Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

luận văn ảnh hưởng của đồng nhân dân tệ tăng giá tới xuất nhập khẩu và đầu tư tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.98 KB, 45 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang chứng kiến những thay đổi mạnh mẽ của các nền kinh tế
với xu hướng vận động nhằm xây dựng một nền kinh tế toàn cầu thống nhất.
Các nước ngày càng mở rộng việc hợp tác với nhau trên hầu hết các lĩnh vực,
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế thông qua quan hệ thương mại trao đổi hàng hóa
dịch vụ. Xu thế này mang đến cho các nước những cơ hội lớn để tăng khả
năng phát triển và cũng tạo ra tầm ảnh hưởng đối với các nước khác. Trong
điều kiện hàng hóa được trao đổi từ nước này sang nước khác một cách khá
dễ dàng như hiện nay,việc một nước đưa ra những chính sách thay đổi hay có
biến động trong nền kinh tế cũng gây ra những thay đổi trong quan hệ kinh tế
với các nước khác. Mức độ ảnh hưởng này còn phụ thuộc vào nhiểu yếu tố
như nền kinh tế đó là lớn hay nhỏ, thị trường hàng hóa của nước này trên thế
giới, các quan hệ khác như chính trị, văn hóa, xã hội… và để đánh giá những
ảnh hưởng này còn phải xột trờn nhiều khía cạnh khác nhau.
Chúng ta đã nhìn thấy tầm ảnh hưởng của nền kinh tế một quốc gia tới
toàn thế giới thông qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 2008 vừa qua.
Nguyên nhân sâu xa của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín
dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã
đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia
châu Âu vào thế nguy hiểm. Khủng hoảng tài chính bựng phỏt tại Mỹ và lan
rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính
khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh đảo. Năm 2008 cũng chứng kiến nỗ
lực chưa từng có của các nền kinh tế để chống chọi với "bão".
Không chỉ những nền kinh tế lớn mới có ảnh hưởng sâu sắc tới các
nước khác mà các nền kinh tế mới nổi có triển vọng tăng trưởng kinh tế hết
sức khả quan, ngày càng tham gia vào việc giải quyết vấn đề toàn cầu, tăng
cường hợp tác phát triển. Trong số đó phải kể đến một đất nước được xem là
cường quốc sau Mỹ hiện nay, đó là Trung Quốc. Với diện tích lớn, qui mô
dân số, tổng lượng kinh tế, dự trữ ngoại hối, vị thế một trong 5 ủy viên
thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc… Trung Quốc ngày càng mở
rộng tầm ảnh hưởng quốc tế của mình. Đặc biệt trong lĩnh vực tiền tệ quốc tế,


Trung Quốc càng nổi rõ thân phận "một nước lớn trên thế giới", không những
vì mức dự trữ ngoại hối rất lớn, mà cũn vỡ Trung Quốc bắt đầu trở thành lực
lượng quan trọng để ổn định thị trường tiền tệ quốc tế. Thuyết "cân bằng
khủng hoảng tiền tệ" Trung-Mỹ nói từ một khía cạnh khác cho thấy vị thế rất
quan trọng của Trung Quốc trong lĩnh vực này. Cũng vì thế, Trung Quốc
không những cần tăng tốc cải tạo và tái tạo thể chế tiền tệ trong nước, mà còn
phải phát huy vai trò trong cuộc xây dựng lại trật tự tiền tệ quốc tế, trong đó
cơ chế nhóm G20 vừa thành lập là một vũ đài quan trọng. Chính sách phá giá
tiền tệ trước kia góp phần giúp cho hàng hóa Trung Quốc xâm nhập hiệu quả
vào thị trường quốc tế. Hiện nay trước những sức ép từ các nước đặc biệt là
Mỹ buộc Trung Quốc phải định giá lại đồng nhân dân tệ cho phù hợp. Chính
phủ Trung Quốc đã phải nâng giá nhân dân tệ nhằm làm ổn định nền kinh tế.
Điều này tác động không nhỏ tới nền kinh tế Trung Quốc cũng như các nền
kinh tế khỏc trờn thế giới.
Việt Nam là một quốc gia láng giềng, có quan hệ lịch sử lâu dài và hiện
nay cũng là một đối tác thương mại quan trọng của Trung Quốc, nhập khẩu
nhiều mặt hàng từ Trung Quốc. Vì thế những thay đổi trong chính sách nói
chung và trong chính sách tiền tệ nói riêng của Trung Quốc cũng có những
tác động không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam. Phân tích những ảnh hưởng của
yếu tố này không chỉ giúp chúng ta có cái nhìn sắc nét hơn về quan hệ thương
mại giữa hai nước mà còn tận dụng được những lợi thế từ việc tăng giá nhân
dân tệ đem lại cho Việt Nam.
Thêm vào đó Đô la Mỹ có nhiều biến động bất thường như hiện nay
cùng với xu hướng tăng giá của đồng nhân dân tệ sẽ tạo ra tác động kép tới
nền kinh tế Việt Nam. Với mong muốn tìm hiểu và đánh giá những ảnh
hưởng này em đã thực hiện đề án “Ảnh hưởng của đồng nhân dân tệ tăng
giá tới xuất nhập khẩu và đầu tư tại Việt Nam” nhằm đưa ra một số ý kiến
giúp Việt Nam có những bước đi phù hợp trong việc điều chỉnh tỷ giá để thúc
đẩy phát triển kinh tế.
Theo tiến trình phân tích từ lý thuyết tới thực tế, đưa ra cái nhìn từ tổng

thể tới chi tiết, đề án của em được chia thành ba chương cụ thể như sau:
Chương I: “Khỏi quỏt về Tỷ giá hối đoái”. Trình bày những nét khái
quát về Tỷ giá hối đoái, những yếu tố tác động và ảnh hưởng của nó tới các
biến số trong kinh tế.
Chương II: “Ảnh hưởng của đồng nhân dân tệ tăng giá tới xuất nhập
khẩu và đầu tư tại Việt Nam”. Ảnh hưởng của nhân dân tệ trên nhiều lĩnh vực
như cán cân thương mại, đầu tư, lạm phát nhưng chú trọng tới ảnh hưởng tới
cán cân thương mại giữa hai quốc gia.
Chương III: “Giải pháp tận dụng lợi thế và hạn chế những bất lợi từ
việc nhân dân tệ tăng giá tới hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư tại Việt
Nam”. Đưa ra một số giải pháp cụ thể để cái thiện chính sách tiền tệ, hạn chế
thâm hụt cán cân thương mại, gia tăng thu hút đầu tư.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Khái niệm cơ bản về TGHĐ (TGHĐ)
1.1. TGHĐ
Tỷ giá là một trong những vấn đề rất được quan tâm trong một nền kinh
tế, đặc biệt là trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, đang từng bước
hòa nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc
tế. Bởi hoạt động thương mại quốc tế của các nước này ngày càng phát triển
và đòi hỏi phải có sự tính toán so sánh về giá cả, tiền tệ với các nước đối tác.
Chính vì thế việc hiểu rõ khái niệm về TGHĐ là điều cần thiết trong giai đoạn
tự do trao đổi hàng hóa, tiền tệ như ngày hôm nay.
Theo Alan C. Shapiro: Multinational Financial management. Sixth
edition, Page 50: “An exchange is, simply, the price of one nation’s currency
in terms of another”. (Nghĩa là: TGHĐ, một cách giản đơn là giá của một
đồng tiền quốc gia này được biểu thị bằng đồng tiền của quốc gia khác).
Theo pháp lệnh về ngoại hối của Việt Nam được Quốc hội ban hành
ngày 13/12/2005, tại Khoản 9, Điều 4: “TGHĐ của đồng Việt Nam là giá của
một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam”.

Theo PGS.TS Nguyễn Công Nghiệp trong cuốn TGHĐ – Phương pháp
tiếp cận và nghệ thuật điều chỉnh. NXB Tài chính, năm 1996, trang 3:
“ Về hình thức, TGHĐ là giá đơn vị tiền tệ của một nước được biểu
hiện bằng các đơn vị tiền tệ nước ngoài; là hệ số qui đổi của một đồng tiền
này sang đồng tiền khác, được xác định bởi mối quan hệ cung cầu trên thị
trường tiền tệ”.
“Về nội dung, TGHĐ là một phạm trù kinh tế bắt nguồn từ nhu cầu trao
đổi hàng hóa, dịch vụ, phát sinh trực tiếp từ tiền tệ, quan hệ tiền tệ (sự vận
động của vốn, tín dụng…) giữa các quốc gia”.
Tuy có cách diễn đạt khác nhau như vậy nhưng thực chất TGHĐ được
hiểu là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước được tính bằng tiền tệ của
một nước khác, hay là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của
các nước khác nhau. Đây chính là giá cả của ngoại tệ trên thị trường và được
xác định dựa trên quan hệ cung cầu về ngoại tệ. Được coi là mấu chốt trong
quản lý kinh tế vĩ mô, TGHĐ có tác động ngược trở lại đến các mối quan hệ
kinh tế, lên cán cân thanh toán quốc tế, lên giá cả hàng hoá trong nước và lưu
thông tiền tệ
Ví dụ: TGHĐ giữa đô la Mỹ và đồng Việt Nam là 1USD = 19.500
VND. Nghĩa là 19.500 VND mua được 1USD.
TGHĐ của nhân dân tệ và đồng Việt Nam là 1CNY = 2,849.49VND.
Nghĩa là 2,849.49 VND mua đc 1 nhân dân tệ.
*Phân loại
Nhìn chung, TGHĐ được chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ vào mục
đích xem xét, nghiên cứu mà chúng ta quyết định sử dụng loại tỷ giá nào.
Thông thường tỷ giá được chia thành tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế.
TGHĐ danh nghĩa là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo nội tệ và
chưa tính đến sức mua của đồng tiền. TGHĐ thực là tỷ giá danh nghĩa đã
được điều chỉnh theo giá tương đối giữa các nước. Tỷ giá này tăng lên đồng
tiền trong nước được coi là bị giảm giá thực so với đồng tiền nước ngoài và
khi tỷ giá này giảm thì đồng tiền trong nước được coi là bị tăng giá thực so

với đồng tiền nước ngoài. TGHĐ hiệu quả thực là tỷ giá được điều chỉnh theo
một số các tỷ giá thực của các nước đối tác thương mại. Tỷ giá này được xem
là thước đo hữu hiệu khả năng cạnh tranh của một nước trong quan hệ thương
mại với các nước khác bởi nó xét đến tỷ giá thực giữa đồng tiền của một nước
với nhiều nước tham gia trao đổi thương mại với nước đó. TGHĐ thực cân
bằng là mức tỷ giá mà tại đó nền kinh tế đồng thời đạt cân bằng bên trong
(cân bằng trên thị trường hàng hoá phi mậu dịch) và cân bằng bên ngoài (cân
bằng tài khoản vãng lai). Tỷ giá thực cân bằng có mối quan hệ mật thiết với
các biến số kinh tế khỏc, nó thể hiện độ nhạy của các biến kinh tế đối với
chính sách kinh tế vĩ mô đặc biệt là trong ngắn và trung hạn.
1.2. Thế nào là tăng giá đồng tiền
Do chịu sự tác động của nhiều yếu tố nên TGHĐ thường xuyên biến
động. Sự biến động này xảy ra khi có sự tăng giá hoặc giảm giá các đồng tiền.
TGHĐ tăng tức là đồng tiền trong nước giảm so với đồng tiền nước khác.
TGHĐ giảm tức là đồng tiền trong nước tăng so với đồng tiền của nước khác.
Tăng giá tiền tệ là việc tăng giá trị đồng nội tệ so với các ngoại tệ khác so với
mức mà chính phủ đã cam kết trong chế độ TGHĐ cố định. Việc đồng Việt Nam
tăng giá tức là tăng giá trị so với các ngoại tệ khác như USD, EUR…
Ví dụ đầu năm 1980, đồng frăng trị giá 25xu, và ngày 4/4/1991, nó trị
giá 17,7xu. Đồng frăng đã sụt giá 30%. Ngược lại, chúng ta có thể nói rằng
đồng đụla Mỹ tăng giá 40%.
1.3. Các nhân tố tác động làm tăng giá đồng tiền
Sự hình thành TGHĐ là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan
và khách quan. Những yếu tố này trực tiếp hoặc gián tiếp làm cho TGHĐ
thay đổi. Tỷ giá có thể tăng hoặc giảm theo từng thời kỳ hoặc do chính sách
tỷ giá của nhà nước đưa ra.
TGHĐ, tức tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền cao hay thấp được quyết
định bởi các lực lượng thị trường, cung và cầu. Cung ngoại tệ là lượng ngoại
tệ mà thị trường muốn bán ra để thu về nội tệ. Cầu ngoại tệ là lượng ngoại tệ
mà thị trường muốn mua vào bằng các đồng nội tệ. Giá cả ngoại tệ, TGHĐ

cũng được xác định theo quy luật cung cầu như đối với các hàng hoá thông
thường. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ sẽ làm cho giá ngoại tệ giảm,
tức TGHĐ tăng. Ngược lại, khi cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ giá ngoại
tệ sẽ tăng, tức tỷ giá giảm. Ở vị trí cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ xác định
trạng thái cân bằng, không có áp lực làm cho tỷ giá thay đổi. Ta có thể hình
dung cơ chế hình thành tỷ giá được hiển thị từ khi cú sốc khác nhau về cung
và cầu ngoại tệ. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị
trường cần bán ra nhiều hơn lượng ngoại tệ cần mua vào, khi đú cú một số
người không bán được sẽ sẵn sàng bán với mức giá thấp hơn và làm cho giá
ngoại tệ trên thị trường giảm. Tư duy tương tự, khi cầu lớn hơn cung, một số
người không mua được ngoại tệ sẵn sàng trả giá cao hơn và gây sức ép làm
giá ngoại tệ trên thị trường tăng. Khi cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ, lượng
ngoại tệ mà thị trường cần mua đúng bằng lượng ngoại tệ cần bán làm cho giá
ngoại tệ không đổi, thị trường cân bằng. Chúng ta có thể thấy, TGHĐ trên thị
trường luôn thay đổi. Có rất nhiều nhân tố tác động gây ra sự biến động của
TGHĐ với những mức độ và cơ chế khác nhau.
TGHĐ chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, mỗi yếu tố tác động
theo một cách khác nhau, ở những mức độ cụ thể khác nhau. Để nhìn nhận
một cách rõ nét và chính xác thì chúng ta phải tách riêng từng yếu tố, xem xét
nó trờn từng khía cạnh. Qua đó ta mới có cái nhìn chính xác nhất về mức độ
của các yếu tố này lên TGHĐ, từ đó xác định biên độ giao động của tỷ giá.
Trước tiên ta xét tác động của cỏn cân thương mại đến TGHĐ trong
điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Cán cân thương mại của một nước
là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Một nền
kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp tục
công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua
hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung
ngoại tệ sẽ tăng, làm TGHĐ giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch
vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại
tệ trên thị trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, TGHĐ tăng. Tác

động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành TGHĐ.
TGHĐ cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu
của các nhân tố, đú chớnh là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư
thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, TGHĐ sẽ giảm, đồng nội tệ
lên giá. Khi thâm hụt thương mại, TGHĐ sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá.
Trong điều kiện giá cả trong nước ổn định, tình hình lạm phát ở mức
nhỏ không đáng kể, đầu tư ra nước ngoài cũng ảnh hưởng tới TGHĐ do cư
dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp
(xây dựng nhà máy, thành lập các doang nghiệp ) hay đầu tư gián tiếp (mua
cổ phiếu, trái phiếu ) . Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt động kinh
doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn
ngoại tệ chảy ra nước ngoài, TGHĐ sẽ tăng. Ngược lại một nước nhận đầu tư
từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ
tăng, TGHĐ giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy
ra và luồng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương,
luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài,TGHĐ
tăng. TGHĐ sẽ giảm trong trường hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài rũng
õm. Theo quy luật tối ưu hoá, luồng vốn sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất, tức
là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn
đến đầu tư nhiều hơn khi nó có môi trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn
định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị
trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và sự thông thoáng trong chính sách thu
hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ.
Lạm phát ảnh hưỏng đến TGHĐ. Khi các yếu tố khác trong nền kinh tế
không đổi đối với một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với
TGHĐ không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nước
ngoài trong khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong
Dưới đây là bảng tổng hợp biến động tỷ giá ba tháng qua qua từ ngày
27/07/2010 đến ngày 25/10/2010 của USD/CNY.
Biểu đồ 1: Xu hướng biến động tỷ giá USD/CNY từ ngày 27/7 đến

ngày 25/10/2010 (Nguồn: www.oanda.com/currency/converter/)
Từ biểu đồ trên cho thấy xu thế giảm giá của đồng Đô la Mỹ so với
nhân dân tệ hay nói cách khác là đồng nhân dân tệ đang trên đà tăng giá. Có
sự biến động qua từng ngày nhưng trên khoảng thời gian 3 tháng qua kể từ
sau khi Trung Quốc đưa ra quyết định nâng giá mạnh đồng nhân dân tệ thì tỷ
giá có xu hướng giảm xuống.
Trên thực tế, quyết định tăng giá nhân dân tệ xuất phát từ yêu cầu kiềm
chế bong bóng tài sản và tăng trưởng nóng của kinh tế trong nước hơn là áp
lực từ bên ngoài. Tuy nhiên, do kinh tế Trung Quốc dựa quá nhiều vào xuất
khẩu, nên Trung Quốc cũng không muốn để nhân dân tệ tăng giá mạnh mà
tìm biện pháp thay thế nhằm tăng thu ngoại tệ, đảm bảo nguồn vốn cho việc
mở rộng đầu tư ra nước ngoài, đồng thời đẩy mạnh mua thêm euro và bảng
Anh, khi những đồng tiền này đang mất giá, góp phần cải thiện cơ cấu dự trữ
ngoại hối. Trung Quốc đang đẩy mạnh công nghiệp khai khoáng tại các nước
đang phát triển, qua đó làm tăng giá trị nhập khẩu và giảm thặng dư thương
mại Theo đánh giá của Mỹ, việc tái cân bằng cán cân thương mại với Trung
Quốc sẽ hỗ trợ xuất khẩu và việc làm tại Mỹ, nhưng tỷ giá nhân dân tệ vẫn
thấp sau khi Trung Quốc nới lỏng tiền tệ.
Trung Quốc đã thực hiện hết sức thành công chính sách TGHĐ phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế. Việc điều chỉnh tỷ giá theo hướng nâng
giá tiền tệ hiện nay cho thấy chính phủ Trung Quốc đã cố gắng kiểm soát lạm
phát trong nền kinh tế sau thời gian phá giá và tác động của các nền kinh tế
khác trong thời gian qua. Quan trọng hơn Trung Quốc đã đưa ra và phối hợp
một cách hiệu quả những chính sách kinh tế vĩ mô đồng thời chủ động thực
hiện kế hoạch của chính mình mà không chịu ảnh hưởng từ yếu tố bên ngoài.
Tuy nhiên chính sách này của chính phủ Trung Quốc đã vi phạm vào nguyên
tắc thị trường đó là để tự giá trị của tiền thay đổi theo cung cầu thị trường.
Chính phủ đã can thiệp sâu vào vấn đề tỷ giá nhằm mang lại nguồn lợi lớn
cho xuất khẩu hàng hóa, chiếm ưu thế ở nước ngoài. Việc ép tỷ giá không dựa
trên sự vận động tự nhiên này sẽ mang tới những nguy cơ tiềm ẩn đó là sự trả

đũa của các nước khỏc trờn thị trường nước ngoài.
* Ảnh hưởng của việc đồng nhân dân tệ tăng giá với hoạt động kinh
tế của Trung Quốc
Sau ba tuần kể từ khi quyết định trên được ban hành và có hiệu lực,
nhân dân tệ đã tăng 0,8% và đang đổi được 6,7746/đô la Mỹ và có thể lờn
6,5/đô la Mỹ vào cuối năm 2011. Công ty Morgan Stanley tại Hồng Kụng cho
rằng, nhân dân tệ có thể tăng 4% trong năm nay và 6% trong năm 2011.
Trong khi đó, Tập đoàn Ngân hàng DBS cho rằng, nhân dân tệ sẽ tăng 1,2%
trong năm nay khi PBC hành động để kiềm chế lạm phát.
Theo thông tin của Chính phủ Trung Quốc, đầu tư trong nước suy giảm
đã hạn chế nhập khẩu, nên xuất siêu của Trung Quốc đã tăng ba tháng liên
tiếp và đạt 20 tỉ đô la Mỹ vào tháng 6, tăng 43,9% so cùng kỳ năm 2009 và có
thể tiếp tục tăng cao trong những tháng cuối năm do tốc độ suy giảm nhập
khẩu có thể vượt xuất khẩu trong những tháng tới. Tuy nhiên, dự trữ ngoại hối
trong quớ 2 tăng chậm nhất kể từ năm 1999, chỉ tăng thêm 7,2 tỉ đô la Mỹ lên
2.454 tỉ đô la Mỹ sau khi tăng 47,9 tỉ trong quớ 1.
Như vậy, nỗ lực cắt giảm thâm hụt ngân sách tại nhiều nước phát triển
và suy thoái tại châu Âu đã làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như nhu
cầu nhập khẩu hàng hóa, tác động xấu đến xuất khẩu của Trung Quốc.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng nhõn dân tệ tăng giá có thể gây tác
động tiêu cực đến các doanh nghiệp xuất khẩu do họ phải đối mặt với nhu cầu
yếu ớt ở nước ngoài và yêu cầu tăng lương. Một số nhà xuất khẩu phải đối
mặt với áp lực tăng chi phí lao động khi 20 tỉnh, thành phố tại Trung Quốc
nâng mức lương tối thiểu trong năm nay. Các công ty, bao gồm Toyota và
Honda, phải tăng lương sau các cuộc đình công, làm tăng chi phí do phải trả
lương công nhân bằng nhân dân tệ và thu về bằng đô la Mỹ hoặc Euro.
Đối với thương mại và đầu tư quốc tế, nhân dân tệ tăng giá sẽ làm cho
hàng hóa Trung Quốc trở nên đắt hơn, góp phần tăng thêm sức cạnh tranh
hàng hóa của những nước khác, nhất là tại những nước mà hàng nhập khẩu từ
Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn. Các nền kinh tế xuất khẩu như Nhật Bản,

Hàn Quốc, Đài Loan và Cộng hòa liên bang Đức sẽ giành lại được đôi chút
lợi thế từ các đối thủ Trung Quốc. Sức cạnh tranh của các nước xuất khẩu vào
Trung Quốc cũng gia tăng, nhất là các nhà sản xuất xe hơi, các mặt hàng công
nghệ và xây dựng. Các nhà đầu tư đã vay đô la, bán lấy nhân dân tệ để mua
chứng khoán và bất động sản tại Trung Quốc cũng có thể bớt lo lắng khi gánh
nặng nợ giảm đi.
Không chỉ tác động tới nền kinh tế trong nước mà thay đổi từ chính
sách TGHĐ của một nền kinh tế lớn, thị trường tiêu thụ mạnh như ở Trung
Quốc cũng ảnh hưởng rất lớn tới các nền kinh tế khác. Tăng trưởng kinh tế
chậm dần tại Trung Quốc cùng với các biện pháp thắt chặt chi tiêu tại châu
Âu và các nước phát triển có thể làm chậm quá trình phục hồi toàn cầu, ảnh
hưởng đến châu Á, do kinh tế nhiều nước trong khu vực này phụ thuộc vào
xuất khẩu sang Trung Quốc và các nước phát triển. Việt Nam và Trung Quốc
là hai nước có quan hệ thị trường đặc biệt, vừa có tính truyền thống, vừa
mang tính hiện đại; vừa quan hệ trực tiếp, vừa theo thông lệ quốc tế nên sự
tác động của sự tăng giá đồng nhân dân tệ là không tránh khỏi. Vì thế việc
phân tích tính hai mặt của sự tác động là cần thiết để tìm ra các đối sách phù
hợp, nhất là vấn đề chiến lược phát triển trong bối cảnh những cân bằng mới
về tỷ giá giữa các đồng tiền có vai trò toàn cầu đang hình thành.
2. Tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư tại Việt Nam
Theo dòng biến động của thị trường tiền tệ hiện nay, giá đồng CNY so
với VND đang tăng lên. Việt Nam vẫn sử dụng tỷ giá chéo giữa VND/USD
và USD/CNY, do đó khi đồng CNY tăng giá so với USD và đồng thời USD
tăng giá so với VND thì đồng nhân dân tệ đã tăng giá kép so với VND. Thời
gian qua nhân dân tệ có sự biến động theo xu thế tăng lên so với VND. Mức
cao nhất mà nhân dân tệ đạt được là 1CNY = 3,000.75 VND. Biểu đồ dưới
đây tổng hợp tỷ giá CNY/VND theo ngày của 3 tháng trở lại đây. Nhân dân tệ
biến động theo từng ngày theo mức nhỏ nhưng xu hướng chủ đạo vẫn là đang
tăng dần lên so với đồng tiền Việt. Những thay đổi này sẽ tác động tới nhiều
yếu tố trong nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là yếu tố giá cả hàng hóa Trung

Quốc. Chính vì vậy mà nó ảnh hưởng trực tiếp lên cán cân thương mại của
Việt Nam và Trung Quốc, ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của hàng Việt
Nam với hàng Trung Quốc trên thị trường thế giới, tới đầu tư vào Việt Nam,

×