Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Tuyển tập những bài văn Phân tích thơ hiện đại lớp 9 hay đặc sắc nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.95 KB, 69 trang )

THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM ( 1945 – 1985)
§ång chÝ
I. Nhà thơ Chính Hữu
- Tên thật là Trần Đình Đắc. Quê: Can Lộc - Hà Tĩnh
- Là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bắt đầu làm thơ năm 1947
- Thơ ông xoay quanh đề tài người lính và chiến tranh
- Thơ Chính Hữu ngắn gọn, cô đọng, hàm xúc, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh chân thực, mộc mạc như
bản chất của người dân xứ Nghệ nhưng lại mang nét hào hoa của người từng sống ở HN.
II. Bài thơ "Đồng chí"
1. Hoàn cảnh sáng tác: Đầu năm 1948, sau những trải nghiệm của bản thân nhà thơ trong Chiến dịch VB
Thu động 1947. “Bài thơ được khơi nguồn từ những sâu sa mới mẻ và sâu lắng trong những ngày CH
trực tiếp tham gia chiến dịch VB thu đông 1947”
2. Đề tài: Người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp
3. Chủ đề: Bài thơ ca ngợi tình đồng chí - phẩm chất cao đẹp của những người chiến sĩ cách mạng trong
cuộc kháng chiến chống P. Đó là những người lính xuất thân từ những miền quê nghèo, vượt lên mọi gian
khổ khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Ở họ có tình yêu nước tha thiết, cháy bỏng. tinh thần lạc quan, yêu
đời, tình đồng chí, đồng đội kéo sơn gắn bó.
4. Nội dung: Bài thơ xây dựng h/ả những anh bộ đội từ những miền quê nghèo khắp mọi miền đn đi đánh
giặc. Yếu tố quyết định mọi chiến thắng của các anh là tc mới nảy sinh được tôi luyện trong thử thách và
chiến đấu. Đó chính là tình đ.chí thiêng liêng cao cả.
5. Nghệ thuật
- Bài thơ ngắn gọn, súc tích, cô đọng.
- Hình ảnh chân thực, mộc mạc. Nhà thơ chú ý khai thác chất liệu hiện thực của cs chiến trường.
- Ngôn ngữ bình dị giàu sắc thái biểu cảm
- Sử dụng thể thơ tự do với kết cấu bó mạ. Số tiếng trong câu và số câu trong khổ không đều nhau, phù
hợp với việc diễn tả tc theo mạch cảm xúc.
- Sự hòa quyện giữa chất hiện thực khắc nghiệt và chất lãng mạn bay bổng.
=> Đây được coi là bài thơ hay nhất, thành công nhất viết về người lính trong cuộc kháng chiến
chống P. Mở đầu cho khuynh hướng viết về anh bộ đội Cụ Hồ.
6. Mạch cảm xúc và bố cục:
* Mạch cảm xúc: Bài thơ theo thể tự do, 20 dòng chia làm 3 đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ


đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được
dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng 7, 17 và 20).
Sáu dòng đầu có thể xem là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Dòng 7 có cấu trúc đặc biệt (chỉ
một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những
người lính.
Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng 7 lại tiếp tục khơi mở trong những hình
ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó.
Ba dòng thơ cuối được tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc
sắc “Đầu súng trăng treo” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính.
* Câu hỏi: Tại sao bài thơ viết về tình đồng đội lại có nhan đề là "đồng chí"?
Bài thơ viết về tình đồng đội nhưng lại được đặt tên là "Đồng chí". "Đồng chí" là những người có chung
trí hướng, lí tưởng, (đồng: cùng; chí: chí hướng). Người cùng trong một đoàn thể chính trị hay một tổ
chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Ở đây là những người nông dân mặc áo lính cùng chung
lí tưởng đánh giặc cứu nước. Họ sống trong quân ngũ, cùng kề vai sát cánh bên nhau đánh giặc, đó là tình
đồng đội. Nhưng nghĩ sâu xa hơn về cơ sở hình thành, lí tưởng chiến đấu thì đó là tình đồng chí. Tình
đồng đội thực chất cũng là tình đồng chí. Nhưng nói tình đồng chí thì bao trùm hơn, đầy đủ hơn và
49
thiêng liêng hơn. Tình đồng chí là kết tinh của mọi tc: tình người, tình bạn, tình tri kỉ, tình đồng đội.
Đây là nét mới của người chiến sĩ CM. Đặt nhan đề bài thơ là "Đồng chí", nhà thơ muốn nhấn mạnh vào
vẻ đẹp tâm hồn của người lính.
III. Đề Tập làm văn
* Đề bài: Phân tích khổ thứ nhất của bài thơ Đồng chí.( Cơ sở hình thành tình đồng chí)
I. Mở bài
- Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác
- Khái quát nội dung + nghệ thuật
- Giới thiệu, chép lại khổ thơ
VD: Là nhà thơ trưởng thành trong cuộc k/c chống P, CH bắt đầu sáng tác thơ năm 1947. Ông tên thật là
Trần Đình Đắc, quê ở Can Lộc – Hà Tĩnh. Thơ CH xoay quanh đề tài người lính và chiến tranh. Thơ ông
ngắn gọn, cô đọng, hàm xúc, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh chân thực, mộc mạc như bản chất người xứ
Nghệ nhưng lại mang nét hào hoa của người từng sống ở HN. "Đồng chí" là tác phẩm tiêu biểu của ông.

Khổ thơ đầu, nhà thơ đã lí giải sâu sắc cơ sở hình thành lên tình đồng chí.
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
…………………
Đồng chí!
II. Thân bài
1. Khái quát: Với những lời thơ mộc mạc, giản dị, ý thơ đằm thắm, tg đã khắc họa thành công h/ả người
lính Cụ Hồ trong cuộc k/c chống P. Đoạn thơ mở đầu đã để lại bao xúc động. Bởi ta hiểu được cơ sở hình
thành nên tình đồng chí. Họ đã gắn kết với nhau bởi rất nhiều điểm chung: chung giai cấp, nhiệm vụ,
khó khăn, thiếu thốn, lí tưởng.
2. Phân tích
* Chung giai cấp:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
- Hai câu thơ với cấu trúc sóng đôi, giọng thơ trầm lắng như lời tâm sự, ngôn ngữ giản dị mộc mạc như
lời ăn tiếng nói hằng ngày, đặc biệt là cách sử dụng thành ngữ dân gian đã diễn tả đầy đủ hoàn cảnh xuất
thân của những người lính. "Nước mặn đồng chua" gợi h/ả những vùng đồng bằng chiêm trũng lắm mặn,
nhiều phèn. Cây cối khó trồng vì đất đai thiếu màu mỡ, phì nhiều. "Đất cày sỏi đá" gợi lên liên tưởng
đến những vùng trung du, đồi núi, đất đai cằn cỗi, bạc màu. Anh và tôi tuy xuất thân từ những vùng quê
khác nhau, kẻ miền núi, người miền biển nhưng đều có chung hoàn cảnh nghèo khó, vất vả, lam lũ.
Chúng ta đều là những người nông dân nghèo quanh năm gắn bó với ruộng đồng, với cái cày, cái cuốc,
con trâu.
-> Có thế thấy, tình giai cấp chính là t/c đầu tiên gắn bó những người lính nông dân ấy lại với nhau.
- Trước khi chiến tranh xảy ra, họ vẫn là người xa lạ:
Anh với tôi đôi người xa lạ
- Họ tuy là những người xa lạ nhưng tác giả lại gọi họ là "đôi". "Đôi" cũng có nghĩa là hai nhưng đó là
hai người có mối quan hệ gần gũi, khăng khít. Bởi từ trong sâu thẳm, họ gắn kết với nhau trong mối quan
hệ của người cùng một dân tộc, cùng chung nỗi đau, cùng chung nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ TQ. Họ
nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của TQ để rồi:
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

- Chiến tranh xảy ra, đất nước bị lâm nguy, tiếng gọi ấy thôi thúc các chàng trai ra trận. Họ vốn là những
con người nông dân quen với cái cày ,cái cuốc, con trâu, với ruộng vườn. Giờ dây họ phải giã từ tất cả để
lại sau lưng: mái đình, giếng nước, gốc đa và ánh mắt đăm đắm của người thân. Những con người xa lạ
ấy đã trở thành thân thiết, gắn bó vì cùng đứng trên một trận tuyến chiến đấu với kẻ thù.
* Chung nhiệm vụ
50
- Những con người xa lạ ấy luôn sát cánh bên nhau. H/ả "súng bên súng" vừa là hình ảnh thực, vừa là
hình ảnh tượng trưng. Súng là vũ khí, là phương tiện của người lính, là biểu tượng của chiến tranh.
Những người lính luôn có cây súng kề bên trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cây súng không chỉ là vũ khí,
phương tiện mà còn là người bạn gần gũi, thân thiết với họ. Đồng thời nó còn có sức gợi tả những người
lính luôn có chung nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Và khi họ cùng đứng trên một trận tuyến, cùng có chung
nhiệm vụ thì họ đã trở thành đồng đội của nhau.
* Chung khó khăn, thiếu thốn
- Họ không chỉ có chung nhiệm vụ mà còn cùng nhau chịu những khó khăn, thiếu thốn của c/s đời
thường:
Đêm rét chung chăn
- Lời thơ giản dị, hình ảnh chân thực, giọng thơ trầm lắng như lời thì thầm tâm sự về những khó khăn
thiếu thốn mà “tôi” và “anh” đang phải chịu. H/ả thơ thật giản dị nhưng lại nói lên nhiều hơn bất kì lời nói
hoa mĩ nào. Họ - những con người nông dân bước vào c/chiến với trang bị vô cùng thô sơ và thiếu thốn.:
Áo anh rách vai.
Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày
Vậy mà họ vẫn phải đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt và giá rét lạnh của núi rừng VB. Câu thơ
không chỉ nói lên cái thiếu thốn của họ mà còn diễn tả một cách xúc động tình cảm gắn bó giữa những
người lính. Dường như càng khó khăn thiếu thốn bao nhiêu, thì tình đồng chí, đồng đội càng gắn bó bấy
nhiêu. Tấm chăn ấy tuy không đủ để sưởi ấm họ về thể xác nhưng lại sưởi ấm họ về tâm hồn. Có lẽ không
ở đâu trên trái đất này, tình cảm của người lính lại thân thiết, gắn bó như vậy. Và chính trong những đêm
đông lạnh giá, cùng đắp chung tấm chăn mỏng, họ đã sẻ chia với nhau bao tâm sự, nỗi niềm. . để rồi từ
sự gắn bó thân thiết ấy, họ trở thành bạn tri âm, tri kỉ của nhau.
* Chung lí tưởng:

