Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

báo cáo tốt nghiệp thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của việt nam từ năm 2001 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.26 KB, 50 trang )

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ
NĂM 2001 ĐẾN NAY
MỤC LỤC
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM
2001 ĐẾN NAY.
MỞ ĐẦU.
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Là một nước với 67% lực lượng lao động làm nông nghiệp, trong những năm
qua, nông nghiệp nước ta đã đóng góp rất lớn cho nền kinh tế. Với khoảng ¼ GDP
và 1/3 tổng kim nghạch xuất khẩu.
Trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới, hoạt động kinh doanh quốc tế đã
trở nên phổ biến và góp phần không nhỏ trong việc phát huy lợi thế so sánh của
mỗi quốc gia.
Hoạt động kinh doanh quốc tế thường được thực hiện bằng nhiều hình thức
trong đó có hình thức xuất khẩu.
Trong cơ cấu hàng xuất khẩu hiện nay, gạo là một trong những mặt hàng có thế
mạnh của Việt Nam. Chiếm tỷ trọng lớn trong mặt hàng xuất khẩu và đưa Việt
Nam vươn lên vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo.
Song song với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào tổ chức thương
mại WTO, ngành lúa gạo Việt Nam đang đứng trước những khó khăn và thách thức
lớn về chất lượng gạo và ổn định thị trường tiêu thụ. Điều kiện mới đặt ra những
yêu cầu tất yếu mà mọi khâu: “ sản xuất - chế biến – tiêu thụ” lúa gạo của nước ta
phải tiến hành quy trình liên kết đồng bộ. Trong đó tìm kiếm và mở rộng thị trường
tiêu thụ gạo xuất khẩu ra thị trường thế giới là vấn đề then chốt.
Để góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu gạo và nâng cao lợi thế cạnh tranh
của mặt hàng gạo trên thị trường thế giới, chúng ta phải có một cái nhìn toàn diện
về thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của VN trên thị trường thế giới.
Xuất phát từ thực tế và nhận định trên, em đã chọn đề tài” thực trạng thị
trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001đến nay.” Đây là giai đoạn
Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói


chung, hội nhập thương mại nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu.
Tầm quan trọng của đề tài có thể thấy rõ trong thời gian qua đã có nhiều
công trình nghiên cứu về đề tài này. Trong đó có các công trình đáng chú ý là
- Nguyễn Ngọc Bích: ”thị trường xuất khẩu gạo - những bất ngờ và thú
vị”.
- Lê Mai:” mở rộng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam”.
- Công Trí: “nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị
trường thế giới”.
- Nguyễn Mạnh Tùng:“mở cửa thị trường xuất khẩu gạo, song hành cơ hội
và thách thức”.
- IFPRI(1996):”giám sát thị trường gạo và nghiên cứu các lựa chọn chính
sách”
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu mới đề cập đến những thành
tựu và hạn chế của thị trường xuất khẩu gạo và những giải pháp nhằm mở rộng thị
trường xuất khẩu gạo trong khuôn khổ một bài báo nên chưa đi sâu vào phân tích,
đánh giá thực trạng thị trường xuất khẩu gạo một cách toàn diện về lý luận và thực
tiễn, mặt khác thị trường gạo thế giới đang biến động không ngừng vì vậy việc
nghiên cứu thực trạng thị trường xuất khẩu gạo là điều cần thiết.
1.Mục đích nghiên cứu.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam từ năm
2001 đến nay.
2.Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: một số quốc gia mà gạo xuất khẩu của Việt Nam hướng tới và
một số nước là đối thủ cạnh tranh của gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Về thời gian: từ năm 2001 đến nay.Đây là giai đoạn Việt Nam có nhiều chuyển
biến mạnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập thương
mại nói riêng.

5. Phương pháp nghiên cứu.
-Phương pháp tổng hợp để đưa ra những lý luận khái quát về thị trường xuất
khẩu gạo.
- Phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh, tổng hợp các số liệu thống kê và
tài liệu để làm sáng tỏ thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm
2001 đến nay.
6. Đóng góp của đề tài.
-Phân tích đánh giá một cách toàn diện thực trạng thị trường xuất khẩu gạo
của Việt Nam từ năm 2001 đến nay.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: Xuất khẩu gạo Việt Nam – cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001 đến
nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thị trường xuất khẩu gạo của Việt
Nam.
CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu gạo ở Việt Nam
1.1 Khái niệm về xuất khẩu gạo.
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho một quốc
gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán . Tiền tệ ở đây có thể
dùng là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất
lâu và ngày càng phát triển . Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực , mọi
điều kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng cho đến hàng hóa tư liệu sản
xuất , từ máy móc thiết bị cho đến công nghệ kĩ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó
đều nhằm mục tiêu là đem lại ngoại tệ cho các quốc gia .
1.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế
- Xuất khẩu gạo mang lại ngoại tệ cho quốc gia, góp phần nhập khẩu nhằm phục
vụ cho công cuộc công nghiệp hóa đất nưóc

Hiện nay gạo chiếm giá trị kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của đất nước. Trong khi đó cán cân thanh toán ngoại tệ của Việt Nam luôn bị thâm
hụt, do đó cần một khoản ngoại tệ bổ sung thâm hụt đó.
Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu
khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp
hóa đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy
móc thiết bị kĩ thuật công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu hình thành từ nhiều nguồn: đầu tư nước ngoài, đi
vay, viện trợ và xuất khẩu. Các nguồn đầu tư nước ngoài, đi vay, viện trợ tuy quan
trọng nhưng cũng phải trả dù cách này hay cách khác. Nguồn quan trọng nhất chỉ
có thể trông chờ vào xuất khẩu mà trong đó xuất khẩu gạo chiếm vị trí quan trọng.
- Xuất khẩu gạo đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần thúc
đẩy sản xuất phát triển
Quan điểm coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất và
xuất khẩu đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển
+ Xuất khẩu gạo tạo điều kiện cho các ngành khác cùng cơ hội phát triển. Điều này
có thể thông qua ví dụ khi phát triển ngành lúa gạo xuất khẩu thì các ngành như
sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu… cũng có điều kiện phát triển.
+ Xuất khẩu gạo tạo điều kiện, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần ổn
định sản xuất
+ Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất gạo, mở rộng
khả năng tiêu dùng của một quốc gia.
Vì xuất khẩu tạo ra nguồn vốn không nhỏ cho mỗi quốc gia. Đây là điều kiện
cho mỗi quốc gia đang phát triển như Việt Nam có thể đưa kỹ thuật công nghệ hiện
đại vào sản xuất lúa gạo. Bên cạnh đó xuất khẩu còn cho phép một quốc gia có thể
tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần giới hạn khả năng sản
xuất của quốc gia đó thậm chí cả những mặt hàng mà họ không có khả năng sản
xuất được. Theo như quan điểm lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người Anh
David Ricardo ông cho rằng khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu một quốc gia sẽ

tham gia vào việc sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra
chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu
những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng có những bất lợi hơn (đó là những hàng
hoá không có lợi thế tương đối). Vì vậy xuất khẩu còn tạo điều kiện mở rộng khả
năng tiêu dùng của một quốc gia.
Thông qua xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này có tác
dụng ngược trở lại buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tổ chức, xem xét lại khâu
sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, các doanh nghiệp cũng cần
phải nhìn lại chất lượng sản phẩm của mình để thích nghi với những biến động của
thị trường thế giới.
- Xuất khẩu gạo có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân
+ Tác động của xuất khẩu gạo đến đời sống nông dân được thể hiện trên nhiều
phương diện. Một mặt sản xuất gạo là nơi thu hút nhiều lao động và việc làm có
thu nhập khá ổn định. Mặt khác xuất khẩu gạo tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu sản
phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng phong phú của nhân dân.
+ Khi thực hiện xuất khẩu một lượng mặt hàng gạo dư thừa trong thị trường nội địa
sẽ giải quyết lập lại cung cầu ở giá cao hơn. Nông dân không những bán được hàng
mà còn được giá. Từ những điều này mang lại cho nông dân thu nhập cao hơn và
đây chính là động lực thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
+ Ngoài ra thông qua xuât khẩu gạo chúng ta phần nào hiểu rõ hơn về yêu cầu của
thị trường quốc tế đối với mặt hàng gạo. Mối quan hệ giữa thị trường nước ngoài
và sản xuất trong nước được thực hiện qua xuất khẩu là cách tốt nhất để nâng cao
trình độ và hiệu quả của nền công nghiệp.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo
Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế, mọi quốc gia đều mở rộng
các mối quan hệ buôn bán với nhau để phát huy lợi thế so sánh của mình trong việc
sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hóa nhằm thu lợi ích cao nhất để phát triển đất
nước. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển trong việc tạo

ra nguồn thu từ việc xuất khẩu một hoặc một số mặt hàng được hình thành trên cơ
sở khai thác các nguồn lực sẵn có của nước đó. Việc xuất khẩu gạo của Việt Nam
cũng như tất cả các nước xuất khẩu gạo khác trên thế giới đều bị chi phối bởi 3
nhân tố chính: nhân tố thị trường, nhân tố về cơ sở vật chất – kỹ thuật và công
nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nhân tố về chính sách kinh tế vĩ mô.
- Nhân tố thị trường
Nhân tố thị trường ảnh hưởng rất lớn chi phối hoạt động xuất khẩu gạo của
mỗi quốc gia tham gia xuất khẩu. Trong đó có thể xét trên các yếu tố cơ bản sau
+ Nhu cầu của thị trường về sản phẩm gạo: gạo là hàng thiết yếu, cũng giống như
các loại hàng hóa khác cầu về gạo phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư, thị hiếu
…khi thu nhập cao thì cầu về số lượng gạo giảm nhưng trong đó cầu về gạo chất
lượng cao có xu hướng tăng lên (ở các nước phát triển: Nhật Bản, Châu Âu…)
ngược lại cầu đối với gạo chất lượng thấp giảm đi chính vì thế tỷ trọng tiêu dùng
cho gạo trong tổng thu nhập vẫn tăng.
+ Cung trên thị trường là nhân tố quan trọng trong xuất khẩu. Các doanh nghiệp
tham gia xuất khẩu cần phải tìm hiểu kĩ về khả năng xuất khẩu từng loại gạo của
mình cũng như khả năng của các đối thủ cạnh tranh. Trên thị trường thế giới sản
phẩm gạo rất đa dạng, phong phú, cầu về gạo co giãn ít so với mức giá do đó nếu
lượng cung tăng quá nhiều có thể dẫn tới dư cung điều đó bất lợi cho các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu.
+ Giá cả là một yếu tố quan trọng là thước đo sự cân bằng cung cầu trong nền kinh
tế thị trường. Trên thị trường gạo thế giới có nhiều nước xuất khẩu, nhiều nước
nhập khẩu, giá cả thị trường thế giới sẽ có xu hướng hội tụ về mức giá cân bằng –
mức giá mà tại đó lượng cung và lượng cầu bằng nhau. Ở mức giá cao hơn mức giá
cân bằng, lượng cung về gạo sẽ vượt quá lượng cầu về gạo. Trong trường hợp này,
một số lượng gạo mà nhà xuất khẩu muốn bán lại không tìm được người mua. Sự ế
thừa kiểu này gọi là sự dư cung. Sự dư cung này làm cho hay tạo ra sức ép khiến
những nhà xuất khẩu phải hạ giá gạo. Quá trình hạ giá này sẽ dần dần làm giảm
mức dư cung và chỉ dừng lại khi mức giá trên thị trường đã hạ xuống đến mức cân
bằng. Ngược lại ở mức giá thấp hơn mức giá cân bằng những nhà nhập khẩu sẽ

mua nhiều hơn khiến cho lượng cung không đáp ứng kịp thời và dẫn đến tình trạng
dư cầu. Sự dư cầu này tạo cơ hội cho nhà xuất khẩu nâng giá lên. Quá trình tăng
giá này sẽ dần dần làm giảm mức dư cầu và chỉ dừng lại khi mức giá đã tăng lên
đúng bằng mức giá cân bằng.
- Nhân tố về cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm
Các nhân tố về cơ sở vật chất – kĩ thuật là do hệ thống vận chuyển, kho tàng,
bến bãi, hệ thống thông tin liên lạc…Hệ thống này bảo đảm việc lưu thông nhanh
chóng kịp thời, đảm bảo cung cấp nguồn hàng một cách nhanh nhất, tiết kiệm thời
gian và chi phí lưu thông.
Các nhân tố về kĩ thuật, công nghệ sản xuất và tiêu thụ đặc biệt quan trọng
trong việc tăng khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường tiêu thụ gạo. Hệ thống chế
biến với công nghệ dây chuyền hiện đại sẽ góp phần tăng chất lượng và giá trị gạo.
- Chính sách kinh tế vĩ mô
• Chính sách áp thuế xuất khẩu gạo
Chính sách áp thuế xuất khẩu gạo là một biện pháp nhằm điều tiết sự chênh
lệch giữa giá xuất khẩu với giá thị trường trong nước nhằm bình ổn giá gạo nội địa
đồng thời đây còn là một công cụ tăng thu, góp phần làm giảm thâm hụt ngân sách.
Tuy nhiên việc áp thuế xuất khẩu gạo có thể sẽ không khuyến khích các doanh
nghiệp sản xuất và xuất khẩu các loại gạo cao cấp có giá trị đồng thời ảnh hưởng
tới lượng gạo xuất khẩu. Chính bởi vậy nên các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn khi
quyết định kí kết những hợp đồng cung cấp gạo cao cấp với mức giá cao vì lợi
nhuận thu về sau khi trừ thuế cũng không đáng kể, thậm chí còn phải chịu lỗ do
các nguyên liệu, chi phí đầu vào của sản xuất lúa gạo tăng cao. Không những thế
mức thuế lũy tiến theo giá xuất khẩu càng làm cho mức chịu thuế cao lên cùng với
những lô gạo xuất khẩu có chất lượng tốt, giá thành cao. Như vậy, chính sách thuế
đã làm cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo bỏ lỡ cơ hội xâm nhập vào những thị
trường khó tính giá trị gia tăng cao, mất khách hàng, mất đi những dấu ấn thương
hiệu đang giai đoạn hình thành. Bên cạnh đó, chính các doanh nghiệp cũng ép giá
thu mua lúa gạo từ nông dân để tránh phải nộp thuế cao hơn, điều này gây ảnh

hưởng tới thu nhập của người nông dân từ đó có thể gây ra xáo trộn trong sản xuất
lúa gạo.
• Về hạn ngạch
Chính sách hạn ngạch được sử dụng căn cứ vào lượng gạo xuất khẩu hàng
năm và tình hình sản xuất hiện tại, căn cứ vào hạn ngạch nhà nước quyết định số
lượng xuất khẩu nếu gạo trong nước dư thừa nhiều thì tùy theo tình hình chính phủ
sẽ tiếp tục cấp chỉ tiêu xuất khẩu. Việc sử dụng hạn ngạch linh hoạt căn cứ vào tình
hình sản xuất trong nước, tiêu dùng nội địa và dự trữ quốc gia để phát huy tác
dụng.
Việc áp dụng hạn ngạch có thể là công cụ hợp lý nhưng trong một chừng mực
nào đó lại cản trở việc phát triển sản xuất lúa gạo xuất khẩu, ảnh hưởng đến mức
giá của gạo xuất khẩu.
Trong bối cảnh khủng hoảng lương thực thế giới và ở trong nước, thiên tai đe
dọa đến an ninh lương thực quốc gia đã làm giá lúa gạo cao, cũng gây áp lực lên
lạm phát. Đó cũng là lý do chính phủ đã thắt chặt việc xuất khẩu gạo thông qua hạn
ngạch. Tuy nhiên hạn ngạch trong một chừng mực nào đó lại cản trở việc phát triển
sản xuất lúa gạo xuất khẩu, ảnh hưởng đến mức giá thực tế của gạo xuất khẩu. Có
thể thấy một số tác động tiêu cực của hạn ngạch lên hoạt động xuất khẩu gạo như:
Thứ nhất, hạn ngạch làm cách ly nền kinh tế trong nước và các biến đổi của
thương mại quốc tế bằng cách giảm sự truyền tin về giá cả quốc tế và giá cả trong
nước, đưa đến một hình thức giá cả ổn định cho người nông dân nhưng đem lại thu
nhập cho người nông dân dưới mức mà sản xuất có thể, làm giảm hiệu quả xuất
khẩu gạo.
Thứ hai, trong khi lương thực trong nước dư thừa nhiều nhưng hạn ngạch
chưa đề ra, chưa kịp bổ sung hay chưa cấp chỉ tiêu cho các đầu mối. Điều này dẫn
đến lỡ mất cơ hội xuất khẩu thu lợi nhuận cao khi giá gạo thế giới đang tăng cao và
biến động rất nhanh.
• Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Chính sách thu hút FDI vào sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ hướng tập trung đầu
tư cho các chương trình trọng điểm như phát triển công nghệ sinh học để tạo ra các

giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường; áp dụng
công nghệ sinh học chế biến, bảo quản sau thu hoạch, nâng cao giá trị, an toàn vệ
sinh thực phẩm của sản phẩm… đẩy mạnh xuất khẩu tới các thị trường cao cấp và
tiềm năng. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần phát triển sản xuất
lúa gạo trên quy mô lớn, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các
công nghệ mới, công nghệ cao, để từ đó nâng cấp khả năng cạnh tranh của xuất
khẩu gạo khi tham gia hội nhập.
Với các dự án của các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn đầu tư sẽ góp phần
cải thiện công nghệ, kĩ thuật nông nghiệp nông thôn thông qua chuyển giao công
nghệ, khai thác thế mạnh của vùng, phát triển được các giống lúa đặc sản, vừa
nâng cao được giá trị của hạt gạo, lại tăng thêm giá trị xuất khẩu.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VN TỪ
NĂM 2001 ĐẾN NAY.
2.1. Tình hình xuất khẩu gạo của VN từ năm 2001 đến nay.
2.1.1.Về sản lượng, kim ngạch gạo xuất khẩu.
Công tác xuất khẩu gạo trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tích
đáng khích lệ. Qui mô xuất khẩu gạo ngày càng mở rộng với khối lượng và kim
ngạch tăng với tốc độ khá cao. Xét về cơ cấu ngành hàng xuất khẩu từ năm 2001
đến nay, bên cạnh một số sản phẩm nông sản mang tính truyền thống như lạc nhân,
hạt tiêu, cà phê, đỗ tương, gạo đã trở thành một mặt hàng nông sản mang về cho
đất nước một nguồn ngoại tệ xuất khẩu rất lớn. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng và
kim ngạch xuất khẩu gạo không ngừng tăng lên.
Năm 2001 là năm đánh dấu nhiều bước khởi sắc cho Việt Nam xuất khẩu gạo
ra thị trường thế giới.Với sản lượng gạo xuất khẩu đạt 3,6 triệu tấn trị giá trên 6oo
triệu đô la. Đây là một thành công vì đã hoàn thành được nhiệm vụ cơ bản do
chính phủ đề ra, tiêu thụ hết thóc hàng hóa, chặn đà giảm sút của giá thóc gạo
trong nước.
Từ năm 2003 đến năm 2005, sản lượng lúa gạo xuất khẩu tiếp tục tăng. Tính
đến năm 2005, tổng sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt 50,12 triệu tấn, thu
về 11,51 tỷ USD, bình quân mỗi năm tăng 13,55% về sản lượng và 14,55% về kim

ngạch.trong đó, các năm có tốc độ tăng cao về sản lượng là năm 2003 vowis20,6%,
năm 2005 với 27,78%.
Năm 2006, hoạt động xuất khẩu gạo cua Việt Nam có dấu hiệu chựng lại. Tính
cả năm 2006, sản lượng gạo xuất khẩu đạt 4,8 triệu tấn với kim ngạch là 1,3 tỷ đô
la, giảm 7,48%vế sản lượng và 7,08% về kim ngạch so với năm 2005.
Năm 2007,
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, lượng gạo cả nước xuất khẩu đã
đạt mức 4,5 triệu tấn với kim ngạch trị giá 1,5 tỷ USD. Năm 2008 xuất khẩu gạo
đạt 4,7 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,9 tỷ USD (tính ra, giá bán bình quân 617,02
USD/tấn).
Năm 2009, thị trường hàng hoá thế giới chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế nghiêm trọng, trong đó có lúa gạo. Dưới sự điều hành
xuất khẩu linh hoạt của Chính phủ, năm 2009 cả nước đã xuất khẩu được 6,052
triệu tấn gạo, kim ngạch xuất khẩu gần 2,7 tỉ USD, đây là năm có số lượng xuất
khẩu nhiều nhất từ khi gia nhập WTO. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,463 tỉ USD (giá
FOB); về số lượng tăng 29,35% so năm 2008. Đặc biệt, tỷ lệ gạo cao cấp xuất khẩu
đã đạt 50% (những năm trước chỉ khoảng 34%). Mặc dù năm 2009 xuất khẩu
nhiều hơn năm 2008 đến 1,352 triệu tấn gạo, nhưng kim ngạch xuất khẩu giảm
200.000 USD, giá bán giảm 183,69 USD/tấn. [9]
Năm 2010, xuất khẩu gạo được đánh giá là đạt kỷ lục cả về khối lượng và giá
trị. Lượng gạo xuất khẩu cả năm 2010 ước đạt 6,88 triệu tấn, kim ngạch là 3,23 tỷ
USD, so với năm 2009 tăng 15,4% về lượng và tăng tới 21,2% về giá trị. [25]
Hình 2.1. Sản lượng và kim ngạch gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn
2007-2010
Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam, 2010
Từ hình 2.1 cho thấy, từ khi gia nhập WTO, xuất khẩu gạo của nước ta có xu
hướng tăng, tăng trung bình 16% về lượng và 29% về giá trị. Mặc dù kim ngạch
xuất khẩu gạo giai đoạn này có những biến động không lớn nhưng giá trị xuất khẩu
tăng. Sự gia tăng về mặt giá trị xuất khẩu xuất phát chủ yếu từ việc giá gạo trên thị
trường thế giới tăng cao. Năm 2008, do nhu cầu tích trữ gạo trên thế giới tăng

mạnh cùng với lệnh tạm ngưng xuất khẩu gạo của một số nước đã đẩy giá gạo lên
mức kỉ lục. Do đó, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 tăng không nhiều
nhưng kim ngạch xuất khẩu lại có bước nhảy vọt. Bên cạnh đó, thì do chất lượng
gạo xuất khẩu của Việt Nam đang dần được cải thiện vì thế giá gạo xuất khẩu cũng
từng bước tăng.
Theo thống kê của VFA, tính đến hết tháng 1/2011, lượng gạo các doanh nghiệp
Việt Nam đã ký hợp đồng xuất khẩu là hơn 1,5 triệu tấn, tăng 15,7% so với cùng
kỳ năm 2010. Số lượng hợp đồng đăng ký trong tháng 1 ở mức cao, chủ yếu là 2
hợp đồng tập trung với Malaysia và Indonesia, chiếm trên 300.000 tấn.
Xuất khẩu gạo tháng 1 của cả nước đạt trên 485.000 tấn, cao hơn dự kiến 350.000-
400.000 tấn. Đây là tháng đầu năm có số lượng giao hàng cao nhất từ trước đến
nay. Về trị giá cũng đạt ở mức cao do giá xuất khẩu bình quân tăng nhiều.
Trong tháng 2/2011, lượng gạo xuất khẩu cũng tăng do nguồn cung dồi dào vì các
tỉnh ĐBSCL đã bắt đầu thu hoạch lúa đông xuân sớm. VFA dự kiến xuất khẩu gạo
quý I sẽ đạt 1,6 triệu tấn; quý II có thể xuất 2,24 triệu tấn.
2.1.2. Về chất lượng gạo xuất khẩu
Chất lượng gạo trên thị trường thế giới được phân thành 5 loại dựa trên 9 tiêu
chí: tỷ lệ tấm, kích thước hạt, màu gạo, độ ẩm, mức độ đánh bóng, tỷ lệ amilaza, tỷ
lệ protein, nhiệt hóa, mùi thơm. Theo tiêu chí này, chất lượng gạo Việt Nam thuộc
loại thấp nhất so với thế giới. Dường như Việt Nam chỉ đạt được tiêu chuẩn thứ
nhất còn các tiêu chuẩn khác thì không mấy ai quan tâm.
Chất lượng gạo liên quan đến hàng loạt các yếu tố từ khâu sản xuất như đất
đai, nước tưới tiêu, phân bón, giống lúa, đến khâu bảo quản, vận chuyển và chế
biến nhưng tại Việt Nam hầu hết các khâu này đều thiếu và yếu.
Chất lượng gạo xuất khẩu thời gian qua cũng không ngừng được cải thiện, gạo
Việt Nam hiện nay đã có chỗ đứng, được chấp nhận trên thị trường thế giới. Nhờ
cải tiến đầu tư trong các khâu chế biến, gạo Việt Nam đã phần nào đáp ứng được
các yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng. Nếu xét trên một tiêu chí của phẩm
cấp là độ gãy (hay tỉ lệ tấm) có thể thấy phần nào phẩm cấp gạo của Việt Nam thời
gian qua như sau:

Bảng 2.1. Tỷ trọng phẩm cấp các loại gạo của Việt Nam
Loại gạo
Năm
Phẩm cấp cao
5%-10% tấm
Phẩm cấp trung
bình
15%-20% tấm
Phẩm cấp thấp
25% tấm trở lên
2003 55% 24% 21%
2007 52% 30% 18%
2008 48% 40% 12%
2009 50% 26% 24%
2010 54% 20% 26%
Nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược- bộ khoa học đầu tư
Nhìn chung, từ khi Việt Nam gia nhập WTO tốc độ tăng xuất khẩu gạo có tỷ
lệ tấm ít ( từ 5%- 10%) đã nhanh hơn so với tốc độ tăng trường xuất khẩu chung và
có xu hướng tăng dần trong khi đó loại có tỷ lệ tấm trên 10% chiếm tỷ trọng nhỏ và
có xu hướng giảm dần. Có được tiến bộ này là do nhà nước đã quy hoạch và xây
dựng các vùng lúa chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, trong đó vùng đồng bằng
sông Cửu long có 1 triệu ha, vùng đồng bằng sông Hồng có 300 nghìn ha. Đến nay
trên 70% diện tích đất trồng lúa đã được cung cấp những giống lúa mới từ viện
nghiên cứu lúa gạo quốc tế. Trong đó, nhiều giống lúa cho năng suất cao, khả năng
chống chịu với điều kiện thời tiết, sâu bệnh tốt. Vì vậy trong những năm gần đây
thị trường gạo được được mở rộng, khách hàng tăng, sức cạnh tranh của hạt gạo
Việt Nam trên thị trường thế giới đang dần được cải thiện. Minh chứng rõ ràng
nhất là việc gạo Việt Nam đã và đang thâm nhập được vào thị trường Nhật Bản –
một thị trường khó tính và có những quy định khắt khe về vệ sinh an toàn thực
phẩm. Tại Nhật Bản Việt Nam trúng thầu xuất khẩu 45.050 tấn gạo. Hai lần liên

tiếp Việt Nam đã trúng thầu tổng cộng 28.000 tấn gạo (14.000 tấn/lần). Giá gạo
trung bình của đợt thầu này là trên 63.433 Yên/tấn (khoảng 528,6 USD/tấn). Lần
thứ 3 là 17.050 tấn với giá trung bình là 52.804 Yên/tấn (tương đương 459,16
USD/tấn). Các chuyên gia nhận định, chất lượng gạo Việt Nam ngày càng được
nâng cao với những yêu cầu và quy định khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm
của Nhật Bản (đây là thị trường rất khó tính) đồng thời có giá cả phù hợp. Do vậy,
Việt Nam là một trong ba nước (cùng với Thái Lan và Mỹ) đã trúng thầu cung cấp
gạo sang thị trường Nhật Bản năm 2007 [22].Tuy nhiên chất lượng gạo Việt Nam
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng sản lượng và kim ngạch xuất
khẩu.
2.1.3. Giá gạo xuất khẩu.
Từ năm 2001-2003, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lại ở mức khá thấp, đặc
biệt năm 2001 giá gạo hạ tới mức thấp nhất 167,53 USD/ tấn.
Nhưng sau đó giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lại có sự phục hồi trở lại và
tăng dần qua các năm từ năm 2004 đến năm 2006
Nhìn chung thì giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn này thường thấp hơn giá
gạo thế giới do chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị trường như
chủng loại.
Ngay sau khi gia nhập WTO, năm 2007 lần đầu tiên giá gạo của Việt Nam
vượt mốc 300 USD/tấn đối với hầu hết các loại gạo (gạo 5% tấm, 10% tấm, 15%
tấm). Đây cũng là lần đầu tiên giá gạo Việt Nam xuất khẩu ngang bằng với gạo
Thái Lan cùng cấp các loại, từ 5% tấm, 10%,15% đến 20% tấm, và có thời điểm,
giá gạo loại 25% tấm vượt cao hơn Thái Lan. Trong năm này Việt Nam đã trúng
thầu cung cấp 474000 tấn gạo loại 25% tấm cho Philippin và một gói thầu cung
cấp 14000 tấn gạo tẻ hạt dài cho thị trường Nhật Bản. Bên cạnh đó nhu cầu gạo ở
Trung Đông và Châu Phi tăng mạnh. Chính lượng cầu tăng mạnh trong khi nguồn
cung của thế giới tăng không nhiều đã làm cho giá gạo xuất khẩu của Việt Nam
luôn ở mức cao kể từ đầu năm. [20]
Năm 2008 là năm có nhiều biến động mạnh trong giá gạo xuất khẩu, có lúc
giá gạo của Việt Nam tăng lên tới 1050 USD/tấn. Giá gạo chia làm 2 xu hướng rõ

rệt: tăng mạnh trong 5 tháng đầu năm, giảm mạnh trong 7 tháng cuối năm, giá gạo
xuất khẩu bình quân cả năm là 610 USD/ tấn, tăng 86,7% so với năm 2007.
Nguyên nhân giá gạo tăng đột biến là do lạm phát cao khiến chính phủ các nước
tạm ngưng xuất khẩu gạo để ổn định tình hình trong nước, điều này dẫn đến nguồn
cung giảm mạnh khiến giá gạo thế giới tăng cao. [10]
Năm 2009 giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam chỉ đạt 405,42 USD/tấn
đã giảm 33,54% so với năm 2008
Năm 2009 giá xuất khẩu bình quân từ đầu năm đến 5/12 chỉ đạt 405 USD/tấn,
giảm 180 đô la so với cùng kỳ năm 2008, nhưng lượng gạo giao trong tháng 11 đạt
mức giá bình quân đến 413,71 đô la Mỹ/tấn, tức những tháng cuối năm gạo đang
được giá. [21]
Trước đó, từ đầu năm đến tháng 9, tình hình mua bán gạo trên thế giới vẫn
trầm lắng, giá gạo hầu như không thay đổi, thậm chí có lúc xuống thấp trong thời
điểm từ tháng 3-6. Nguyên nhân xuất phát từ thông tin Ấn Độ trúng mùa và đưa
lượng gạo dự trữ lên mức hơn 20 triệu tấn, cao nhất từ trước đến nay, và có thể
xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn. Trong khi đó, Thái Lan vẫn tiếp tục thực hiện chương
trình mua lúa có trợ giá cho nông dân, nâng mức tồn kho gạo lên hơn 6 triệu tấn và
nhiều khả năng bán gạo tồn kho nhằm giảm chi phí, hao hụt khi lưu kho. Mặt khác,
khủng hoảng tài chính trên thế giới cũng khiến việc mua bán gạo cấp thấp bị giới
hạn do nhu cầu viện trợ từ các nước nghèo không được đáp ứng kịp thời.
Năm 2010 bình quân giá gạo xuất khẩu đạt 468 USD/tấn, tăng 5,02% so với
năm trước và đặc biệt giá gạo xuất khẩu năm này vượt giá gạo xuất khẩu bình quân
thế giới.
Hình 2.2. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và thế giới giai đoạn 2007-2010
Nguồn: Bộ thương mại, 2010
Như vậy giá gạo xuất khẩu của nước ta nhìn chung đã ngày càng bám sát hơn
giá bình quân trên thị trường xuất khẩu gạo thế giới và đã vượt giá xuất khẩu gạo
bình quân thế giới vào năm 2010. Điều đó cho thấy gạo xuất khẩu của Việt Nam đã
có nhiều cải thiện hơn về mặt chất lượng.
Bên cạnh đó giá gạo Việt Nam đã dần dần ngang bằng với giá gạo của Thái

Lan, đây là một tín hiệu vui giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng như
người nông dân có nguồn vốn để tiếp tục sản xuất và xuất khẩu.
Hình 2.3. Giá gạo trắng Việt Nam so với Thái Lan từ năm 2003 đến tháng 3
năm 2010 ( USD/tấn)
Nguồn: Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO)
Tuy nhiên, giá xuất khẩu bình quân của 4 cường quốc còn lại so với giá bình
quân của thế giới thấp nhất cũng là trên 90%, cao nhất là gần 120% thì giá của
chúng ta chỉ đạt khoảng 80% giá bình quân của thế giới. Đó là giá bán thấp nhất
trong số 5 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới là Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam,
Mỹ và Pakistan.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), hiện nay giá gạo xuất khẩu của
Việt Nam đang tăng mạnh, loại 5% tấm có giá 490-505 USD/tấn, loại 25% tấm giá
khoảng 480 USD/tấn, tính đến cuối tháng 7, các doanh nghiệp đã xuất khẩu 4,619
triệu tấn gạo, trị giá 2,187 tỷ USD, giá xuất khẩu bình quân đạt 473,37 USD/tấn,
tăng 35,11 USD/tấn so với cùng kỳ năm trước.
2.2. Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ 2001 đến nay.
2.2.1. Cơ cấu thị trường xuất khẩu theo khu vực
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2006, thị trường xuất khẩu gạo của Việt
Nam ngày càng được mở rộng. Năm 2001, gạo Việt Nam mới xuất khẩu sang hơn
50 nước, và đến năm 2006 đã xuất khẩu đến hơn 60 thị trường và có mặt ở cả 5
châu lục. Trong đó Châu Á và Châu Phi là 2 thị trường nhập khẩu gạo lớn của Việt
Nam.
Hình 2.4. Tỷ trọng xuất khẩu gạo bình quân đến các châu lục giai đoạn 2001-
2006 (%)
Nguồn: Bộ thương mại, 2008
Giai đoạn 2001-2006, trung bình Châu Á chiếm 47% thị phần xuất khẩu gạo
của Việt Nam (Hình 2.2). Đứng vị trí thứ hai là châu Phi, trung bình chiếm hơn
25% thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam (Hình 2.2). Thị trường Châu Mỹ cũng
nhập khẩu một số lượng lớn gạo chiếm 9,68% thị phần xuất khẩu của Việt Nam.
Do khu vực này cũng là nơi sản xuất gạo với số lượng lớn để xuất khẩu, thêm nữa

gạo không phải là thương thực chính ở đây nên gạo nhập khẩu không nhiều.
Mặc dù lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Đông giai đoạn 2001-
2006 chỉ đứng sau Châu Á và Châu Phi nhưng Trung Đông vẫn chỉ được coi là thị
trường tiềm năng của xuất khẩu gạo Việt Nam. Nguyên nhân là do, những nước
giàu ở khu vực này như các tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Oman… thì chủ
yếu nhập khẩu các loại phẩm cấp cao của Thái Lan, những thị trường có nhu cầu
đối với gạo chất lượng trung bình của Việt Nam như Irac, Iran thì lượng gạo nhập
khẩu hay bị gián đoạn do chiến tranh, xung đột chính trị. Do vậy lượng gạo xuất
khẩu của Việt Nam vào thị trường này không ổn định mặc dù nhu cầu tiêu dùng
gạo Việt Nam ở thị trường Trung Đông là tương đối cao.
Châu Âu vốn là thị trường tiêu dùng khó tính, với nhiều tiêu chuẩn chất lượng
khắt khe. Bên cạnh đó khu vực này chủ yếu nhập khẩu các loại gạo phẩm cấp cao
vị thế gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này cũng chỉ chiếm một tỷ trọng
nhỏ (5,32%).
So với trước khi gia nhập WTO, tỷ trọng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo
khu vực mặc dù có sự thay đổi nhưng hạng sắp xếp theo khối lượng thì không thay
đổi. Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu gạo hàng đầu Việt Nam, tiếp đến là Châu
Phi. Theo báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2008 và triển vọng
2009 của Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO),
xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2008 giảm mạnh tại thị trường Châu Á và tăng
mạnh tại thị trường Châu Phi.
Năm 2008, xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Châu Á giảm mạnh so với
năm 2007 (giảm từ 78,1% năm 2007 xuống còn 58,8% năm 2008). Trong số các
thị trường có tỷ trọng xuất khẩu gạo tăng thì thị trường Châu Phi là tăng mạnh
nhất, tăng hơn gấp đôi so với năm 2007 (từ 8,4% năm 2007 lên 22% năm 2008).
(Hình 2.4)
Hình 2.5 Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm 2007-
2008 (%)
Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan
Năm 2009, châu Á tiếp tục đóng vai trò là thị trường xuất khẩu gạo quan trọng

nhất của Việt Nam. Theo Báo cáo thường niên ngành hàng gạo năm 2009 của Công
ty cổ phần Phân tích và Dự báo thị trường Việt Nam (AGROMONITOR), xuất
khẩu gạo sang các nước châu Á chiếm đến 61,68% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo
của Việt Nam (so với mức 58,8% của năm 2008). Tiếp đến là Châu Phi - chiếm đến
30% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Còn lại các châu lục khác chỉ
chiếm 8,32% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. [16]
Đến năm 2010 khu vực tỷ trọng xuất khẩu gạo vào các khu vực thay đổi
không đáng kể, châu Á chiếm 61,29% ; châu Phi chiếm 29,64%; Châu Mỹ chiếm
5,22%, châu Âu chiếm 3,33%; còn lại là thị trường châu Úc chiếm 0,52% tổng số
lượng xuất khẩu.
2.2.2. Cơ cấu thị trường theo quốc gia.
Năm 2003, cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam có sự thay đổi nhỏ.
Cuộc chiến tranh tại Irac khiến lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam vào nước này
giảm đáng kể. Tuy nhiên, với việc có thêm nhiều thị trường mới đã mở ra cũng
trong năm đó như Libang, Xiri, các nước Châu phi như Kenya, Senegal,…nên xuất
khẩu gạo của Việt Nam vẫn ở mức cao.
Năm 2006, Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam
với gần 1,43 triệu tấn, chiếm 76,7% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Thị
trường Philipin chiếm vị trí số một với mức nhập khẩu 33% tổng lượng gạo xuất
khẩu của Việt Nam. Ngoài ra trong năm này Nhật Bản cũng được coi là một thị
trường tiềm năng của gạo Việt Nam với những cam kết nâng dần lượng gạo nhập
khