>3

6


2.2. Đặc điểm riêng của quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp
2.2.1. Chủ thể có quyền và chủ thể có nghĩa vụ
Đối với quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp, chủ thể có quyền
và mang nghĩa vụ trọng nghĩa vụ là những người tham gia tố tụng và thi hành án để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tư cách chủ thể được xác định phụ thuộc vào từng lĩnh
vực tố tụng:
Trong tố tụng hình sự : Chủ thể có quyền và nghĩa vụ là người bị buộc tội, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người phải thi hành án.
Trong tố tụng dân sự: Chủ thể có quyền và nghĩa vụ đương sự (Nguyên đơn, bị
đơn, ng có quyền lợi và nghĩa vu liên quan), người phải thi hành án, người được thi hành
án.

Trong tố tụng hành chính: Chủ thể có quyền và nghĩa vụ đương sự, người phải thi
hành án, người được thi hành án.
Đối với quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp, chủ thể có quyền và chủ
thể có nghĩa vụ được xác định tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh tham gia hoạt động tư
pháp. Các chủ thể đó là mọi người (bị buộc tội) có quyền bào chữa khi họ tham gia vào
hoạt động tư pháp. Đồng thời cũng có thể là không ai (mọi người đều không) bị bắt nếu
khơng có quyết định của Tồ án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát
nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang- Quyền tất cả mọi người ko bị tham gia vào
hoạt động tư pháp
2.2.2. Phạm vi quyền
Trước hết, phạm vi quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp được
xác định theo phạm vi tố tụng hoặc theo nội dung hoạt động tư pháp. Đó là các những
quyền chung được áp dụng cho mọi lĩnh vực tố tụng, khơng phân biệt loại hình tố tụng
chẳng hạn:
- Quyền được xét xử công bằng, công khai, kịp thời bởi một tịa án độc lập: Cơng ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Mọi người đều có quyền được xét
7


xử cơng bằng và cơng khai bởi một Tịa án có thẩm quyền độc lập... được xét xử mà khơng
bị trì hỗn một cách vơ lý”. Điều 102 Hiến pháp về nhiệm vụ của Tòa án hay Điều 5 Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 cũng ghi nhận nội dung này. Pháp luật về tố tụng cỉa Việt
Nam cũng đều ghi nhận quyền này
+ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Quyền được xét xử công bằng, công khai, kịp thời bởi
một tòa án độc lập được thể hiện tại Điều 15 Xác định sự thật của vụ án, Điều 23 Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và Điều 25 Tòa án xét xử kịp thời,
công bằng, công khai
+ Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Quyền được xét xử cơng bằng, cơng khai, kịp thời bởi
một tịa án độc lập được thể hiện tại Điều 15 Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai
và Điều 16 Bảo đảm sự vô tư, khách quan trong tố tụng dân sự

+ Luật Tố tụng hành chính năm 2015 ( sửa đổi năm 2019- sau đây gọi là Luật Tố tụng hành
chính năm 2015): Quyền được xét xử cơng bằng, cơng khai, kịp thời bởi một tòa án độc lập
được thể hiện tại Điều 16 Tòa án xét xử kịp thời, cơng bằng, cơng khai
-Quyền bình đẳng trước tịa án: Tun ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 ghi
nhận: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình
đẳng, khơng có bất kỳ sự phân biệt nào” (Điều 7). Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966 cũng quy định tương tự về nội dung này tại Điều 14. Hiến pháp Việt
Nam năm 2013 tại Điều 16 ghi nhận nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật;
không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
+ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Quyền bình đẳng trước tịa án được ghi nhận tại Điều
9 Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật
+ Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Quyền bình đẳng trước tịa án được ghi nhận tại Điều 8
Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự
+ Luật Tố tụng hành chính năm 2015: Quyền bình đẳng trước tịa án được ghi nhận tại Điều
17 Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính
8


-

Quyền tranh tụng: Ghi nhận quyền tranh tụng là khâu đột pháo trong cải cách tư

pháp ởViệt Nam so với các mơ hình tố tụng được áp dụng trước đó. Hiến pháp 2013 không
trực tiếp quy định nguyên tắc nhưng ghi nhận Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Cụ
thể hóa Hiến pháp năm 2013, các văn bản pháp luật chuyên ngành đều uy định rất cụ thể về
việc bảo đảm tranh tụng.
+ Luật Tổ chức TAND năm 2014: Nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận tại Điều 13
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho
những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Việc thực hiện
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của luật tố tụng.”

+ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Nguyên tắc tranh tụng được quy định tại Điều 26
Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
+ Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Nguyên tắc tranh tụng được quy định tại Điều 24 Bảo
đảm tranh tụng trong xét xử
+ Luật Tố tụng hành chính năm 2015: Nguyên tắc tranh tụng được quy định tại Điều 18 Bảo
đảm tranh tụng trong xét xử
-

Quyền được xét xử hai lần: Điều 14 công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính

trị 1966 quy định : “ Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền u cầu tồ án
cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật.”
Đồng thời, Hiến pháp 2013 quy Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (Khoản 6
Điều 103). Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND 2014 cũng quy định
tương tự nội dung của Hiến pháp. Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật
Tố tụng hành chính hiện hành cũng gián tiếp ghi nhận về quyền kháng cáo, kháng nghị bản
án sơ thẩm của các chủ thể cso quyền do pháp luật ghi nhận.
-

Quyền được khiếu nại, tố cáo, quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần,

được phục hồi danh dự: Quyền khiếu nại, quyền tố cáo là những quyền cơ bản của công
dân, được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Điều 30 Hiến pháp 2013
quy định rõ: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
9


quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Bên cạnh đó khoản
5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định về quyền được bồi thường thiệt hại trong tư
pháp “ Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái

pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự.
Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật” Cụ thể hóa tinh thần của
Hiến pháp, các văn bản pháp luật cũng ghi nhận về quyền này.
+ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Quyền được khiếu nại, tố cáo được ghi nhận tại Điều
32 và quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần, được phục hồi danh dự được
ghi nhận tại Điều 31.
+ Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Quyền được khiếu nại, tố cáo được ghi nhận tại Điều
25
+ Luật tố tụng hành chính năm 2015: Điều 28 của Luật cũng ghi nhận về Bảo đảm quyền
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính. Ngồi ra, tại Điều 327 của Luật cũng liệt kê các
Quyết định, hành vi trong tố tụng hành chính có thể bị khiếu nại; tồn bộ chương XXI của
Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định đầy đủ các vấn đề liên quan tới khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hành chính.
Bên cạnh các quyền chung, phạm vi quyền con người, quyền cơng dân trong lĩnh vực
tư pháp cịn bao gồm các quyền đặc thù trong mỗi lĩnh vực tố tụng, thi hành án. Đây là
quyền của chẳng hạn như:
Trong tố tụng hình sự : Quyền suy đốn vơ tội; quyền bào chữa; quyền không bị khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và kết án hai lần vì một tội phạm; quyền của người bị tạm giữ,
tạm giam, quyền của người chấp hành án phạt tù…
Trong tố tụng phi hình sự: Quyền khởi kiện u cầu tịa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mọi người; quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự,
quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện trong tố tụng hành chính; quyền chủ

10


động thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ và chứng minh của đương sự; quyền giải quyết
tranh chấp thông qua hòa giải, đối thoại trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính
3. Tác động của bối cảnh cải cách tư pháp đến việc bảo đảm quyền con người, quyền

công dân trong lĩnh vực tư pháp
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng mà Đảng, Nhà nước hướng tới
trong q trình hồn thiện và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Trước đó, việc triển khai
thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến
lược cải cách tư pháp năm 2020 đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng
cao vị thế, diện mạo, uy tín và kết quả hoạt động của Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử,
từ đó bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp. Gần
đây, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09- 11-2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã nhấn mạnh xây dựng nền tư
pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc,
phục vụ Nhân dân nhân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn sắp tới.
Nghị quyết đặt mục tiêu phải đạt đến năm 2030, đó là: “Hồn thành cơ bản việc xây dựng
nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của tổ chức, cá nhân”. Nhìn chung, các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà
nước trong giai đoạn hiện tại và định hướng giai đoạn sắp tới có tác động tích cực trong
việc bảo đảm, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân; tạo cơ hội thụ hưởng một cách
tốt nhất các quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp. Cụ thể:
Thứ nhất, bối cảnh cải cách tư pháp nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ tư
pháp về bảo đảm quyền con người, quyền công dân và tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thúc
đẩy, đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp. Cải cách tư pháp
đặt ra yêu cầu đối với q trình hồn thiện pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật phải bám
sát mục tiêu, yêu cầu để thể chế hóa đầy đủ, cụ thể trong các đạo luật. Đồng thời sắp xếp,
hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp; tăng cường các điều kiện bảo đảm; đào tạo,
nâng cao năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm của đội ngũ các chức danh tư pháp ngang tầm
11


nhiệm vụ. Qua đó, cải cải cách tư pháp nâng cao nhận thức, tinh thần trách nghiệm, đảm

bảo kỷ cương, kỷ luật của đội ngũ cán bộ, công chức, quản lý tư pháp trong nhận thức về
vai trò và đảm bảo quyền con người, quyền cơng dân nói chung và quyền con người, quyền
công dân trong lĩnh vực tư pháp nói riêng; đồng thời nhấn mạnh vai trị nguồn lực về vật
chất, con người cũng như các điều kiện bảo đảm khác để phát triển hệ thống tư. Bằng việc
xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp, Nghị quyết
số 27-NQ/TW yêu cầu: “Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn
quyền tư pháp;..., quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công
dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những
trường hợp tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”. Đây là yêu cầu thiết yếu
nhằm làm rõ và quy định chi tiết về quyền tư pháp của tòa án, trên cơ sở đó xác định thẩm
quyền của tịa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp đã được khẳng định trong
Hiến pháp năm 2013 .
Không những vậy, bối cảnh cải cách tư pháp tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thúc đẩy,
đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp. Cải cách tư pháp đặt ra
yêu cầu đối với q trình hồn thiện pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật phải bám sát
mục tiêu, yêu cầu để thể chế hóa đầy đủ, cụ thể trong các đạo luật. Đồng thời sắp xếp, hoàn
thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp; tăng cường các điều kiện bảo đảm; đào tạo, nâng
cao năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm của đội ngũ các chức danh tư pháp ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ hai, bối cảnh cải cách tư pháp cùng với định hướng, chiến lược cải cách tư
pháp góp phần nâng cao hoạt động của tòa án và các cơ quan tư pháp ngày theo hướng
hiệu quả, chuyên nghiệp. Theo đó, nội dung quan trọng của cải cách tư pháp ở Việt Nam là
đảm bảo tính độc lập của Tòa án. Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra yêu cầu “bảo đảm tính
độc lập của tịa án theo thẩm quyền xét xử; thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”. Nguyên tắc bảo đảm sự độc lập của tòa án trên 2 phương diện: Một là, bảo
đảm tính độc lập của tịa án theo thẩm quyền xét xử, độc lập giữa các cấp xét xử; hai là, bảo
đảm thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Bản án, quyết định của
Tòa án tác động trực tiếp đến những quyền thiêng liêng, cơ bản, liên quan đến danh dự,
12



