Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đường lối cách mạng Việt Nam sau năm 1954 và làm rõ vai trò “quyết định nhất” của hậu phương Miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.45 KB, 20 trang )

Đề tài 5: Đường lối cách mạng Việt Nam sau năm 1954 và làm rõ vai trò
“quyêt định nhất” của hậu phương Miền Bắc trong kháng chiên chống
My.


MỞ ĐẦU
Kể từ năm 1954, sau sự kiện Điện Biên Phủ và Hội nghị Geneva,
Việt Nam đã chứng kiên sự ra đời của một đường lối cách mạng mới, mở
đầu cho giai đoạn kháng chiên chống My, một cuộc chiên tranh lớn mà
đất nước phải đối mặt. Đường lối này không chỉ thể hiện sự tiêp tục của
nền cách mạng Việt Nam sau thời kỳ chiên tranh chống Pháp mà cịn
phản ánh sự thích ứng với bối cảnh quốc tê mới và những thách thức mới
mà nước ta đối diện. Trong ngữ cảnh này, vai trò của hậu phương Miền
Bắc trở thành yêu tố quyêt định nhất, đóng góp quan trọng vào sự thành
công của kháng chiên chống My.
Phải thực hiện quyêt liệt và toàn diện, cuộc kháng chiên chống My
khơng chỉ u cầu sự hy sinh và đồn kêt của những chiên sĩ trên chiên
trường mà còn đặt ra những thách thức lớn về quản lý và xây dựng hậu
phương. Hậu phương Miền Bắc, được lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản Việt
Nam, đã đóng vai trị "qut định nhất" trong việc cung cấp nguồn lực và
hỗ trợ tất cả các mặt trận, tạo nên sự đồng lòng và sức mạnh tinh thần
quyêt chiên của toàn dân tộc Việt Nam. Như vậy, trong tiểu luận này,
chúng ta sẽ đi vào phân tích chi tiêt về vai trị "qut định nhất" của hậu
phương Miền Bắc trong kháng chiên chống My, làm sáng tỏ đường lối
cách mạng của Việt Nam sau năm 1954 và những thách thức mà nước ta
đã vượt qua để bảo vệ độc lập và tự do.


NỘI DUNG
I. Cơ sơ ly luân
1. Hoàn canh lich sư


Sau Hiệp định Gioneve 1954, đất nước Việt Nam bị chia làm hai miền.
Cuộc chuyển quân tậpkêt đã làm thay đổi tình hình. Lực lượng cách mạng
đang phát triển thuận lợi trên phạm vi toàn cục,nay tập trung ra miền Bắc,
thê và lực lượng cách mạng lớn mạnh ở miền Bắc nhưng vơ cùng bất lợi
ởmiền Nam. Trong khi đó lực lượng Pháp và các phe phái chính trị phản
động trên toàn quốc dồn cảvề miền Nam, mang theo tâm trạng thua cuộc,
hận thù, muốn tìm chỗ dựa mới, đó là cơ hội để My nhảy vào miền Nam
hất cẳn Pháp, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới.
Ngày 10-10-1954, quân Pháp rút khỏi Hà Nội. Cùng ngày, quân ta tiên
vào tiêp quản. Thủ đơgiải phóng rợp cờ, hoa, biểu ngữ, vang dậy tiêng
hoan hơ của đồng bào mừng đón đồn qn chiên thắng trở về. Ngày 1-11955, tại quảng trường Ba Đình lịch sử đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể
của hàngchục vạn nhân dân Hà Nội chào mừng Trung ương Đảng, Chính
phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Thủ đơ. Ngày 16-5-1955, tốn lính Pháp
cuối cùng rút khỏi Hải Phịng, và đên ngày 22-5-1955 thì rút khỏi đảo Cát
Bà. Miền Bắc nước ta hồn tồn giải phóng. Khi rút quân, Pháp mang
theo hoặc trước đó đã phá hỏng nhiều máy móc, thiêt bị, tài sản để gây
khó khăn cho ta. Pháp cịn cùng với My và Ngơ Đình Diệm chỉ đạo bọn
phản động tiên hành dụ dỗ,cưỡng ép nhiều đồng bào công giáo vào Nam
để thực hiện ý đồ phung phá cách mạng về sau.
Với những hoạt động xây dựng chủ nghĩa thực dân mới, tấn công đánh
phá lực lượng và phong trào cách mạng, trong mấy năm 1954 - 1959 My
- Diệm đã biên miền Nam Việt Nam từ một chiêntrường chống chủ nghĩa
thực dân thành một chiên trường phản kích lại các lực lượng cách mạng.