- Mỗi người lính khi bước vào chiến trường đều mang trong mình ty nước thiết tha cháy bỏng. Khó khăn
thiếu thốn không làm họ lùi bước. vất vả gian truân không làm họ nản lòng. Điều gì đã giúp họ có được
sức mạnh như vậy? Đó chính là khát vọng, là lí tưởng, là mục đích chiến đấu của họ: Đánh đuổi giặc
ngoại xâm. ba tiếng "đầu bên đầu" đều sử dụng vần bằng, diễn tả thái độ nhẹ nhàng nhưng kiên quyết về
ý thức của người lính. Tất cả họ đều đứng chung trong một hàng ngũ, một trận tuyến để cùng nhau chia sẻ
ngọt bùi. Và từ trong những chia sẻ gắn bó ấy, tình đồng đội đã trở thành tình đồng chí thiêng liêng.
- "Đồng chí" - câu thơ chỉ có 2 tiếng kết hợp với dấu chấm than như một tiếng gọi thốt lên từ tận đáy
lòng với bao t/c trìu mến trân trọng. Đó cũng chính là một phát hiện, một khẳng định về một tình cảm vô
cùng thiêng liêng. Hai tiếng "Đồng chí" ngắn gọn nhưng không khô khan bởi nó là kết tinh của rất nhiều
tình cảm: tình người, tình đồng đội, tình tri kỉ. Nó như gói gọn mọi cung bậc cảm xúc để phát triển thành
thứ tình cảm mới vô cùng thiêng liêng.
- “ Đồng chí” - câu thơ được tách thành một dòng riêng, có vị trí đặc biệt. Nó như một bản lề gắn kết hai
phần bài thơ, vừa khép lại ý của bẩy câu thơ trên: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lý tưởng thì trở thành
đồng chí của nhau. Đồng thời nó cũng mở ra ý tiếp theo: Đó chính là biểu hiện cụ thể và cảm động của
tình đồng chí ở mười câu thơ sau.
-> Câu thơ như một nốt nhạc làm bừng sáng cả bài thơ. Bởi đó là kết tinh của tình cảm cách mạng mới
mẻ chỉ có ở thời đại mới. Câu thơ thứ 7 thực sự là một câu thơ đặc biệt.
III. Kết bài: Khổ thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bởi nó đã khơi
gợi lại những kỷ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương để hình thành nên tình đồng chí
mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được. Bài thơ đã ca ngợi tình
đồng chí hết sức thiêng liêng như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng, không bao giờ tắt.
51
Đề bài 2: Phân tích khổ thứ hai bài thơ "Đồng chí" ( Biểu hiện cụ thể của tình đồng chí”)
I. Mở bài
- Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác
- Khái quát nội dung + nghệ thuật
- Giới thiệu, chép lại khổ thơ
VD: Văn học Việt Nam 1945 – 1975 đã gắn bó mật thiết với vận mệnh cũng như với sự nghiệp cách
mạng, sáng tạo nhiều hình tượng cao đẹp về Tổ quốc và con người Việt Nam trong chiến đấu, lao động,
sinh hoạt. Lẽ tất nhiên, ở một đất nước không rời tay súng suốt ba mươi năm, hình tượng người lính là

hình tượng đẹp nhất, nổi bật nhất trong văn thơ thời ấy và là niềm tự hào lớn của dân tộc. Bài thơ “Đồng
chí” của Chính Hữu là một trong những tác phẩm viết về hình tượng cao đẹp ấy. Đặc biệt khổ 2 của bài
thơ đã khiến người đọc cảm nhận được những biểu hiện cụ thể, cao đẹp của tình đồng chí.
II. Thân bài
1. Khái quát: Đoạn thơ chỉ vỏn vẹn có 10 câu nhưng lại có sức lay động trái tim của rất nhiều người độc
giả. Bởi nó ghi lại một cách chân thực và cảm động mối tình keo sơn gắn bó giữa những người lính. Họ
đang cùng nhau chia sẻ những khó khăn, thiếu thốn; cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách của
cuộc chiến ác liệt để đến với nhau bằng tình đoàn kết, yêu thương.
2. Phân tích
* Hiểu thấu hoàn cảnh, tâm tư, tình cảm của nhau
- Những người lính cũng là những người bạn tri âm tri kỉ của nhau. Trong cuộc chiến đấu cam go ác liệt,
họ đã cùng nhau chia sẻ ngọt bùi. Những lời tâm sự về quê anh, làng tôi đã giúp họ hiểu hoàn cảnh của
nhau hơn. Họ đều là những người nông dân ở những miền quê nghèo khó. Nghe theo tiếng gọi của TQ,
họ đã rời bỏ mái đình, cây đa, giếng nước, để lại sau lưng tất cả những gì yêu dấu và bước vào cuộc
chiến. Họ đã hiểu bạn như hiểu mình:
Ruộng nương………… ra lính.
- Hoàn cảnh của anh cũng giống tôi. Ta gửi lại ruộng nương cho bạn thân giúp đỡ. "Gian nhà không mặc
kệ gió lung lay". Hình ảnh “ gian nhà không” kết hợp với từ láy “lung lay” ở cuối câu thơ giúp ta cảm
nhận được sự trống trải, khó khăn của một gia đình vắng người trụ cột. Người lính cũng hiểu điều đó,
lòng anh cũng lưu luyến muốn ở lại. Nhưng đứng trước cảnh xâm lăng, là một người con của Tổ quốc,
anh đã đặt lòng yêu nước lên trên tất cả, đặt nghĩa chung lên trên tình riêng. Hai chữ “mặc kệ” đã thể hiện
thái độ lên đường thật rõ ràng, dứt khoát. Nó gợi cho ta nhớ đến hình ảnh những anh Vệ quốc đoàn trong
bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi : “Người ra đi đầu không ngoảnh lại / Sau lưng thềm nắng lá rơi
đầy.” Nhưng người lính của Chính Hữu vẫn còn nặng lòng với quê hương nhiều lắm. Từ “mặc kệ” mang
đậm chất khẩu ngữ rất ít khi xuất hiện trong thơ nhưng lại mang ý nghĩa khẳng định ý chí quyết tâm, sự
dứt khoát của người lính khi họ bước vào cuộc chiến. Đây không phải là sự phó mặc, mà theo ngôn ngữ
của người lính chỉ là một sự hoãn lại, đợi chờ cách mạng thành công. Vì nếu vô tình thì ở nơi chiến
trường, làm sao họ cảm nhận được từng cơn gió lạnh lùa vào gian nhà trống của gia đình mình. Làm sao
họ cảm nhận được tình thương nhớ hồn hậu của quê hương :
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Hình ảnh ẩn dụ “giếng nước gốc đa” thường được sử dụng trong ca dao để nói về quê hương làng xóm.
Nhà thơ đã vận dụng tài tình chi tiết ấy, kết hợp với phép nhân hóa để gợi tả cảm giác phía sau người lính
còn cả một gia đình, một hậu phương vững chắc đang chờ đợi. Ở đây chủ thể trong câu thơ không phải
người lính, mà chính “giếng nước gốc đa” mới là chủ thể trữ tình. Đó là nơi họ sinh ra, lớn lên, dù có dứt
khoát thế nào họ cũng không thể quên được. Chính cái thâm tình với hậu phương ấy đã biến thành động
lực để người lính chiến đấu, không chỉ vì độc lập tự do cho Tổ quốc, mà còn để giải phóng quê hương. Và
ở đây, nơi chiến trường, những người lính lại tìm được những tình cảm ấm áp và hồn hậu của quê nhà
52
trong người bạn đồng chí của mình. Họ soi vào nhau, thấu hiểu và đồng cảm về tất cả. Tình đồng chí là
bước đệm để nhà thơ mở ra vẻ đẹp tâm hồn của người lính : hy sinh thầm lặng vì Tổ quốc nhưng vẫn luôn
nhớ về quê hương, gia đình ở hậu phương.
* Chia sẻ những khó khăn, khắc nghiệt của thiên nhiên, của vật chất đời thường.
Và chính tâm hồn cao đẹp của tình đồng chí ấy đã giúp người lính vượt qua mọi gian lao, thách thức :
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Một loạt những từ ngữ “ớn lạnh”, “sốt run người”, “ướt mồ hôi” đã đặc tả những cơn sốt rét rừng khủng
khiếp mà rất quen thuộc với người lính thời ấy. Nếu trong cuộc sống gia đình, anh được bàn tay dịu dàng
của người mẹ, người vợ ân cần chăm sóc thì ở đây, bàn tay ấy được thay bằng bàn tay của đồng đội. Sự
chăm sóc ấy có thể vụng về, nhưng vẫn tràn đầy sự quan tâm, thấm đẫm tình đồng chí. Câu thơ đang
vươn dài bỗng rút ngắn lại, chuyển sang âm điệu chậm rãi của phép liệt kê, tái hiện lại cuộc sống thiếu
thốn của đời lính. Đi kháng chiến, anh lính nông dân mang theo cả cái nghèo vào chiến khu. Quân đội ta
ngày ấy thiếu thốn đủ thứ, từ quân lương, quân y đến quân phục, quân trang, quân dụng,… Thiếu cả đến
cái phương tiện tối thiểu để giữ ấm bàn chân là đôi giày. Nhưng khi ta đọc đoạn thơ lên, cái khổ chỉ là
một yếu tố phụ, vì tình đồng chí đã tỏa hơi ấm và tiếp thêm sức mạnh cho người lính. Cặp đối ứng “áo
anh rách vai” – “quần tôi có vài mảnh vá” là gợi cái thiếu thốn nhưng thực chất lại mang ý nghĩa bổ sung.
Tác giả miêu tả hai con người nhưng người đọc lại cảm thấy chỉ có một hình ảnh duy nhất – “đồng chí”.

“Đồng chí” không còn chỉ là tình cảm gắn bó keo sơn giữa những người lính mà đã trở thành một hình
tượng có thực. Hình tượng ấy hóa thân vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống của người lính :
“rách vai”, “có vài mảnh vá”, “chân không giày”. Ở dây không còn sự khoa trương, tô vẽ như trong bài
thơ “Ngày về” : “Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm / Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”. Chất liệu
hiện thực trong “Đồng chí” rất thật, thật tới mức trần trụi. Bài thơ lấy cảm hứng từ chiến dịch Việt Bắc
thu đông 1947 mà tác giả tham gia cùng đồng đội nên ông hiểu và cảm nhận được rất rõ cái gian khổ mà
người lính phải chịu đựng.
* Lạc quan, tin tưởng: Nhưng trong hoàn cảnh đó, người lính vẫn “miệng cười buốt giá”. Tác giả đã rất
tài tình khi tả nụ cười mà khiến người đọc cảm nhận được cái lạnh giá tê buốt của núi rừng mùa đông.
Hình ảnh ấy vượt qua cái khắc nghiệt của chiến trường để đọng lại trong ta một ấn tượng thật đẹp về tinh
thần lạc quan, về khí phách anh hùng, về sức chịu đựng bền bỉ, về sự hy sinh âm thầm của người chiến sĩ.
Nó gợi cho ta nhớ đến cái cười âm vang cả Trường Sơn của những người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến
Duật : “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
* Đoàn kết thương yêu nhau
- Sức mạnh đoàn kết đã khiến họ vượt qua tất cả. Không chỉ có tinh thần lạc quan t in tưởng mà còn có
tình yêu thương đoàn kết gắn bó với nhau. Đó chình là nét đẹp khiến cho những người lính trong bài thơ
"Đồng chí" sống mãi.
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn gian khổ đến đâu, chỉ cần một cái nắm tay là hai con người hòa
vào làm một, hòa vào thành “đồng chí”. Với họ, bàn tay đã thay cho những lời nói, lời hứa, lời quyết tâm
cùng nhau chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh niềm tin qua bàn tay
nắm chặt. Đó là bàn tay giao cảm thay lời muốn nói, bàn tay của sự đoàn kết, gắn bó keo sơn. Bàn tay ấy
truyền hơi ấm, cảm thông, động viên, chia sẻ, thắt chặt tình người, tình bạn. Nếu như trong thơ Phạm
53
Tiến Duật, người lính “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” để gần nhau hơn trên chặng đường dài thì với
Chính Hữu, cái nắm tay đầy tình thương kia là biểu tượng cao đẹp, nồng ấm và thiêng liêng nhất của tình
đồng chí. Chiến tranh có thể tàn phá, cướp đi tất cả, nhưng không thể giết chết mối liên kết ấy. Chất liệu
hiện thực sinh động chỉ là cái nền để tôn lên vẻ đẹp sâu lắng và sức mạnh của tình đồng chí - tình cảm đã
giúp tác giả và biết bao người lính khác sống qua những tháng ngày lửa đạn.
* Đánh giá nâng cao