nhân phẩm, lương tâm, sinh mệnh chính trị, tài sản của con người. Chính vì lẽ đó, các u
cầu về tính độc lập của Tịa án là cơ sở quan trọng đảm bảo quyền con người, quyền công
dân trong lĩnh vực tư pháp thông qua hoạt động xét xử và ra các phán quyết có hiệu lực
pháp luật.
Ngồi đảm bảo sự độc lập của Tòa án, cải cách tư pháp còn đề cập tới sự độc lập của
thẩm phán, hội thẩm khi xét xử. Đây là sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm với các chủ
thể khác bên ngoài hội đồng xét xử, cũng như độc lập ngay giữa các thành viên trong hội
đồng xét xử. Thẩm phán, hội thẩm cũng độc lập với nhau khi đưa ra quan điểm, ý kiến,
quyết định mà không phụ thuộc vào thành viên khác trong hội đồng xét xử. Từ trước đến
nay, sự có mặt của Hội thẩm nhân dân với tư cách là người đại diện cho nhân dân tham gia
phiên tịa có vai trị quan trọng trong giám sát hoạt động xét xử của Tịa án, đồng thời góp
phần bảo đảm việc xét xử đúng đường lối, chính sách và pháp luật, nhằm bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Với định hướng nâng cao tinh thần trách nhiệm và đề cao
sự độc lâp của Hội thẩm nhân dân, hoạt động xét xử sẽ đảm bảo độc lập, vơ tư, khách quan,
góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân
Thứ ba, cải các tư pháp nâng cao nhận thức, tạo điều kiện tiếp cận, thực hiện
quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp của người dân một cách dễ
dàng, hiệu quả. Bên cạnh việc xây dựng một nền tư pháp chuyên nghiệp hiện đại, nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội, cải cách tư pháp còn hướng tới giá trị là phục vụ
nhân dân. Chính vì vậy, bối cảnh cải cách tư pháp tạo ra những thuận lợi cho việc tiếp cận,
thụ hưởng và thực hiện quyền con người, quyền công dân một cách hiệu quả nhất. Trước
hết, các chủ trương, chính sách và định hướng cải cách tư pháp trong bối cảnh hiện này
được tuyên truyền một cách rộng rãi, công khai trong phạm vi cả nước, trên nhiều nền tảng,
phương tiện thông tin đại chúng đã góp phần nâng cao nhận thức của người dân về quyền
lợi của mình khi tham gia vào các hoạt động tư pháp, bao gồm hoạt động tố tụng và thi hành
án. Mặt khác, chủ trương về mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử vi phạm hành
chính, một số loại việc xử phạt vi phạm hành chính, biện pháp xử lý hành chính thuộc thẩm
13



quyền của cơ quan hành chính đã được chuyển cho tịa án xem xét, quyết định nhằm tăng
cường tính cơng khai, minh bạch, dân chủ, pháp quyền trong quá trình xử lý, nhằm bảo vệ
tốt hơn quyền con người, quyền cơng dân. Ngồi ra, việc tiếp tục đẩy mạnh việc phát triển
tòa án điện tử trên các phương diện cũng tác động tích cực, vừa thúc đẩy, vừa đảm bảo thực
hiện quyền con người, quyền công dân. Thông qua các hoạt động xây dựng tòa án điện tử
hướng tới thực thi và nâng cao năng lực quản trị tòa án trên nền tảng số; xây dựng tòa án
điện tử để cung cấp các dịch vụ tư pháp công, nhằm phục vụ người dân tốt hơn; xây dựng
tòa án điện tử để triển khai các hoạt động tố tụng trực tuyến, như nộp đơn khởi kiện, cung
cấp chứng cứ, khai báo trực tuyến; tổ chức trực tuyến các phiên hòa giải; xét xử trực
tuyến... góp phần tăng cường tính cơng khai, minh bạch trong hoạt động của tòa án, giúp
cho việc theo dõi, giám sát hoạt động của nhân dân với cơ quan nhà nước được dễ dàng, hạn
chế các sai phạm phát sinh trong quá trình tố tụng làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích nhân
dân.

KẾT LUẬN
Các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành đã thể chế hóa được những nguyên
tắc hiến định được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế liên quan
đến quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp mà Việt Nam là thành viên.
Tuy nhiên, việc thúc đẩy và đảm bảo tốt hơn những quyền này khơng chỉ địi hỏi ở quy định
pháp luật mà cần có sự tuân thủ chặt chẽ từ các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước, nhất
là trong hoạt động của các cơ quan tư pháp.Trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới, bối
cảnh, định hướng và nội dung chiến lược cải cách tư pháp sẽ có sự ảnh hưởng và tác động
tới nhiều chủ thể và hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan tư pháp
trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới chủ
thể hưởng quyền.

14



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Chủ biên: Thái
Vĩnh Thắng, Tơ Văn Hồ ; Lê Minh Tâm, NXB Tư pháp, 2019
2. Các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội, tr.120
3. PGS, TS Nguyễn Hịa Bình, Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp,
hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân,
Tạp chí công sản, 23/10/2023,
4. Trần Minh Tơn, Quyền con người- Quan điểm và chính sách của Đảng ta, Tạp chí
cộng sản, năm 2007, />
15



×