Âmmưu chiên lược của My là biên miền Nam Việt Nam thành thuộc địa
kiểu mới, thành căn cứ quân sự,một bàn đạp để tấn công miền Bắc và phe
xã hội chủ nghĩa từ phía Nam, ngăn chặn sự bành trướngcủa chủ nghĩa
cộng sản đang lan tràn xuống vùng Đông Nam Á.
Ngày 23-7-1954, ngoại trưởng My Đa lét (Dulles) tuyên bố: "Từ nay về

sau, vấn đề bức thiêtkhông phải là than tiêc dĩ vãng, mà là lợi dụng thời
cơ để việc thất thủ miền Bắc Việt Nam không mở đường cho chủ nghĩa
cộng sản bành trướng ở Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương".
Tháng 9-1954, My lơi kéo được một số đồng minh như Pháp, Anh... và
một số nước Đông Nam Á lập ra khối "Liên minh quân sự Đông - Nam
Á" (SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Namdưới sự bảo trợ của
khối này. - Chính quyền Ngơ Đình Diệm, với sự giúp đỡ và có sự chỉ đạo
của My, ra sức phá hoại Hiệp địnhGionevo, từ chối hiệp thương với
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà về việc tổ chức tổng tuyểncử tự
do trong cả nước để thống nhất Việt Nam trong thời hạn hai năm theo
điều khoản của Hiệp định.
Đên hạn hai năm, tháng 7-1956, Diệm tun bố. "Sẽ khơng có hiệp
thương tổng tuyển cử, vì chúng ta khơng ký Hiệp định Giơnevơ, bất cứ
phương diện nào chúng ta cũng không bị ràng buộc bởi Hiệp định đó".
Bằng một loạt hành động trái với hiệp định, như bầy trò "trưng cầu dân ý"
để phêtruất Bảo Đại rồi suy tơn Ngơ Đình Diệm làm Tổng thống (tháng
10-1955), tổ chức bầu cử riêng rẽ,lập quốc hội lập hiên (tháng 5 -1956),
ban hành hiên pháp của cái gọi là "Việt Nam cộng hoà" (tháng10 - 1956),
Diệm đã trắng trợn từ chối và phá hoại việc thống nhất Việt Nam.
My đã thi thố ở Việt Nam 4 chiên lược chiên tranh, ứng dụng từ 3 lần
thay đổi chiên lược toàn cầu, do 5 đời tổng thống kê tiêp nhau thực hiện


từ năm 1953 đên năm 1975. Đó là sự lựa chọn đúngnơi, đúng lúc, đúng
đối tượng tiên hành chiên tranh của My. Chưa bao giờ My huy động được
sứcmạnh của cả nước My cùng các nước phe My, trên các lĩnh vực kinh
tê, chính trị, văn hóa, khoa họcky thuật và quân sự như là trong thời kỳ họ
tiên hành chiên tranh Việt Nam. Ý chí và quyêt tâm củaMy khi đánh Việt
Nam không phải chỉ nhằm khuất phục một dân tộc, dập tắt một ngọn lửa
đấu tranhvì độc lập tự do, mà còn nhằm đe dọa nhiều nước khác, đồng

thời thể nghiệm sức mạnh của Hoa Kỳ trong nửa cuối thê kỷ XX.
2. Nôi dung đương lôi
Nội dung đường lối kháng chiên chống My, cứu nước trong giai đoạn
mới là sự kê thừa và phát triển sáng tạo đường lối chiên lược chung của
cách mạng Việt Nam đã được Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ III (1960),
gồm các nội dung lớn là:
Quyêt tâm chiên lược: Mặc dù đê quốc My đưa vào miền Nam hàng chục
vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không
thay đối lớn, cuộc chiên tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta
đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững thê chủ động trên chiên trường; cuộc
"Chiên tranh cục bộ" mà My đang tiên hành ở miền Nam vẫn là một cuộc
chiên tranh xâm lược thực dân mới. Cuộc chiên tranh đó được đề ra trong
thê thua, thê thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về
chiên lược; My khơng thể nào cứu vẫn được tình thê nguy khốn, bê tắc
của chúng ở miền Nam. Từ sự phân tích và nhận định trên, Trung ương
khẳng định chúng ta có đủ điều kiện và sức mạnh để đánh My và thắng
My. Với tinh thần "Quyêt tâm đánh thắng giặc My xâm lược", Đảng
quyêt định phát động cuộc kháng chiên chống My, cứu nước trong toàn
quốc, coi chống My, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ
Nam chí Bắc.