III. Kết bài : Đối với nghệ thuật, người nghệ sĩ phải bén rễ vào cuộc đời, hút lấy nguồn nhựa dạt dào
ngầm chảy trong lòng cuộc sống, đem tôi luyện trong cảm xúc của mình để kết tinh thành những viên
ngọc sáng ngời để lại cho đời. Nhà thơ Chính Hữu đã làm được điều đó. Đến với “Đồng chí”, ta cảm
nhận được hình ảnh người lính cách mạng và tình cảm gắn bó keo sơn của họ qua ngôn ngữ, hình ảnh cô
đọng, chân thực và gợi cảm. Bài thơ đã khắc họa nên bức tranh sống động và hiện thực nhất về một quá
khứ gian khổ vô cùng nhưng đầy ắp tình đồng đội, về những con người đã vượt qua tất cả để giành lấy
hòa bình, độc lập ngày hôm nay.
…………………………………………………………
* Đề bài 3 : Phân tích khổ thứ ba của bài thơ "Đồng chí
I. Mở bài
- Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác - Khái quát nội dung + nghệ thuật - Giới thiệu, chép lại khổ thơ
II. Thân bài
1. Khái quát: Ba câu thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về
cuộc đời người chiến sĩ. Trong bức tranh trên, nổi bật là ba hình ảnh gắn kết với nhau : Người lính, khẩu
súng, vầng trăng giữa cảnh rừng hoang sương muối phục kích giặc. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp
họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm
lòng họ. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh đẹp nhất vì nó vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh
tượng trưng.
2. Phân tích:
Đêm nay rừng hoang sương muối
- Câu thơ vừa gợi không gian, vừa gợi thời gian và tính chất của thời tiết.
- Hai chữ “ Đêm nay” gợi mọt thời điểm cụ thể. Đó là lúc trời đã khuya, con người và vũ trụ đi vào sự
nghỉ ngơi nhưng người lính vẫn thức
- “ Rừng hoang” gợi liên tưởng đến không gian rộng lớn mênh mông, hoang vụ, lạnh lẽo, thiếu vắng sự
sống con người.
->Thiên nhiên và thời tiết như đang thử thách người lính giữa núi rừng hoang vu trong sương muối phủ
dày. Cái lạnh thấm sâu vào da thịt thì người lính vẫn:
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
- Ba chữ “đứng cạnh bên” vang lên như một lời khẳng định sự gắn bó sẻ chia của những người lính. Giữa
núi rừng hoang vu, giữa cái rét run người, người lính vẫn sát cánh bên nhau để chờ giặc tới.

- Họ đón đợi giặc trong tư thế hoàn toàn chủ động. Với cây súng, người lính trở thành linh hồn của đất
nước, của không gian và thời gian. Đêm đã khuya nhưng người lính vẫn toàn tâm toàn ý hướng lên mũi
súng. Trong giây phút đó, anh phát hiện một điều vô cùng kì diệu.
Đầu súng đang treo
* Tầng nghĩa thực:
- Câu thơ ngắn gọn, hàm súc tối đa, được sáng tạo trên một cơ sở thực tế: Đêm càng khuya, trăng càng
xuống thấp, người lính hướng mũi súng lên trời cao và họ có cảm giác như trăng treo lơ lửng trên đầu mũi
súng của mình.
* Tầng nghĩa tượng trưng: Câu thơ mở ra một tầng nghĩa phong phú. Chính từ tình đồng chí đã trải qua
bao thử thách gian nan đã tạo cho nhà thơ một cái nhìn thi vị. Sự hòa quyện giữa chất hiện thực khốc liệt
54
với chất lãng mãn bay bổng đã khiến cho “đầu súng đang treo”– trở thành hình ảnh đẹp nhất trong thơ ca
kháng chiến chống Pháp.
- Câu thơ thể hiện bản lĩnh nghệ thuật tài hoa của CH. Chỉ trong một câu thơ bốn chữ, nhà thơ đã xây
dựng thành công hai hình ảnh đối lập, đó là súng và trăng
- Từ xa xưa, trăng vốn là nguồn cảm hứng vô tận của các nhà thơ. Nét độc đáo trong thơ Chính Hữu là
ông đặt trăng trong mối quan hệ với súng. Nếu súng là biểu tượng của chiến tranh chết chóc thì trăng là
hiện thân của hòa bình, của khát vọng hạnh phúc muôn đời. Nếu súng là hiện thực khốc liệt thì trăng là
lãng mãn bay bổng. Nếu súng mang đậm chất chiến sĩ thì trăng thể hiện vẻ đẹp của người thi sĩ. Nếu
súng ở rất gần thì trăng lại ở rất xa……
=> Hai hình ảnh tưởng chừng hoàn toàn đối lập lại được sử dụng cùng chung một dụng ý nghệ thuật đều
góp phần hoàn thiện và tôn vinh vẻ đẹp người lính.
- Chiến tranh gian khổ ác liệt, vật chất thiếu thốn, thiên nhiên khắc nghiệt cũng không làm cho trái tim
người lính trở nên khô cằn. Mà ngược lại trái tim ấy lại trở nên đằm thắm hơn, tình người hơn, lãng mạn
hơn. Họ không chỉ phát hiện mà còn cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên ngay trong hoàn cảnh gian
khổ, ác liệt nhất. Điều đó cho thấy tâm hồn của những người lính thật tinh tế, nhạy cảm.
c. Đánh giá: Có thể thấy đây là bức tranh không gian ba chiều. Sự xuất hiện của “trăng” tạo chiều cao,
người lính “đứng bên nhau” tạo chiều ngang, ý chí tạo chiều xa. Trăng vốn mang vẻ đẹp mềm mại nhưng
vĩnh hằng, kéo trăng về với súng cho thấy ý chí chiến đấu cũng theo đó mà hóa thành vĩnh hằng. Sự khắc
nghiệt của chiến tranh khói lửa trong một phút bỗng nhạt nhòa đi trong bởi yếu tố trữ tình. Câu thơ cuối

thể hiện góc nhìn tinh tế để chụp lấy cái thần của hình ảnh. Vẻ đẹp người chiến sĩ được tôn vinh, đặt
ngang với vóc dáng kì vĩ của trời đất, tầm vóc con người sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, tầm vóc sử thi.
Ba câu thơ giúp người đọc cảm nhận đầy đủ hơn vẻ đẹp của người lính. Họ không chỉ dũng cảm can
trường trong khí phách mà rất đằm thắm, tinh tế trong tâm hồn, những con người đã từng được ca ngợi:
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
3. Kết bài:
Đoạn là hình ảnh thơ đẹp, giàu ý nghĩa. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa
thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu, vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ.
Đây là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở,
vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho
người đọc. Đồng thời nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng
liêng của anh bộ đội Cụ Hồ. Chính đêìu đó đã khiến hình ảnh các anh sống mãi với thời gian.
………………………………………………
Đề 4 : Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ ĐC
1.MB: Nhà thơ Chính Hữu trưởng thành từ người lính thuộc trung đoàn thủ đô, rồi nổi lên trong thơ ca
yêu nước chống Pháp với phong cách thơ bình dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha trầm hùng, vừa sâu
lắng, hàm xúc. Phần lớn các sáng tác của ông đều tập trung vào hình ảnh người lính, đặc biệt khai thác
sâu tình cảm, tình đồng chí, đồng đội. “Đồng chí” là bài thơ được sáng tác vào năm 1948, cũng là tác
phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Chính Hữu. Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu
nặng của những người lính cách mạng, đồng thời còn hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của
anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
2.TB - Phân tích: Làm rõ hệ thống luận điểm của nhân vật
* LĐ 1: Xuất thân từ những miền quê nghèo, Chung nhiệm vụ, chung khó khăn, thiếu thốn, chung lí
tưởng (súng bên súng … )=> Hình ảnh ĐC thiên liêng, cao đẹp.( Bảy câu thơ đầu)
* LĐ 2: Tình động đội keo sơn gắn bó - Hiếu thấu tâm tư tình cảm và hoàn cảnh của nhau.
- Cùng chia sẻ những khó khăn về thời tiết và những thiếu thốn của vật chất đời thường,
- Thương yêu gắn bó, khăng khít keo sơn ( Thương nhau tay nắm lấy bàn tay)
* LĐ 3 Lạc quan yêu đời
55
* LĐ 4: Dũng cảm kiên cường trong khí phách, đằm thắm trong tâm hồn, hòa quyện giữa chất thi sĩ và

chiến sĩ.
* Đánh giá nâng cao: Cách xây dựng nhân vật: Bút pháp hiện thực, h/ả, ngôn ngữ bình dị chọn lọc…->
Tạc vào thế kỉ XX bức tượng đài người lính. Cùng với “ Nhớ”, “Tây Tiến”, “ Đồng chí” đã góp phần làm
cho hình ảnh người lính sống mãi trong lòng người đọc
III. Kết bài: Bài thơ đã kết thúc nhưng nó sẽ còn sống mãi chừng nào con người chưa mất đi bản năng
của chính mình: sự rung động. Quả thật văn chương đã tạo ra cho mình một thế đứng riêng còn mạnh hơn
lịch sử. Cùng tái hiện lại một thời đau thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến sĩ, nhưng văn
chương đã đến với người đọc theo con đường của trái tim, gây nên những xung động thẫm mĩ trong tâm
hồn con người, làm thành sự xúc cảm tận đáy tâm hồn và những ấn tượng không thể nào quên . Đó là
những năm đau thương chứng kiến những con người dũng cảm, kiên cường. Họ không khô khan mà bầu
nhiệt huyết nung nấu, tràn đầy lòng hy sinh, tình đồng đội trong sáng, thân ái. Chính những điều đó làm
bài thơ “Đồng Chí ” trên những trang giấy vẫn có lúc được lật lại, vẫn nhỏ từng giọt ngân vang, tưởng
đến những con người thần kì mà bình dị với niềm tự hào kiêu hãnh , cho hôm nay và mai sau mãi nhớ về.
………………………………………………
Bài tham khảo: Phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.
Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. Ở truyền thuyết “Chú
cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà
màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng,
trăng được nhà thơ Chính Hữu kết tinh thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ “Đồng
chí” của mình.
Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”. Thế mới biết tác giả
đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.
Đầu súng trăng treo- đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng
heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ
lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách
nhau vời vợi bỗng hoà quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi,
chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng
chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ. Giờ đây,
người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say
sưa ngắm ánh trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay “đất cày

trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có
tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan
thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây
cũng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với ánh
trăng.
Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng toả sáng làm ngời ngời lòng người,
trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những ngươì linh.
Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là
bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.
Đầu súng trăng treo- hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và tr¨ng kết hợp nhau; súng tượng
trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc. Súng là con người, trăng là đất nước
quê hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là
hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí
tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu
56
cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng núi trập
trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh
trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ
quan bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.
Cái thần của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà quá,
làm sao còn nét lãng mạn ?. Và hãy thay một lần nữa bằng từ “lên” cũng không phù hợp, vì nó là hiện
tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có
trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng
của một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ dường như được
sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay” trong một không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối”
lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút. Thế
nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện
thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và
súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội hoạ nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một
câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên

trên quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa. Ai bỏ quên ở phía chân trời…”.
Nhưng có lẽ cô kết nhất, hay nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.
Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh “Đầu súng trăng treo” làm
tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn
trong bài thơ cách mạng. Lãng mạng nhưng không thoát li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm
của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người
trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử
của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu
nào bằng hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu.
Nếu như Elsa Trioslet – nữ văn sĩ Pháp có nói “Nhà văn là người cho máu” thì tôi hãnh diện nói với
văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để tạo nên câu thơ tuyệt vời để cống hiến cho cuộc kháng chiến của
chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng tôi những chú chim trắng trên bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc
Hoà Bình vì hình ảnh đầu súng trăng treo mà nhà thơ đã gởi vào đó bao nhiêu khát vọng nay đã thành
hiện thưc.
Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình " Đồng chí".
Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể
có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút
chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc
khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngôn ngữ bình dị
dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà
thơ cách mạng
Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên
những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?
Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh
những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và
hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ"Đồng chí", Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân
của những người lính:
"Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc

áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ
quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. "Anh" và "tôi", hai người bạn mới quen, đều xuất than từ
những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của
57
những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họp tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm
biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu,họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh
hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu chỉ nhận
riêng mình". Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề
vai sát cánh chung một chiến hào Dường như tình đồng đọi cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé
ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
"Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí ! "
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ dưa bài thơ lên tận
cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình
đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc
trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng
tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở
của bài thơ cũng như mảnh mai hơn Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng
chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ
Chính Hữu.
Hồi ức của những người lính, những kĩ niệm riêng tư quả là bất tận:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"
Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao ! Đối với những người

nông dân, ruộng nương, nhà cửa là những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng,họ lớn lên theo
câu hát ầu ơ của bà của mẹ.Họ lơn lên trong những "gian nhà không mặc kẹ gió lung lay". Tuy thế, họ
vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc Nhưng họ đã vượt qua
chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theop con đường ấy là đi theo khát vọng, đi
theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả nhưng bóng hình của quê hương
vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dẫu rằng" mặc kệ" nhưng trong lòng họ vị trí của
quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ
thường thấy trong thơ văn,nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn người:
"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh
liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa"gieengs nước gốc đa" cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính.
Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những
người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chòng và những đôi trai
gái yêu nhau
Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần anh có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày"
Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn
58
của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người
linha còn thiếu thốn quân trang, quân dụng,phải đối mặt với sốt rét rừng,cái lạnh giá của màn đêm Chỉ
đôi mảnh quần vá,cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ
cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng,nó gần gũi mà chân
thực, không giả dối, cao xa Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người lính. Tình đồng chí:
"Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa
Là chia nhâu một trưa nắng, một chiều mưa

Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết" ( Nhớ- Hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô
lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ
quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng.
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giác tới"
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ
đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi
ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã
khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn,
thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ
cuối cùng rất nên thơ: " Đầu súng trăng treo"
Ánh trăng gần như gắn liền với người lính: " Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ"
( Ánh trăng- nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa
giữa không gian, thời gian,ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến
đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì.
Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung
động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan
tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. người chiến sĩ như cất cao
tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ
đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau " kề vai sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.
Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất
của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng
một sợi dây yêu thương vô hình.
Bài thơ " Đồng chí" với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến
sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ

quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sa
Bµi th¬ vÒ tiÓu ®éi xe kh«ng kÝnh
I. Nhà thơ Phạm Tiến Duật.
- Phạm Tiến Duật ( 1941 - 2007), quê ở Thanh Ba -Phú Thọ
- Là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống M và được đánh giá là một trong những gương
mặt tiêu biểu của nhà thơ trẻ Việt Nam thời kì này.
- Thơ PTD sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh và sâu sắc, đặc biệt ngang tàng đậm chất lính.
59
- Các tác phẩm của ông tập trung thể hiện hình ảnh người lính và cô thanh niên xung phong trên các tuyến
đường Trường Sơn.
II. Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
1. Hoàn cảnh sáng tác : Bài thơ được sáng tác năm 1969, nằm trong chùm thơ được giải nhất trong cuộc
thi thơ báo văn nghệ năm 1969 - 1970, sau này bài thơ được đưa vào tập thơ " Vầng trăng, quầng lửa".
2. Đề tài : Người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
3. Chủ đề: Bài thơ ca ngợi những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ. Họ là người lính có tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan yêu đời, dũng cảm, bất chấp khó khăn
nguy hiểm, lòng yêu nước và khát vọng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
4. Nội dung :
- Là nhà thơ của chiến sĩ, từng lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, PTD đã viết bài thơ với sự trải
nghiệm của chính bản thân mình.
- Bài thơ đã tạc vào thế kỉ XX một bức tượng đài chiến sĩ : Tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan yêu đời,
dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, lòng yêu nước và khát vọng giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước.
- Bài thơ mãi như một thước phim, tái hiện một thời kì lịch sử vô cùng gian khổ hi sinh nhưng cũng rất vẻ
vang của dân tộc.
5. Nghệ thuật :
- Cách lựa chọn đề tài mới mẻ, độc đáo : Những chiếc xe không kính.
-> Khai thác vẻ đẹp và chất thơ ngay trong cuộc sống gian khổ đời thường.
- Th th t do, câu d i ng n khác nhau, gieo v n ti ng cu i cùng c a dòng th .ể ơ ự à ắ ầ ở ế ố ủ ơ
- Ngôn ngữ thơ giản dị tự nhiên như lời ăn tiếng nói hàng ngày những vẫn rất sâu sắc, hóm hỉnh.

- Giọng điệu rất riêng, rất mới lạ và độc đáo : Vừa ngang tàng, bông đùa, tinh nghịch, dí dỏm vừa ung
dung thanh thản, vui tươi vừa lắng sâu trách nhiệm.
III. Đề Tập làm văn
* Đề bài 1: Phân tích hình ảnh người lính trong " Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
I. Mở bài:
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm kháng
chiến chống Mĩ. Thơ của ông thường hay thể hiện hình ảnh thế hệ thanh niên trong cuộc chiến thần thánh
này qua hình tượng cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Trong
niềm cảm hứng phơi phới một thời :
" Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai "
Phạm Tiến Duật đã sáng tác "Bài thơ về tiểu đội xe không kính". Với một giọng thơ khỏe khoắn, tự nhiên,
tinh nghịch, tươi vui mà giàu chất suy kết hợp với những hình ảnh chân thực, nhà thơ đã làm sống lại
những năm tháng chiến tranh, những năm kháng chiến hào hùng của dân tộc qua hình ảnh những chiếc xe
không kính. Đặc biệt, tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi những hình ảnh
những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn. Đó là những con người dũng cảm đến ngang tàng mà rất
giản dị, yêu đời, lạc quan.
II. Thân bài :
a, Khái quát : "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" đã đạt được giải Nhất trong cuộc thi trên báo văn nghệ
năm 1969. Trong đó, chân dung những người chiến sĩ đã được khắc họa bằng những chi tiết sống thực ở
chiến trường. Có thể thấy PTD đã khai thác được chất thơ rất lính nhưng lại bộc lộ phẩm chất cao đẹp của
những người lính lái xe nói riêng và những chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ nói chung.
b, Phân tích :
b1.Hình ảnh những chiếc xe không kính:
Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến
trường.
60
- Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì thường được “mĩ lệ hoá”, “lãng mạn
hoá” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong
thơ Pus-kin, con tàu trong “tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng

tên của Huy Cận.
- Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Lẽ thường, để
đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì
xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe không kính” lại là một thực tế diễn ra thường ngày nơi
tuyến đường TS ác liệt. Những chiếc xe “không kính” rồi “không đèn”, “không mui” ấy vẫn chạy băng ra
tiền tuyến.
+ Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần không bình thường ấy:
Không có kính không phải vì xe khôg có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”
- Chỉ trong một câu thơ mà tác giả đã sử dụng 3 điệp từ "không" nhấn mạnh : "xe có kính". Những hiện
tại những chiếc xe ấy lại trở thành không có kính. Bởi vì " bom giật, bom rung kính vỡ mất rồi". Lời thơ
tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất
thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Câu thơ rất gần với
văn xuôi lại có giọng thản nhiên, ngang tàng trong đó ngày càng gây ra sự chú ý về vẻ đẹp khác lạ của
nó. Hình ảnh “bom giật, bom rung” vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là
“túi bom” của địch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là nguyên nhân để
những chiếc xe vận tải không có kính.
- Những chiếc xe như vậy vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm với
nét ngang tàng, tinh nghịch thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thơ thành
hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ.
b2. Hình ảnh những chiến sĩ lái xe:
Trên những chiếc xe không kính ấy, người lính vẫn vững tay lái bình tĩnh, tự tin vượt qua mưa bom
bão đạn với mục tiêu " Tât". Hình ảnh những chiếc xe không kính đó làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ
lái xe ở Trường Sơn.Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lái xe bộc lộ
những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất
chấp khó khăn, gian khổ. Đây chính là dụng ý nghệ thuật của PTD. Ông muốn mượn h/ả những chiếc xe
đó để làm nổi bật chân dung người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường TS.
* LĐ 1: Ung dung, tự tin:
Trên những chiếc xe ấy, người chiến sĩ vẫn bình tĩnh với tay lái của mình điều khiển xe đến địa điểm đã
định. Hình ảnh các anh trên buồng lái thạt ung dung, tự tin làm sao :

Ung dung buồng lái ta ngồi
=>Từ láy “ung dung” đặt lên đầu câu diễn tả thế ung dung, lạc quan của người lính – một thái độ bình
tĩnh, thanh thản, không hề mảy may lo lắng. Trên những chiếc xe ấy người lính:
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đẳng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
- Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh
nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là “:gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con
đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng, va
đập, quăng ném vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái,
hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động và cụ thể, đầy ấn
tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế.
61
- Kết cấu thơ 6 chữ với nhịp 2/2/2 đều đặn, điệp từ “nhìn”, “thấy”, được đặt ở ba đầu câu thơ liên tiếp
diễn tả thái độ tập trung cao độ của người lính, một tinh thần trách nhiệm nhưng của một tâm hồn lãng
mạn, bình thản, chủ động chiêm ngưỡng và tận hưởng từng vẻ đẹp của thiên nhiên qua ô cửa kính vỡ.
Trên chiếc xe ấy, người lính nhìn thấy mặt đất bao la, bầu trời cao rộng và con đường phía trước. Hai từ
“nhìn thẳng” mang nhiều ý nghĩa.
+ Nhìn thẳng vào con đường phía trước
+ Nhìn thẳng vào nguy hiểm, chết chóc, gian khổ, khó khăn.
- Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim -> Đó là khi xe lướt trên đường => người lính thấy con
đường như chạy ngược trở lại. Hình ảnh “Con đường chạy thẳng vào tim” là một khái quát đặc sắc của
con đường của trái tim người lính lựa chọn. Con đường chiến đấu và bảo vệ tổ quốc. Đường Trường Sơn,
con đường giải phóng miền Nam, chính là con đường của trái tim. Những câu thơ trên hé lộ diện mạo tinh
thần thầm kín của người chiến sĩ.
- “ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim” là khi xe trong đêm, lên dốc và cua gấp.
Do không có kính, không đèn, không mui, những người lính có thể tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên. Họ
có được cảm giác mạnh khi ngồi điều khiển những chiếc xe không kính. Tuy vậy, họ vẫn ung dung, tự tin

lái xe ra tiền tuyến
Như vậy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe T.Sơn
đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm,
quyết tâm chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình
thường. Giọng thơ rất trôi chảy, nhẹ nhàng gợi hình ảnh những chiếc xe nhẹ nhàng lăn bánh ra trận. Hình
ảnh của người lính mang một vẻ đẹp kiên cường.
* LĐ 2: Bản lĩnh vững vàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, tinh thần lạc quan yêu đời.
- Xe không có kính nên người lính được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên.
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối người ngoài trời
- Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến
đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió,
bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời). Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt,
những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ.
- Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa
tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ đội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận
tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm
lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách
thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của
chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức
mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.
+ Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ hiểm nguy:”Chưa
cần rửa khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những
bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi
cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong
những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ý thơ rộn rã, sôi
động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì
lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu
táo với nhau vậy. Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực
thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô

tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, giọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến
Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của
62
những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe
Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn
nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn
chiến thắng và tràn đầy niềm tin.
* LĐ3: Tình ĐC, ĐĐ keo sơn gắn bó .
- Họ - những người lính còn biết biến những khó khăn, thiếu thốn của vật chất thành cái thuận lợi.
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
-> Đó là cách bắt tay độc đáo, có 1 không 2. Chỉ một cái bắt tay cũng ấm lòng, đủ động viên nhau, cảm
thông với nhau. Cái bắt tay truyền cho nhau cả tâm hồn, tình cảm. Tình cảm ấy thắm thiết như ruột thịt,
như anh em trong gia đình. Họ đã bỏ qua nghĩ lễ xã giao thông thường nhất để đến với nhau = tình yêu
thương của những người đồng đội, của tình đồng chí.
- Những người lính lái xe trên khắp mọi miền đất nước đã coi nhau là người thân trong gia đình. Họ đã lái
“những chiếc xe từ trong bom rơi” để về đây họp thành tiểu đội. Họ đến với nhau cũng thật chân thành:
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
- GĐ- hai tiếng thật thiêng liêng. – nhưng những người lính đã có cách định nghĩa về gia đình thật lạ,
thật tếu hóm và tình cảm thật sâu nặng, thiêng liêng giúp con người xích lại gần nhau trong những cái
chung: chung bát, chung đĩa, nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh, chung con đường với vô vàn thách
thức nguy hiểm phía trước.
- Người lính quan niệm về gia đình thật đơn giản. Chỉ cần ăn với nhau 1 bữa cơm là đã trở thành 1 gia
đình. Gia đình ấy bắt nguồn từ tình đồng đội, đồng chí khăng khít
Khi hành quân các anh động viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo, những sinh hoạt, nghỉ ngơi
thật ngắn ngủi, cái ăn, giấc ngủ thật giản dị, gian khổ nhưng tâm hồn người lính thật vui tươi, lạc quan, có
cái gì xao xuyến: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy”. “Chông chênh” gì thì chông chênh nhưng ý
chí chiến đấu, khí phách, nghị lực vẫn vững vàng, kiên định, vượt lên tất cả. Chính mình đồng đội đã tiếp
cho họ sức mạnh để tâm hồn họ phơi phới lạc quan. Phải chăng chính tình cảm ấy đã nâng lên câu hát
nâng bước chân người lính tiếp tục vượt qua những lần “bom giật bom rung” để rồi “lại đi, lại đi trời
xanh thêm”. Điệp ngữ “lại đi” khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới. Hình ảnh “trời xanh thêm” gợi

lên tâm hồn chan chứa lạc quan, đầy hy vọng, yêu đời của người lính.
* LĐ 3: Lòng yêu nước, khát vọng giải phóng miền Nam ruột thịt
- Bài thơ khép lại bằng bốn câu thể hiện “ý chí… Tổ quốc”. Đó chính là động lực mạnh mẽ và sâu xa
tạo nên sức mạnh phí thường của người lính để vượt lên tất cả, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự huỷ diệt,
tàn phá.
- Khổ thơ cuối tạo nên kết cấu đối lập, bất ngờ, sâu sắc, đối lập giữa 2 phương diện vật chất và tinh
thần, giữa vẻ bên ngoài và bên trong của chiếc xe. Trải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe ban đầu đã
không có kính, bị bom Mỹ làm cho biến dạng đến trần bụi:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
- Với biện pháp liệt kê, điệp ngữ “không có” được nhắc lại 3 lần nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi
của những chiếc xe, còn cho ta thấy mức độ ác liệt của chiến trường.
- Nhưng điều kỳ lạ là không có gì có thể cản trở được sự chuyển động kỳ diệu của những chiếc xe trơ
trụi ấy vẫn băng ra chiến trường. Tác giả lý giải bất ngờ và lý thú: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Mọi thứ của xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ cần vẹn nguyên trái tim người lính - trái tim vì miền
Nam - thì xe vẫn chạy, “tất cả cho tiền tuyến”. Đó không chỉ là sự ngoan cường, dũng cảm vượt lên mọi
gian khổ ác liệt mà còn là sức mạnh của tình yêu nước.
- Đối lập với tất cả những cái “ không có ” ở trên là một cái “có” . Đó là trái tim – sức mạnh của người
lính. Sức mạnh con người đã chiến thắng bom đạn kẻ thù.
63
- Trái tim ấy thay thế cho tất cả những thiếu thốn “không kính, không đèn, không mui”, hợp nhất với
người chiến sĩ lái xe thành một cơ thể sống không gì tàn phá, ngăn trở được. Xe chạy bằng tim, bằng
xương máu của người chiến sĩ. Những chiếc xe càng thêm độc đáo vì đó là những chiếc xe trái tim cầm
lái.
- Trái tim yêu thương, trái tim can trường của người chiến sĩ lái xe. Đó là hình ảnh hoán dụ gợi biết
bao ý nghĩa. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam.
Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng
kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Nhà văn đã
tô đậm những cái “không” để làm nổi bật cái “có” để làm nổi bật chân lí của thời đại: bom đạn, chiến
tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhưng không thể bẻ gẫy được

những giá trị tinh thần cao đẹp….để rồi một nước nhỏ như Việt Nam đã chiến thắng một cường quốc lớn.
Hình ảnh “ trái tim” trở thành nhãn tự bài thơ, cô đúc ý toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại
cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
- Trái tim người lính toả sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ mai sau khiến ta không quên một thế hệ
thanh niên thời kỳ chống Mỹ oanh liệt của dân tộc.
c. Đánh giá nâng cao: Cùng với “ Khoảng trời hố bom”, “ Bài ca lái xe đêm”, “ Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” giúp ta hiểu hơn về một thế hệ trẻ Việt nam anh dũng, kiên cường. Chính họ là những con
người đã góp phần làm nên chiến thắng.
3. Kết bài: "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm
Tiến Duật. Với chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ
Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng
tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con
người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam
trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 - 1975.
………………………………………………………………….
Đề bài 3 : Hình ảnh người lính trong BTTĐXKK và Đồng Chí
1. MB: - Hình ảnh người lính (2 cuộc chống Pháp và Mĩ)
- Vị trí của họ trong lòng độc giả…
- Họ đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà văn, nhà thơ. Có nhiều nhà văn thành công
khi viết về người lính. Một trong số đó phải kể đến Đồng Chí của CH và BTVTĐXKK của PTD.
2. TB: Đồng Chí và BTTĐXKK là 2 tác phẩm của 2 thế hệ thi nhân nối tiếp nhau trong cuộc chiến tranh
của dân tộc. Đặc biệt tác giả của 2 bài thơ đều là những người lính từng trực tiếp tham gia chiến đấu.
- Đồng Chí được sáng tác năm 1948 giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ còn bài thơ về tiểu đội
xe không kính ra đời sau đó 20 năm(18 năm) giữa thời kì ác liệt nhất kháng chiến chống Mĩ.
- Tuy ra đời 2 thời địa điểm khác nhau nhưng 2 nhà thơ đều viết chung 1 đề tài: hình tượng anh bộ đội Cụ
Hồ. Đó cũng chính là hình tượng tiêu biểu của Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975
a. Nét chung của hình tượng người lính trong bài thơ
* Lòng yêu nước
- Dù là người lính trong kháng chiến chống Pháp hay chống Mĩ thì ở họ đều có lòng yêu quê hương, đất
nước nồng nàn, đều có chung ý chí chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc.

- Người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp vốn là những người dân gắn bó máu thịt với ruộng đồng
Ruộng nương …….
Nhớ người đi lính
- Dù tài sản chỉ có một gian nhà không, dù ruộng nương phải giữ bạn thân cày cấy những người lính vẫn
kiên quyết dứt khoát ra đi chiến đấu. -> Họ đã gác tình riêng vì nghĩ lớn. Họ ra đi để lại sau lưng mái
đình, giếng nước, gốc đa và tình thương nỗi nhớ của người thân. Lòng yêu quê hương, đã thôi thúc họ ra
trận.
64
- Cũng chính từ lòng yêu quê hương đất nước mà người lính trong kháng chiến chống Mĩ đã có mặt ở
tuyến đường Trường Sơn ác liệt, nơi mưa bom bão đạn để rồi lòng yêu nước nở hoa, khiến cho họ có đủ
sức mạnh để làm nên điều kì diệu: biến những chiếc xe tồi tàn cũ nát, trơ trụi trở nên hữu ích, đã khiến nó
chạy băng băng trên đường ra trận, góp phần tiếp tế sức người, sức của cho MN ruột thịt -> Góp phần lớn
vào thắng lợi của dân tộc. Dường như xe không phải chạy bằng động cơ, máy móc mà chạy bằng trái tim
người lính. Trái tim là hình ảnh hoán dụ sâu sắc, là biểu tượng đẹp, giàu ý nghĩa cho lòng yêu nước nồng
nàn, khát vọng giải phóng miền Nam ruột thịt.
* Bản lĩnh vững vàng, bất chấp mọi khó khăn gian khổ.
- Người lính vượt qua mọi khó khăn gian khổ = chính bản lĩnh, nguồn lực của mình. Họ đã vượt qua sự
khắc nghiệt của thời tiết ; căn bệnh sốt rét quái ác nơi chiến trường
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
- Họ phải khắc phục cả những thiếu thốn, trang thiết bị đời thường nhất.
Áo anh rách vai, ……
Không giày.
- Họ điều khiển những chiếc xe tồi tàn đến trơ trụi : không kính, không đèn, không mui, thùng xe có
xước Dù khó khăn nguy hiểm, dù thiên tai, dù phải đối diện với chết chóc hi sinh, những người lính vẫn
giữ được bản lĩnh vững vàng. Khó khăn chỉ là cơ hội để họ khẳng định bản lĩnh và ý chí của mình. Trong
hoàn cảnh khắc nghiệt nhất họ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên.
Đầu súng trăng treo ( Phân tích khái quát)
+ Họ vẫn nghĩ rằng: Lại đi, lại đi trời xanh thêm
-> Nếu không có một bản lĩnh can trường, lòng tự tin thì người lính không thể nhìn cuộc chiến với cái

nhìn nên thơ như vậy.
* Tinh thần lạc quan yêu đời
+ Đặc điểm chung của 2 người lính của 2 cuộc kháng chiến là tinh thần luôn lạc quan yêu đời.
+ Giữa giá rét núi rừng Việt Bắc, người lính vẫn nở nụ cười dù đó là nụ cười gượng gạo vì giá rét,
hành động ‘ phì phèo châm điếu thuốc” tiếng cười “ha ha” giữa nơi mưa bom bão đạn là biểu hiện
cao nhất cho sự yêu đời, lòng lạc quan, cho bản lĩnh vững vàng của người lính.
* Tình yêu thương đồng chí, đồng đội keo sơn.
- Với người lính chống Pháp thì: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ( phân tích khái quát)
- Với người lính trong cuộc k/c chống Mĩ: Những chiếc xe từ trong bom rơi.
Đã về đây họp thành tiểu đội
Bếp Hoàng…đấy”
=> Tình yêu thương đồng đôi cũng là yêu nước nồng nàn là cội nguồn tạo nên sức mạnh giúp cho người
lính có bản lĩnh vững vàng, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, đi đến đích cuối cùng.
b. Điểm riêng :
- Đồng chí: Khắc họa hình tượng người lính. Họ là người nông dân chưa biết chữ. Cách mạng chính là sự
giải thoát cho số phận đau khổ tối tăm của họ.Họ bước vào cuộc chiến gay go, thiếu thốn, không phải từ
sự lãng mạn bay bổng mà chính cuộc chiến biến họ trở nên lãng mạn, oai hùng.
- Bài thơ tiểu đội xe…:Người lính trong TDXKK đều là những thanh niên sinh viên tri thức, có học vấn
vì họ đã được học tập 20 năm dưới XHCN. Họ bước vào cuộc chiến với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi
cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Người lính đi vào cuộc chiến đấu với ý thức giác ngộ về lý
tưởng độ lập tự do gắn với chủ nghĩa xã hội. Họ ý thức sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ mình. Họ sống
trẻ trung, yêu đời, lạc quan, tự tin. Hình ảnh của họ được thể hiện trong một thời điểm quyết liệt và khẩn
trương hơn. Đó là một thế hệ anh hùng, hiên ngang, mạnh mẽ.
- Họ đều có những khó khăn thiếu thốn nhưng người lính trong kháng chiến chống Pháp thiếu thốn hơn,
gánh nặng hậu phương trên vai họ trĩu nặng hơn.
65
-> Có lẽ vì thế người lính trong bài Đồng Chí, dù yêu thương sâu sắc, thương nhau chân tình thì tình đồng
đội của họ luôn lặng thầm, không ồn ào khoa trương.
- Còn người lính trong bài BTVTĐXKK bước vào cuộc chiến với tâm trạng nhẹ nhàng thanh thản, hồn
nhiên đến ngang tàng, tình cảm của họ sôi nổi, trẻ trung.

* Đánh giá nâng cao:
- Tạc vào thế kỉ XX bức tường đài sông về hình ảnh bộ đội Cụ Hồ
- Tuy viết về những người lính nhưng chính là viết về đồng đội của mình nên vô cùng chân thực và sống
động.
- Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với những chi tiết thật đến trần trụi của cuộc sống
người lính nhưng hai bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu riêng của mỗi tác giả và cảm hứng
nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính Hữu hướng vào vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của người
lính, còn PTD thì lại tập trung làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó
khăn và bom đạn kẻ thù của những người lính lái xe.
- 2 bài thơ với 2 phong cách khác nhau => góp phần tô đậm và hoàn thiện hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ.
3. Kết bài:
Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua, đọc lại hai bài thơ về người lính qua hai thời kì,
trong ta bỗng dấy lên niềm xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực
rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi
tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh giải phóng quân đến các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn
sống mãi trong lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.
…………………………………………………………
III. Một số câu hỏi nhỏ: ( 1, 5 – 2 điểm)
Câu 1: Ý nghĩa nhan đề Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một nhan đề lạ bởi độ dài, bởi sự tương phản rất đặc biệt
+ Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở
cái vẻ lạ, độc đáo của nó : nó đã làm nổi bật hình ảnh thơ chủ đạo của toàn tác phẩm : những chiếc xe
không kính.
+ Đưa những chiếc xe không kính vào trong văn học là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn
bó và am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ
của nhà thơ.
+ Hai chữ “Bài thơ” ở đầu nhan đề cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả : viết
về những chiếc xe không kính hay là hiện thực khốc liệt của chiến tranh, tác giả muốn nói về chất thơ của
hiện thực ấy.
+ Đọc bài thơ , ta càng thấy rõ hơn nét đặc sắc của nhan đề: những chiếc xe không kính chỉ là bức phông

nền để tôn lên chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang dũng cảm trẻ trung, vượt lên thiếu thốn gian khổ, hiểm
nguy của chiến tranh để sống lạc quan, để chiến đấu dũng cảm vì lý tưởng của dân tộc : giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.
Câu 2: Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ qua hình ảnh người lính trong bài thơ.
So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này với bài Đồng chí:
- Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ là thế hệ sống rất đẹp, rất anh hùng. Họ ý thức sâu sắc về sứ
mệnh lịch sử của mình, trong gian khổ, hy sinh vẫn phơi phới lạc quan. Như lời nhà thơ Tố Hữu, họ là thế
hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai” hay “Đi chiến trường như trảy
hội mùa xuân” hay “Mưa bom bão đạn lòng thanh thản”. Chính vì vậy, mãi mãi các thế hệ người Việt
vẫn tự hào, khâm phục và biết ơn họ.
- Những người lính trong “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cho thấy hình ảnh người
lính trong hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ có những nét chung: lòng yêu nước, dũng cảm, sẵn sàng
66
hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc: thái độ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, sống lạc quan,
có tình đồng chí đồng đội thắm thiết.
Câu 3 a. Phân tích giá trị biểu cảm của từ “chông chênh” trong câu thơ: “Võng mắc chông chênh đường
xe chạy. Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Gợi ý:
a. - “Chông chênh” là một từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tả tư thế không
thăng bằng, không chắc chắn, không vững chãi. Trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ thì từ “chông chênh”
gợi sự nguy hiểm. Đây là một nét vẽ hiện thực mà Phạm Tiến Duật tái hiện lại cuộc đời gian khổ của
người lính lái xe Trường Sơn. Trong hoàn cảnh chiến đấu hết sức gian khổ, họ phải ăn, phải ngủ những
giấc ngủ ngắn trên xe hoặc trên dọc đường đi giữa làn mưa bom của kẻ thù nhằm huỷ diệt sự sống.
- Song từ “chông chênh” còn gợi tả phong thái hiên ngang của người lính. Bom đạn của kẻ thù tưởng
như có thể dùng sức mạnh để huỷ diệt sự sống con người nhưng không! Hình ảnh những chiếc võng mắc
“chông chênh” trên tuyến đường TS khói lửa ấy đã chứng minh điều ngược lại: sự sống không chỉ tồn tại
mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang, tư thế của người chiến thắng.
- Bầu trời xanh là hình ảnh trượng trưng cho hoà bình, cho cuộc sống tươi đẹp. Với hình ảnh này, ta
thấy được niềm lạc quan, niềm tin bất diệt của người lính vào chiến thắng. Phải chăng đó là sức mạnh lớn
lao để đoàn xe lăn bánh tới đích

Câu 4: Cảm nhận của em về chi tiết "tiếng cười" trong hai câu thơ:
- Miệng cười buốt giá
( Chính Hữu)
- Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
( Phạm Tiến Duật)
Về kĩ năng: Cần viết thành một bài văn ngắn, trình bày cảm nhận về nét chung và riêng ở hai câu thơ.
Về nội dung: Cảm nhận được điểm chung:
- Cùng miêu tả nụ cười của người chiến sĩ
- Đều biểu hiện niểm lạc quan vượt mọi khó khăn, nguy hiểm
- Tiếng cười giúp người lính thêm niềm tin sức mạnh, ý chí nghị lực để tiếp tục chiến đấu
=> Nét đẹp phẩm chất của người chiến sĩ trong hai cuộc kháng chiến.
Cảm nhận nét riêng ở từng câu thơ:
- Trong câu thơ của Chính hữu: Tiếng cười được cất lên trong hoàn cảnh vô cùng khó khắn thiếu thốn. nụ
cười “buốt giá” gợi cho người đọc cảm nhận được thời tiết khắc nghiệt, nụ cười của người chiến sĩ đã
sưởi ấm không gian, thể hiện tình đồng chí, đồng đội gắn bó.
- Trong câu thơ của Phạm tiến duật: Tiếng cười được cất lên giữa nơi mưa bom, bão đạn khi cuộc kháng
chiến chống Mĩ vô cùng khó khăn gian khổ, vô cùng cam go khốc liệt. Tiếng cười “ha ha” là cười to,
cười sảng khoái, trẻ trung, lấy khó khăn vất vả để vui đùa => gợi tính cách trẻ trung, tinh nghịch, ngang
tàng của người lính lái xe Trường Sơn.
- Hai tiếng cười được bộc lộ trong hai hoàn cảnh khác nhau nhưng cùng góp phần làm nổi bật vẻ đẹp tâm
hồn của người lính Việt Nam. Đó là vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, của niềm tin vào sự thắng lợi cuối
cùng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Từ đó có thể cảm nhận phong cách thơ của từng nhà thơ: Chính Hữu: hình ảnh thơ chân thực, giản dị,
giàu sức biểu cảm; Phạm Tiến Duật: giọng thơ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.
Câu 5: Cảm nhận của em về hai câu thơ:
- Thương nhau tay nắm láy bàn tay
67
( Chính Hữu)
- Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
( Phạm Tiến Duật)

Gợi ý.
* Giống: Đều là cái nắm tay của người lính trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.
- Đều thể hiện tình yêu thương đồng đội.
- Đều tạo nên sức mạnh cho người lính.
* Khác:
+ tay nắm lấy bàn tay: sự cảm thông chia sẻ, là lời động viên âm thầm, là tình đồng chí đồng đội thiêng
liêng sưởi ấm, nâng đỡ những người lính vượt cùng vượt qua những gian lao thử thách của cuộc chiến.
(0,5đ)
+ bắt tay qua cửa kính vỡ rồi: là sự gặp gỡ, cái bắt tay thay lời chào hồ hởi, trong không khí khẩn trương
của chiến trường ác liệt, tiếp thêm cho nhau sức mạnh và những hứa hẹn lập công. Đó cũng là sự sôi nổi,
ngang tàng, tinh nghịch của những anh lính trẻ.
……………………………………………………………….
\
§oµn thuyÒn ®¸nh c¸
I. Nhà thơ Huy Cận.
- Huy Cận ( 1919 - 2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở Ân Phú - Vụ Quang - Hà Tĩnh.
- Là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới và là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ
ca hiện đại Việt Nam.
- Trước cách mạng: Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn man mác về một cái tôi nhỏ bé, cô đơn, lạc
lõng.
- Sau cách mạng, thơ Huy Cận dào dạt niềm vui, ấm áp tình đời, thể hiện niềm tin vào con người và
cuộc đời mới.
II. Bài thơ " Đoàn thuyền đánh cá".
1. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ được viết vào năm 1958, khi đất nước đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Không khí hào
hứng, phấn chấn, tin tưởng bao trùm trong đời sống xã hội và ở khắp nơi dấy lên phong trào phát
triển sản xuất xây dựng đất nước. Chuyến thâm nhập thực tế ở vùng mở Quảng Ninh vào nửa cuối
68
năm 1958 đã giúp nhà thơ Huy Cận thấy rõ và sống trong không khí lao động ấy của nhân dân ta, góp

phần quan trọng mở ra một chặng đường mới trong thơ Huy Cận.
- Bài thơ đánh dấu sự hồi sinh, sự xanh tươi trở lại của hồn thơ Huy Cận.
2. Thể loại: Thơm 7 chữ (Thất ngôn trường thiên.)
3. Đề tài: Con người lao động mới xã hội chủ nghĩa.
4. Nội dung: Bài thơ khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên tráng lệ và hình ảnh con người lao động mới.
Giữa thiên nhiên và con người có mối quan hệ hài hòa, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của
nhà thơ
5. Nghệ thuật:
- Bút pháp lãng mạn khoa trương với hình ảnh thơ đẹp, tráng lệ, kì vĩ. Sáng tạo hình ảnh thơ bằng
liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo.
- Giọng thơ hào hứng, phấn khởi, lạc quan, vui tươi.
- Sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ độc đáo.
- Kết cấu đầu cuối tương ứng.
6. Chủ đề: Bài thơ ca ngợi hình ảnh con người lao động mới. Đó là những con người cần cù say mê,
lao động miệt mài, cống hiến hết sức mình cho đất nước.
III. Đề Tập làm văn.
* Đề 1: Phân tích khổ thứ nhất của bài thơ. ( Bức tranh thiên nhiên và cảnh biển Hạ Long khi
hoàng hôn vừa buông xuống)
1. Mở bài: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác
- Khái quát NT + ND -> Giới thiệu đoạn trích: Bài thơ như một khúc ca ca ngợi cuộc sống
mới, con người mới. Khúc ca ấy vang lên rộn rã ngay từ những khổ thơ đầu: ( Chép lại khổ thơ)
2. Thân bài:
a. Khái quát: Đây là đoạn mở đầu bài thơ. Chỉ trong 4 câu thơ ngắn gọn mà bức trạm kì vĩ đã hiện ra.
Bức tranh không chỉ đẹp mà còn ấm áp tình người và nồng nàn hơi thở của c/s. Mở đầu bức tranh là
cảnh biển Hạ Long tráng lệ kì vĩ:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
-Bức tranh thiên nhiên Hạ Long được vẽ lên vào thời điểm chiều tà. Nhà thơ đã so sánh hình ảnh mặt
trời với " hòn lửa" khiến cho bức tranh vẽ vào thời điểm hoàng hôn nhưng không hề tối, ảm đạm mà
ngược lại còn mang màu sắc rực rỡ, tráng lệ và thật ấm áp. Mặt trời như khối lửa khổng lồ đang từ từ

lặn xuống biển sâu, đem hơi ấm và ánh sáng xuống lòng đại dương xanh thẳm khiến đại dương trở
nên rực rỡ và lung linh sắc màu. Nhà thơ không chỉ miêu tả cảnh mặt trời trên biển mà còn cả trong
lòng biển tạo nên bức tranh thiên nhiên tráng lệ, kì vĩ.
- Hai từ " xuống biển" đã góp phần nhân hóa mặt trời đồng thời diễn tả tư thế chủ động của vật thể vĩ đại
này. Dường như biển cả chính là ngôi nhà, là nơi nghỉ ngơi của mặt trời sau một ngày làm việc vất vả.
Khi mặt trời vừa khuất sau làn nước xanh thẳm cũng là lúc:
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Với nghệ thuật nhân hóa, Huy Cận đã gợi ra sự liên tưởng vũ trụ bao la như là ngôi nhà khổng lồ, trong
đó màn đêm là cánh cửa còn những đợt sóng lan dài chính là những chiếc then cài. và khi cửa đã đóng,
then đã cài là vũ trụ đã đi vào sự nghỉ ngơi. Qua biện pháp so sánh và nhân hoá đặc sắc. Huy Cận đã miêu
tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật đẹp, kỳ vĩ, tráng lệ
như thần thoại đồng thời gợi sự gần gũi như ngôi nhà thân quen. Lúc đó biển trở nên hiền hòa, gần gũi.
Phác hoạ được một bức tranh phong cảnh kì diệu như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim
nhậy cảm.
69
- Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng
thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi.
Câu hát căng buồm trong gió khơi.
-> Sự đối lập này làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả.
+ Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát.
+ Ba chữ "lại ra khơi" vang lên một cách hào hứng, phấn khởi. Nó như tiếng reo vui của người dân chài
được làm công việc mà họ yêu thích. Ra khơi khi hoàng hôn xuống không phải hành động diễn ra đầu
tiên mà nó được lặp đi lặp lại nhiều lần. Phó từ "lại" diễn tả sự lặp lại, tiếp diễn. Ra khơi vào thời điểm
này đã trở thành chu kì, nhịp điệu lao động của những ngư dân. Nó đã tạo ra sự đối lập giữa thiên nhiên
và con người. Thiên nhiên đã đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì người dân bắt đầu lao động. Ra khơi khi vũ
trụ đã yên tĩnh nhưng không khí của đoàn thuyền không hề tẻ nhạt mà vô cung rộn ràng, hào hứng, phấn
khởi.
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Câu thơ là một ẩn dụ đặc sắc, biến cái ảo thành cái thực. Câu hát tượng trưng cho khí thế phơi phới,

mạnh mẽ của đoàn thuyền và niềm vui, sức mạnh người lao động trên biển. Câu hát khỏe khoắn vang lên
hòa vào gió. Câu hát đã đánh thức cả không gian, khiến cho thiên nhiên đất trời cũng hòa cùng lời hát.
Cánh buồm căng tròn không phải vì no gió mà bởi vì câu hát. Câu hát như có sức mạnh cụ thể tác động
trực tiếp vào cánh buồm đẩy con thuyền đi nhanh hơn. Câu hát đã bộc lộ niềm tin, niềm lạc quan, yêu đời
của con người lần đầu tiên giã từ kiếp nô lệ, lầm than để trở thành những công dân của một nước độc lập,
tự do. Họ đã thực sự trở thàng những con người làm chủ cuộc sống, biển trời và công việc của mình.
* Đánh giá nâng cao
- Đoạn thơ để lại ấn tượng bởi hình ảnh mang tính chất kì vĩ, tráng lệ. Nó đã tạo nên vẻ đẹp rực rỡ của
biển Hạ Long khi màn đêm buông xuống. Bức tranh đẹp hơn bởi có sự xuất hiện của con người. Những
con người cần cù, chịu khó. Cảnh đẹp, người đẹp, không khí hào hứng, khẩn trương. Tất cả đã làm nên
chất thơ rộn ràng của “ Đoàn thuyền đánh cá”.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị của bài thơ và đoạn thơ. Nêu ấn tượng sâu sắc nhất của em.
………………………………………….
Đề bài 2 : Phân tích khổ 2 của bài thơ.( Hát ca ngợi sự giàu có của biển)
1. Mở bài
- Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác. Khái quát nội dung, nghệ thuật . Giới thiệu khổ thơ -> chép lại
khổ thơ đó.
2. Thân bài
a. Khái quát: Đây là khổ thơ thứ 2 của bài thơ. Bằng những hình ảnh đẹp, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh
người lao động giữa biển khơi. Họ ra biển mang theo câu hát. Câu hát theo họ cả quá trình lao động. Họ
hát để ca ngợi sự giàu có của biển cả, ca ngợi cuộc sống mới.
b. Phân tích
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đàn thoi
Câu thơ mang tính khái quát cao. Hai từ "cá bạc" vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang nghĩa tượng
trưng. Cá bạc là tên một loài cá có nhiều ở biển Đông. Từ "bạc" còn chỉ màu sắc trên vảy cá. Màu sáng
của vảy cá được phản chiếu qua ánh đèn, qua ánh trăng tạo nên một màu sáng lấp lánh như ánh bạc. Câu
thơ gợi lên sự liên tưởng tới sự giàu có, phong phú của biển Hạ Long. Có lẽ ý thơ đó được khơi nguồn từ
thành ngữ "Rừng vàng biển bạc". Thành ngữ đó đã diễn tả chính xác sự giàu có của biển HL. Đó là kho
tài nguyên vô tận với rất nhiều, rất nhiều loại cá. Chúng đã “dệt” nên màu trắng bạc từ lòng biển bao la

đến mặt biển xanh thẳm. Đó là kho của cải vô tận mà con người đang khám phá để làm giàu cho đất
nước.
70
Nếu như câu trên có mang tính khái quát cao thì câu thơ dưới miêu tả trực tiếp loài cá thu. Đó là
loài cá có nhiều và mang giá trụ kinh tế cao. Lời thơ gợi sự liên tưởng thú vị: những chú cá thu đang bơi
lội trông rất giống như những con thoi, cả đoàn cá thu là một đoàn thoi. Lời thơ giúp ta hình dung ra được
hình dáng thon dài, chắc khỏe của những con cá thu. Chúng đang chuyển động trong mọi tư thế và tạo
nên mọt thế giới lung linh, sống động
Đêm ngày dệt biển muôn luống sáng
Những chú cá thu ấy đang ra sức dệt lên tấm thảm khổng lồ. Đó là tấm thảm kì diệu với “muôn
luồng sáng”. Cả một không gian mênh mông bao la rộng lớn dù ngày hay đêm cũng đều sáng bừng lên
bởi sự chiếu sáng của tấm thảm kì diệu đó. Nhưng tấm thảm đó không ở trạng thái tĩnh mà chúng luôn
luôn chuyển động. Vì vậy, trong mỗi khoảnh khắc nó lại biến đổi và mang vẻ đẹp kì lạ riêng. Đó không
phải là tấm thảm bình thường mà là tấm thảm được dệt lên từ sự sống của biển cả. Phải thật tinh tế và yêu
biển vô cùng nhà thơ mới có sự cảm nhận đó. Từ việc cảm nhận vẻ đẹp và giàu có của biển, người dân
chào cất lên tiếng gọi tha thiết, trìu mến.
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi
Câu thơ gợi hình ảnh liên tưởng thú vị. Thực chất công việc của người đánh cá rất vất vả, khó
nhọc. Người ngư dân phải sử dụng đến trang thiết bị hiện đại. Nhưng trong bài thơ này không phải những
ngư dân đang đánh bắt cá mà họ đang hát để gọi cá vào lưới. Tiếng hát của họ chính là động lực kì diệu
khiến cho công việc đánh bắt cá trở nên nhẹ nhàng và thi vị vô cùng.
Có thể thấy hình ảnh trong thơ Huy Cận độc đáo, sáng tạo đến bất ngờ. Cá đi trên biển là "dệt
biển". Cá vào lưới là "dệt lưới". Những tấm lưới được dệt lên bởi những chú cá là thành quả vô cùng to
lớn mà người ngư dân gặt hái được sau một đêm lao động vất vả. Vất vả là vậy nhưng họ vẫn hào hứng,
phấn khởi, vẫn lạc quan, yêu đời. Câu hát của họ vẫn vang lên ca ngợi vẻ đẹp và sự giàu có của biển khơi.
Biển khơi đã gắn liền với cuộc đời của họ. Họ đã thực sự trở thành người làm chủ để khám phá kho tài
nguyên vô tận làm giàu cho đất nước.
c. Đánh giá nâng cao: Đoạn thơ với những hình ảnh chân thưc, kết hợp với các hình ảnh khoa trương đã
giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp giàu có của biển HL, cảm nhận được vẻ đẹp của những ngư dân
trên biển. Đoạn thơ giúp ta thêm tin, thêm yêu vào con người, cuộc đời và cuộc sống hôm nay.

3. Kết bài : Khẳng định giá trị của bài thơ, đoạn thơ. Liên hệ bản thân

Đề 3: Phân tích khổ 3 của bài thơ ( Bút pháp lãng mạn khoa trương-> H/a con người lớ lao kì vĩ, chủ
động – cảnh đánh bắt cá trên biển)
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lướt vây giăng
1. Mở bài: Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác. Giới thiệu, khái quát giá trị của đoạn thơ ( viết lại đoạn
thơ)
2. Thân bài
a. Khái quát: Đây là khổ thơ thứ 3 của bài thơ. Sau khi giới thiệu đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong
khung cảnh tráng lệ, kì vĩ, nhà thơ đã đặc tả cảnh đánh cá người khơi. Khổ thơ là một nét vẽ tài hoa về
biển trời, sông nước, một khung cảnh biển đêm đẹp sống động, khoáng đạt, rực rỡ sắc màu. Trong đó, con
người hiện lên trong tư thế chủ động dạt dào niềm tin, niềm lạc quan yêu đời. Đến khổ thơ này, bút pháp
lãng mạn của Huy Cận đã phát huy hết sinh lực để vẽ lên một khung cảnh kì vĩ, phóng khoáng mà con
người là tâm điểm của bức tranh ấy.
b. Phân tích
- Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp.
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
71
Hai tiếng “thuyền ta" vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Xa rồi những ngày áp bức, bóc lột
làm thân nô lệ, làm kiếp ngựa trâu, bị coi như thứ tài sản, bị bóc lột đến kiệt quệ sức lao động. Ta có làm
mà không được hưởng. Còn giờ đây, ta thực sự trở thành một công dân của đất nước. Ta được làm chủ
đất nước, biển trời và làm chủ công việc của mình. Âm hưởng của câu thơ giống với âm hưởng trong thơ
của Nguyễn Đình Thi:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rằng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ lặng phù sa.
Trong không không khí hào hứng phân khởi, say mê người ngư dân đưa con thuyền vào cuộc
chinh phục mới. Bút pháp lãng mạn khoa trương đã biến con thuyền không phải chạy bằng động cơ máy
móc mà bằng sức mạnh của tự nhiên. Con thuyền ấy có gió làm bánh lái, trăng làm buồm. Trong phút
chốc, tầm vóc con thuyền trở lên lớn lao, kì vĩ sánh ngang cùng thiên nhiên vũ trụ. Hình ảnh con thuyền
hay chính là con người lao động với tầm vóc cũng rất lớn lao. Con thuyền ấy không phải đi trên mặt biển
mà như "lướt" giữa không gian rộng với trời xanh bát ngát. Động từ "lướt" diễn tả đoàn thuyền không chỉ
chạy nhanh mà còn rất nhẹ nhàng. Vẻ đẹp của con thuyền chính là vẻ đẹp của người lao động. Đoàn
thuyền chạy nhanh diễn tả khí thế phơi phới của những con người lần đầu tiên làm chủ cuộc đời. Họ
không chỉ có sức mạnh mà tâm hồn họ còn vô cùng vui tươi phấn khởi. Hình ảnh con thuyền mang kích
thước khổng lồ đang hòa nhập với thiên nhiên tạo nên một cảnh tượng kì vĩ. Dường như đây không phải
là đoàn thuyền trong cuộc đánh bắt cá mà đang trong cuộc du ngoại giữa chốn bồng lai tiên cảnh.
Nếu hai câu thơ trên miêu tả bằng bút pháp tả thực thì hai câu dưới miêu tả bằng bút pháp hiện
thực. Cảnh lao động trở về t/c quyết liệt của nó:
Ra đầu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Những người ngư dân với tâm hồn phơi phới đang làm chủ phương tiện của mình. Họ lái những
con thuyền ra khơi đâu còn quẩn quanh đánh bắt ven bờ. Đâu còn những ngày chỉ có những trang thiết bị
thô sơ thiếu thốn.Giờ đây họ đã có trong tay những tranh thiết bị hiện đại để đánh bắt xa bờ.Với những
phương tiện ấy,họ tự tin tìm đến những nơi xa để "dò bụng biển". Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ đã biến
lòng biển bao la trở thành "bụng biển". Nơi ấy chất chứa bao điều kì lạ, bí hiểm đòi hỏi sự khám phá của
con người. Nơi ấy cũng chứa đựng tài nguyên khoáng sản để phục vụ cho công việc làm giàu đất nước.
Bằng một động từ mạnh được sử dụng liên tiếp nhà thơ đã giúp người đọc hình dung cảnh đánh bắt cá.
Những ngư dân giờ bước vào cuộc chiến mới. Ở đó, ngư trường là chiến trường, ngư cụ là vũ khí, ngư
dân là chiến sĩ. Tất cả trong tư thế hoàn toàn chủ động để dàn đan thế trận tấn công vào cuộc chinh phục
thiên nhiên. Và kết quả cuối cùng là:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi
*Đánh giá nâng cao: Khổ thơ ngắn gọn nhưng đã vẽ lên bức tranh khoáng đạt, rực rỡ sắc màu của
biển Hạ Long. Hình ảnh thơ thật lãng mạn, bay bổng và con người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi

phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng
thiên nhiên.
3.Kết bài :
……………………………………………….
Đề bài 4: : Phân tích khổ 4 bài thơ
I.Mở bài
II.Thân bài
72
1. Khái quát : Đoạn thơ là một khúc hát hào hứng, phấn khởi, say mê của người dân lao động. Họ hát để
ca ngợi biển cả, ca ngợi cuộc sống mới.
2. Phân tích
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Chỉ trong một câu thơ, Huy Cận đã liệt kê tên của ba loài cá. Thành ngữ dân gian thường có câu
"Chim, thu, nhụ, đé" .Với thành ngữ đó, cha ông muốn nói đến sự giàu có của biển Hạ Long. Huy Cận đã
vận dụng sáng tạo thành ngữ dân gian để biến thành câu thơ mềm mại và uyển chuyển. Với lời thơ này,
nhà thơ muốn khẳng định sự giàu có của biển Hạ Long. Đó là một vùng biển phong phú với muôn loại cá.
Nếu câu thơ trên Huy Cận liệt kê tên của nhiều loài cá thì câu thơ dưới tác giả miêu tả cụ thê loài cá
song. Nghệ thuật miêu tả kết hợp với thủ pháp so sánh giúp người đọc hình dung hình ảnh những chú cá
song với màu sắc rực rỡ. Trên mình cá có màu hồng điểm xuyết màu đen. Màu hồng ấy khiến cho những
chú cá như ngọn đuốc. Từ những chấm màu đen, màu hồng trên thân cá, nhà thơ đã tạo nên một hình ảnh
tuyệt đẹp.Hình ảnh ấy vừa mang nghĩa tả thực, vừa giàu sắc thái biểu cảm. Trong phút chốc, những chú
cá song đã biến thành những ngọn đuốc sống luôn luôn di chuyển càng làm cho biển lung linh huyền ảo.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
Hình ảnh trong thơ Huy Cận thường độc đáo, sáng tạo đến bất ngờ. Câu thơ này cũng là một minh
chứng cho điều đó. Huy Cận đã gọi những chú cá ấy là em - tiếng gọi vô cùng thân thương trìu mến khiến
cho cả đàn cá trở nên gần gũi với con người hơn. Dường như Huy Cận không phải đang ở trên đất liền mà
ông đang ở giữa mặt biển bao la. Chỉ có như vậy mới có sự cảm nhận tinh tế đến từng sự chuyển động
của loài cá. Nhà thơ đã có cách miêu tả chuyển động của loài cá vừa sinh động vừa thú vị. Đuôi cá quẫy

trong nước biển khiến ánh trăng tan ra nên ta có cảm giác đuôi cá quẫy trong ánh trăng. Khung cảnh trở
nên vô cùng lung linh, huyền ảo.Ánh trăng dát vàng trên mặt biển bao la. Mặt biển luôn sao động đối với
đuôi cá quẫy.Biết như vậy nhà thơ vừa miêu tả được vẻ đẹp giàu có của biển khơi, vừa diễn tả được sức
sống dồi dào, âm thầm điềm tàng trong lòng biển. Nếu như khi hoàng hôn biển rực rỡ tráng lệ thì giờ đây
biển trở nên huyền ảo lung linh. Người đọc có cảm giác buâng khuâng khi đọc tiếp những lời thơ của ông.
Câu thơ cuối tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để diễn tả thành công nhịp sống của thiên nhiên vũ trụ.
Khi vũ trụ đi vào sự nghỉ ngơi thì những ngọn gió, những ngọn sóng trở thành nhịp thở của đêm. Giờ đây
vũ trụ đang sống với nhịp thở êm đềm. Lời thơ còn gợi sự liên tưởng thú vụ: Muôn ngàn vì sao lung linh
trên trời cao phản chiếu xuống mặt biển nhưng mặt biển không tĩnh mà luôn luôn chuyển động. Qua dòng
chảy của biển, ta thấy như sao đang lùa nước. Lời thơ còn gợi ra một cách kiểu khác. Trên dòng chảy ấy
có một thế giới sống động. Nhịp sống ở đó đang tiếp diễn, đang sinh sôi. Trong nhịp thở êm đềm của biển
đêm, con người đang hăng say làm việc. Chứng kiến cảnh lao động ấy nên trăng và sao ở trên trời cao
cách mặt biển hàng nghìn dặm cũng sà xuống giúp người dân lùa cá vào lưới. Thiên nhiên cũng như hòa
nhập cùng với nhịp điệu lao động của con người, nâng đỡ con người, giúp người lao động lùa cá vaofd
lưới.
* Đánh giá nâng cao: - Vẻ đẹp của biển đêm
- Con người lao động. Bức tranh có sự hoà nhịp kỳ diệu giữa thiên nhiên và
con người lao động.
Đề bài 5: Phân tích khổ 5 của bài thơ.
I. Mở bài
II. Thân bài
1. Khái quát: Khổ thơ là một khúc hát ca ngợi công việc lao động nhẹ nhàng, thú vị. Ca ngợi biển nhân
hậu, ân tình.
2. Phân tích
Ta hát bài ca gọi cá vào
73

×