Mục tiêu chiên lược: Kiên quyêt đánh bại cuộc chiên tranh xâm lược của
đê quốc My trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong
cả nước, tiên tới thực hiện hịa bình, thống nhất nước nhà.
Phương châm chiên lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng
đánh càng mạnh; cần phải cố gắng đên mức độ cao, tập trung lực lượng
của cả hai miền để mở những cuộc tiên công lớn, tranh thủ thời cơ giành
thắng lợi quyêt định trong thời gian tương đối ngắn trên chiên trường

miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thê tiên công,
kiên quyêt tiên công và liên tục tiên công. Tiêp tục kiên trì phương châm
kêt hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba
mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiên lược. Trong giai đoạn này,
đấu tranh quân sự có tác dụng quyêt định trực tiêp và giữ một vị trí ngày
càng quan trọng.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tê, bảo
đảm tiêp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tê và quốc phịng
trong điều kiện có chiên tranh, tiên hành cuộc chiên tranh nhân dân chống
chiên tranh phá hoại của đê quốc My để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã
hội chủ nghĩa, động viên sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện
cho cuộc chiên tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị
đề phịng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng
"Chiên tranh cục bộ" ra cả nước.
Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Trong cuộc chiên
tranh chống My của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyên lớn, miền


Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo
vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của
cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là thành quả chung rất to lớn của
nhân dân cả nước ta, là hậu phương vững chắc trong cuộc chiên tranh
chống My. Phải đánh bại cuộc chiên tranh phá hoại của đê quốc My ở
miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt, nhất là
về kinh tê và quốc phòng, nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam,
đồng thời, vừa tiêp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phát huy vai trò
đắc lực của hậu phương lớn đối với tiền tuyên lớn. Hai nhiệm vụ trên đây
khơng tách rời nhau mà gắn bó mật thiêt với nhau. Đê quốc My xâm lược
Việt Nam, thì bất kỳ chúng đặt chân ở đâu trên đất nước Việt Nam, mọi

người Việt Nam đều có nghĩa vụ tiêu diệt chúng. Khẩu hiệu chung của
nhân dân cả nước lúc này là "Tất cả để đánh thắng giặc My xâm lược".
Nghị quyêt Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 với nội dung
như trên thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, tiêp tục tiên hành đồng thời hai chiên lược cách
mạng của Đảng và quyêt tâm đánh thắng giặc My xâm lược, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta. Đó là đường lối chiên
tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính
trong hồn cảnh mới, cơ sở để Đảng lãnh đạo đưa cuộc kháng chiên
chống My, cứu nước đi tới thắng lợi vẻ vang.
II. Vân dụng
1. Làm ro vai tro quyết đinh nhât cua Miền Băc
Hậu phương là nơi dự trữ tiềm lực của chiên tranh cả về chính trị, kinh tê,
qn sự, văn hóa, xã hội, khoa học - ky thuật, là nguồn chi viện nhân lực,
vật lực, là chỗ dựa tinh thần, nơi cổ vũ động viên chiên thắng của tiền


tuyên, là nhân tố hêt sức quan trọng, mang tính quyêt định sự thành bại
của chiên tranh.
Xuất phát từ vị trí, vai trị của hậu phương, sau thắng lợi của cuộc kháng
chiên chống thực dân Pháp (năm 1954), Đảng ta chủ trương thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ chiên lược: Tiên hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc không chỉ có mục tiêu xây dựng đời
sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ta ở miền Bắc mà còn nhằm xây
dựng, củng cố căn cứ địa hậu phương chung của cả nước để tiên hành giải
phóng miền Nam. Trong quan điểm chỉ đạo, Đảng ta luôn thống nhất:
phải xây dựng miền Bắc thành hậu phương chiên lược vững mạnh toàn
diện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, kinh tê, quốc phịng, văn hóa,
giáo dục, kêt hợp giữa xây dựng và và bảo vệ vững chắc hậu phương.

Xây dựng hậu phương vững mạnh về chính trị tư tưởng là vấn đề cốt lõi
và xun suốt tồn bộ q trình cách mạng. Bác Hồ chỉ rõ, muốn xây
dựng được hậu phương vững mạnh, vấn đề đầu tiên là phải xây dựng lực
lượng chính trị, lấy xây dựng lực lượng chính trị là then chốt. Người còn
khẳng định chỗ dựa vững chắc nhất của cách mạng là lòng yêu nước,
lòng trung thành vô hạn của nhân dân đã giác ngộ đối với sự nghiệp giải
phóng đất nước.
Xuất phát từ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, với
đường lối chiên tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cường,
Đảng ta luôn quan tâm chăm lo phát triển tổ chức đảng, tăng cường sự
lãnh đạo tập trung thống nhất. Thực tê đã chứng minh, nơi nào có tổ chức
đảng mạnh thì hậu phương phát huy được sức mạnh, huy động được sức
mạnh vật chất, tinh thần cho chiên trường. Đi đôi với xây dựng Đảng là


vấn đề khơng ngừng củng cố, tăng cường và hồn thiện hệ thống chính trị
các cấp, làm cho hệ thống chính quyền các cấp thực sự có đủ trình độ và
năng lực điều hành, tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ xây dựng
hậu phương chiên lược, động viên sức mạnh cho chiên trường.
Tăng cường xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa đủ sức là hậu phương
lớn đối với tiền tuyên lớn, Đảng ta xác định rõ sức mạnh của chiên tranh
nhân dân là sức mạnh tinh thần, vật chất của toàn dân, hậu phương vững
chắc là nhân tố quyêt định thắng lợi của chiên tranh. Tháng 12-1957, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (khóa II) đã xác định
đường lối của Đảng về xây dựng hậu phương trong điều kiện mới. Đảng
ta đã nêu phương hướng kêt hợp chặt chẽ xây dựng kinh tê với củng cố
quốc phịng để vừa có thể nhanh chóng phát triển kinh tê vừa củng cố
quốc phòng ngày càng mạnh mẽ, làm tròn được nhiệm vụ hậu phương đối
với cuộc chiên tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa 2 (năm 1955) nhận định, miền

Bắc là chỗ đứng của ta, bất kể trong tình hình nào miền Bắc cũng phải
được củng cố. Hội nghị nhấn mạnh, muốn thống nhất nước nhà, điều cốt
yêu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh
cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam… Đường lối củng cố miền Bắc
của ta là củng cố và phát triển chê độ dân chủ nhân dân tiên dần từng
bước vững chắc đên chủ nghĩa xã hội…
Tại Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất tồn quốc (9-1955), Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ, miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của
nhân dân ta, nền có vững nhà mới chắc, gốc có mạnh cây mới tốt. Đại hội
đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960) chủ trương tiên hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc - cuộc cách mạng gắn bó chặt chẽ với


cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyêt định nhất đối
với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng chung cả nước. Năm
1965, khi đê quốc My dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc,
Trung ương Đảng tiêp tục xác định, miền Nam vẫn là tiền tuyên lớn,
miền Bắc vẫn là hậu phương lớn, nhưng nhiệm vụ của miền Bắc là vừa
xây dựng, vừa trực tiêp chiên đấu, vừa chi viện cho tiền tuyên miền Nam.
Muốn hậu phương chiên lược vững mạnh không thể thiêu tiềm lực kinh tê.
Xây dựng hậu phương về kinh tê là một lĩnh vực quan trọng có ý nghĩa
quyêt định trong vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiên. Nêu
coi tiềm lực chính trị là cơ sở thì tiềm lực kinh tê là điều kiện thúc đẩy
tiềm lực quốc phòng. Quy luật chiên tranh là chiên tranh phụ thuộc vào
kinh tê, vào trình độ sản xuất và quan hệ sản xuất. Việt Nam tiên hành
chiên tranh trong điều kiện lâu dài, tự lực cánh sinh là chính nên phải coi
trọng chuẩn bị hậu phương về kinh tê. Kinh tê có phát triển, hậu phương
mới có thể đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu ngày càng lớn của chiên
tranh, mới đủ sức đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh để đi đên thắng lợi
cuối cùng. Mặt khác, kinh tê có phát triển mới có điều kiện nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần cho nhân dân ở hậu phương mới duy trì và bồi
dưỡng được sức dân trong điều kiện chiên tranh ác liệt kéo dài. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực khơng ngừng của tồn qn, tồn dân,
năm 1965, hậu phương miền Bắc xây dựng được 18.600 hợp tác xã bậc
cao, trên 90% hộ nông dân vào hợp tác xã, “Gần 700 hợp tác xã đạt năng
suất 5 tấn thóc trên một héc-ta mỗi năm. Về cơng nghiệp, tồn miền Bắc
có 1.132 xí nghiệp, trong đó có 205 xí nghiệp trung ương. Tỷ trọng công
nghiệp trong tổng sản phẩm công - nông nghiệp từ 42,4% năm 1960 lên
53% năm 1965. 90% hàng tiêu dùng thiêt yêu và một phần tư liệu sản
xuất do các ngành công nghiệp trung ương và địa phương đảm bảo.


Ngồi ra, hệ thống giao thơng vận tải, bưu điện cũng được mở rộng và
nâng cấp được trang bị thêm phương tiện, máy móc, thiêt bị mới”.
Trong điều kiện đất nước cịn nghèo, trình độ sản xuất thấp, kêt cấu hạ
tầng kém phát triển, chiên tranh tàn phá liên miên thì xây dựng kinh tê
hậu phương càng được đặt ra một cách bức thiêt, địi hỏi phải có đường
lối đúng đắn và chính sách phù hợp. Với tinh thần tự lực, tự cường, Đảng
ta coi phát triển sản xuất và thực hành tiêt kiệm là quốc sách căn bản để
khôi phục kinh tê, nâng cao đời sống nhân dân, phục vụ u cầu kháng
chiên.
Thành tựu đó cịn thấp so với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, nhưng trong
hoàn cảnh miền Bắc vừa phải đương đầu với chiên tranh phá hoại của đê
quốc My, vừa cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyên, cùng đồng bào
miền Nam đánh giặc cứu nước, vừa phải làm nghĩa vụ quốc tê thì những
thành tựu đạt được như vậy là rất lớn lao.
Sức mạnh của hậu phương không chỉ về kinh tê mà cịn gồm qn sự.
Cơng cuộc xây dựng qn sự ở hậu phương được Đảng ta thường xuyên
quan tâm. Bộ đội chủ lực miền Bắc từ 16 vạn (năm 1960) tăng lên 27 vạn
(năm 1965). Bộ đội địa phương tăng từ 18.000 (năm 1959) lên 46.000

(năm 1965). Năm 1962, có gần 1 triệu người đăng ký ngạch dự bị.
Sản xuất quốc phòng ở hậu phương miền Bắc cũng hêt sức được coi trọng.
Khi mới giải phóng, với nền cơng nghiệp nhỏ bé, Đảng ta kịp thời chỉ đạo
chuyển hướng sản xuất phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, lấy nhiệm vụ sản
xuất ra các mặt hàng quân trang, quân dụng cung cấp cho chiên trường,
như đạn dược, thuốc men, vải mặc… làm trọng. Được sự giúp đỡ của
Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em, nền cơng nghiệp quốc phịng


của miền Bắc ngày càng phát triển. Nhiều nhà máy được đầu tư, nâng cấp
đã sản xuất ra một số chủng loại vũ khí bộ binh, trang thiêt bị phụ tùng và
các mặt hàng quốc phòng thiêt yêu đáp ứng nhu cầu của các quân chủng,
binh chủng và sự phát triển nhanh của các đơn vị bộ đội chủ lực.
Cùng với việc chỉ đạo toàn quân, toàn dân xây dựng hậu phương vững
mạnh về kinh tê, quốc phòng, Đảng ta hêt sức coi trọng xây dựng, phát
triển văn hóa, giáo dục y tê. Miền Bắc đã tập trung xóa nạn mù chữ trên
tồn quốc, phát triển giáo dục phổ thơng. “So với năm 1954 - 1955, đên
năm 1964, số học sinh phổ thông tăng gấp 3,5 lần”. Dưới thời bị thực dân
Pháp thống trị, 95% dân số Việt Nam mù chữ thì “trong năm học 1965 1966, số học sinh đên trường đạt 4.969.000 người, đạt tỷ lệ cứ 4 người
dân miền Bắc có 1 người đi học”. Do vậy, trình độ học vấn của bộ đội và
nhân dân khơng ngừng được nâng lên, làm cho nhận thức về nhiệm vụ
cách mạng, tình hình thê giới và trong nước đạt kêt quả rõ rệt; đồng thời,
khả năng làm chủ vũ khí ky thuật của bộ đội các cấp cũng được nâng lên
nhiều lần. Nhờ đó, việc động viên tồn dân tham gia kháng chiên, xây
dựng và bảo vệ hậu phương thêm thuận lợi.
Kẻ thù ln tìm cách phá hoại hậu phương chiên lược của ta, hòng thu
hẹp, gây rối loạn, mất ổn định, làm giảm sức mạnh chi viện, hậu thuẫn
cho chiên trường. Cùng với các thủ đoạn quân sự, địch cịn dùng các thủ
đoạn chính trị, kinh tê, văn hóa, tư tưởng rất thâm độc, tinh vi và xảo
quyệt. Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng ta đã xác định, việc bảo vệ tốt địa

bàn là cơ sở để bảo đảm cho hậu phương có một đời sống kinh tê - xã hội
ổn định, nhân dân phấn khởi tin tưởng là điều kiện để tiên hành kiên thiêt
hậu phương và huy động sức mạnh cho chiên trường. Ngược lại, khi nào
hậu phương khơng giữ được ổn định chính trị - xã hội, không bảo vệ
vững chắc địa bàn, cuộc sống nhân dân bị đe dọa thì khi đó, khơng thể tập


trung sức lực và trí tuệ, khơng thể tạo nên sức mạnh to lớn chi viện cho
chiên trường. Trong hai lần chống chiên tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân của đê quốc My, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi hơn 4.000
máy bay các loại; bắn cháy, bắn chìm hàng trăm tàu chiên; tiêu diệt và bắt
sống hàng chục tốn gián điệp, biệt kích, thám báo để bảo vệ vững chắc
hậu phương. Nhờ bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc trong suốt hai
cuộc chiên tranh phá hoại của đê quốc My đã góp phần giữ vững sức
mạnh chính trị, kinh tê, văn hóa, bảo đảm chi viện liên tục cho chiên
trường, đồng thời cổ vũ bộ đội ở tiền tuyên hăng hái chiên đấu lập nhiều
chiên công.
Nhận thức rõ hậu phương chiên lược là nhân tố quyêt định thắng lợi của
chiên tranh, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm và chỉ đạo thực
hiện chính sách hậu phương, coi đây là nhân tố để phát huy sức mạnh của
hậu phương chiên lược. Chính sách hậu phương được thể hiện ở chê độ
ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình quân nhân, gia đình
có cơng với cách mạng, chê độ đối với những người tham gia chiên đấu,
phục vụ chiên đấu trên các mặt trận, chê độ đối với thanh niên xung
phong, bộ đội xuất ngũ trở về hậu phương. Chính sách hậu phương còn
hướng tới tất cả quần chúng nhân dân - những người đang trực tiêp ngày
đêm xây dựng và bảo vệ hậu phương - nhằm không ngừng động viên và
bồi dưỡng sức dân trong kháng chiên…. Với tư tưởng xuyên suốt: huy
động sức dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân, uống nước nhớ nguồn, ăn quả
nhớ người trồng cây đầy tính nhân văn, nghĩa tình và đạo lý của Đảng và

Nhà nước, đã góp phần củng cố sức mạnh của hậu phương, tăng cường
niềm tin và ý chí chiên đấu giành thắng lợi cho quân và dân cả nước.
Hướng ra tiền tuyên, ở khắp nơi, nhân dân miền Bắc thực hiện mỗi người
làm việc bằng hai, không ngừng đưa lực lượng, phương tiện và vật chất


vào chiên trường miền Nam với tinh thần tất cả vì tiền tun “thóc khơng
thiêu một cân, qn khơng thiêu một người”, “xe chưa qua nhà không
tiêc”, vừa chi viện cho tiền tuyên vừa tiêp tục đẩy mạnh sản xuất xây
dựng tiềm lực và giữ vững sự ổn định hậu phương, chăm lo thực hiện
chính sách hậu phương quân đội.
Phát huy vai trò của hậu phương chiên lược, miền Bắc đã không ngừng
vươn lên, chi viện liên tục sức người, sức của cho chiên trường miền
Nam và các mặt trận khác, đáp ứng yêu cầu tác chiên ngày càng cao của
chiên trường.
Về tiêp tê cho chiên trường miền Nam, theo con số thống kê chưa đầy đủ,
hậu phương miền Bắc đã giao cho các chiên trường từ năm 1959 đên năm
1975 gần 700.000 tấn vật chất (gấp 2 lần số lượng vật chất khai thác tại
chỗ), trong đó có trên 180.000 tấn vũ khí trang bị ky thuật. Năm 1959,
miền Bắc đưa vào miền Nam 5.000 người, năm 1964 là 17.000 người,
năm 1968 là 141.000 người, năm 1972 là 153.000 người, năm 1975 là
117.000 người.
Thực tê cho thấy, để có 1 tấn lương thực vào đên chiên trường Trị Thiên,
hậu phương miền Bắc phải chuẩn bị 8 tấn; để có 1 tấn vào Khu 5 và chiên
trường Tây Nguyên, hậu phương miền Bắc phải chuẩn bị 12 tấn, đó là
chưa kể đên sự hy sinh xương máu của bộ đội, dân công làm công tác vận
chuyển.
Để vận chuyển hàng chi viện cho miền Nam, hậu phương miền Bắc đã
tập trung củng cố phát triển hệ thống đường giao thông đường bộ, đường
thủy, đường sắt,… huy động mọi năng lực vận tải, năng lực giao thông để

tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm khối lượng vận chuyển kịp thời,


đầy đủ, vững chắc. Càng về giai đoạn cuối, khối lượng vận chuyển càng
tăng cao. Xem xét tổng khối lượng vận chuyển vật chất trong 10 năm thì
tập trung vào 3 năm (1972 - 1974) là 50%, và trong đó đặc biệt năm 1973
tỷ lệ này chiêm 19%.
Qua 15 năm xây dựng và chiên đấu, hệ thống đường Hồ Chí Minh đã
thực sự trở thành tuyên hậu cần chiên lược, phát huy tác dụng hêt sức tích
cực đối với sự tiên triển của cách mạng. Với khoảng 16.000 km đường ôtô, 1.400 km đường ống, hơn 6.000 xe vận tải các loại, những khối lượng
rất lớn lương thực, vũ khí, xăng dầu, trang bị được vận chuyển vào các
chiên trường bảo đảm tốt nhiệm vụ hậu cần cho cuộc chiên tranh giải
phóng ở giai đoạn cuối.
Bên cạnh đó, hậu phương miền Bắc đặc biệt coi trọng tăng cường quan hệ
đoàn kêt với nhân dân thê giới, với các tổ chức dân chủ, hịa bình quốc tê,
đặc biệt là với các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng ta tranh thủ sự giúp đỡ
của Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa
trong đào tạo cán bộ, xây dựng lực lượng, cung cấp hậu cần, bảo đảm vận
chuyển, tranh thủ các khoản viện trợ khơng hồn lại, cho vay khơng tính
lãi với nhiều chương trình kinh tê, thương mại. Hầu hêt các ngành kinh tê
quan trọng của miền Bắc đều có sự giúp đỡ, viện trợ của các nước xã hội
chủ nghĩa. Trong 21 năm kháng chiên chống My, cứu nước, các nước xã
hội chủ nghĩa đã viện trợ tổng cộng khoảng 2.362.000 tấn vật chất, trị giá
lên tới 7 tỷ rúp.
Trong 10 năm từ năm 1954 đên năm 1964, nước ta đã được các nước xã
hội chủ nghĩa giúp 119.790 tấn lương thực thực phẩm, thuốc men, vũ khí,
đạn dược, trang thiêt bị (gồm 415.584 súng bộ binh, 1.023 pháo mặt đất,
1.024 pháo cao xạ, 32 máy bay, 46 tầu chiên, 165 xe tăng, 166 xe bọc



thép, 552 xe xích kéo pháo, 4.760 xe vận tải…). Từ năm 1964 đên năm
1972, về số lượng viện trợ tăng trung bình 5 đên 10 lần, có loại từ 12 đên
22 lần như súng máy cao xạ, máy bay, cầu phao công binh. Được các
nước viện trợ, hậu phương miền Bắc đã kịp thời vận chuyển chi viện cho
các chiên trường. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, từ năm 1965
- 1972, miền Bắc đã chi viện miền Nam 614.051 súng bộ binh, 35.599
súng B40, B41; 1.785 khẩu ĐKZ, 8.494 cối, 559 khẩu pháo hỏa tiễn, 75
pháo 122 ly và 130 ly, 2.086 súng máy cao xạ, 195 pháo cao xạ 37 ly,
113 xe tăng, 50 xe bọc thép, 6.600 máy vô tuyên điện, 12.565 máy hữu
tuyên điện, 1.002 ơ-tơ vận tải kéo pháo, 93 xe xích kéo pháo...
Cùng với chi viện sức người, sức của, cổ vũ sức mạnh tinh thần cho chiên
trường miền Nam, hậu phương miền Bắc còn tiêp nhận hàng chục vạn
cán bộ, chiên sĩ, con em miền Nam tập kêt ra miền Bắc học tập và cơng
tác; đón tiêp gần 31 vạn thương binh và hơn 35 vạn lượt người từ tiền
tuyên ra hậu phương chữa bệnh, học tập, phục hồi sức khỏe trở lại chiên
trường.
Trong kháng chiên chống My, Đảng ta đã thành công trong việc xây dựng
hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa để chi viện đắc lực cho cơng cuộc
giải phóng miền Nam. Đúng như Báo cáo Chính trị Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV của Đảng đã đánh giá: khơng thể nào có thắng lợi của sự
nghiệp kháng chiên chống My cứu nước nêu không có miền Bắc xã hội
chủ nghĩa. Suốt 16 năm qua, miền Bắc luôn luôn cùng một lúc phải làm
hai nhiệm vụ chiên lược. Đặc biệt là từ năm 1965, khi Hội nghị lần thứ
hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) khẳng định chống My,
cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn thì
miền Bắc đã dốc vào cuộc kháng chiên toàn bộ sức mạnh của chê độ xã


hội chủ nghĩa và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách
mạng của cả nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội.

Ngày nay, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang thực hiện cơng cuộc
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong tình hình quốc tê và khu vực có nhiều diễn biên phức tạp,
nhiều thuận lợi và thách thức đan xen, các thê lực thù địch không từ bỏ
âm mưu chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
2. Y nghia
Thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiên công và nổi dậy mùa xuân 1975 đã
kêt thúc 21 năm chiên đấu chống đê quốc My xâm lược, 30 năm chiên
tranh cách mạng, 117 năm chống đê quốc xâm lược, giành lại nền độc lập,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
Thắng lợi này đã kêt thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên
phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc: kỷ ngun cả nước
hịa bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiên lược, đi lên chủ
nghĩa xã hội; làm tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thê và lực cho
cách mạng và dân tộc Việt Nam, nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc
trên trường quốc tê; nâng cao khí phách, niềm tự hào và để lại những kinh
nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Thắng lợi của cuộc kháng chiên chống My, cứu nước của nhân dân Việt
Nam đã làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đê quốc tiên
công vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thê giới; đánh bại cuộc chiên
tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đê quốc kể
từ sau Chiên tranh thê giới thứ hai, làm phá sản các chiên lược chiên
tranh thực dân kiểu mới của đê quốc My và tác động đên nội tình nước


My; làm suy yêu trận địa của chủ nghĩa đê quốc, phá vỡ một phòng tuyên
quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ
nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hịa
bình thê giới.
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) đã khẳng định: "Năm

tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng
chiên chống My, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như
một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn
thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào
lịch sử thê giới như một chiên công vĩ đại của thê kỷ XX, một sự kiện có
tầm quan trọng quốc tê to lớn và có tính thời đại sâu sắc".


KẾT LUẬN
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam sau năm 1954
là một giai đoạn quan trọng, đặc biệt là trong cuộc kháng chiên chống My.
Điều quyêt định nhất trong hành trình kháng chiên đó là vai trị của hậu
phương Miền Bắc. Hậu phương này khơng chỉ đóng vai trò quan trọng
trong việc cung cấp nguồn lực vật chất, nhân sự và tinh thần mà còn là
động lực định hình chiên lược và tình hình chiên trường.
Với lịng dũng cảm và tinh thần hy sinh cao cả, hậu phương Miền Bắc đã
là nền tảng vững chắc cho sự kiên trì và đồn kêt của tồn qn, từ đó tạo
nên sức mạnh không ngừng nghỉ trong cuộc chiên chống My. Sự hỗ trợ
vững mạnh từ Miền Bắc đã đảm bảo sự ổn định và bền vững của chiên
dịch, đồng thời làm nổi bật bản chất quyêt định của hậu phương trong
chiên tranh dân tộc. Bài học lịch sử này cung cấp một cơ sở lý luận và
thực tiễn quý giá, làm nền tảng cho sự đoàn kêt toàn quốc và thắng lợi
cuối cùng của Việt Nam trong cuộc chiên tranh khốc liệt đó.


DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Việt Nam.
2. GS.TS. Trần Quốc Vượng; Lịch sử cách mạng Việt Nam.
3. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 4 (1945 – 1946), NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr. 3.

4. Nguyễn Quang Ngọc; Tiên trình lịch sử Việt Nam; NXB Giáo dục;
2007.
5. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, t. 11, tr. 167
6. Tạp chí Cộng sản.



×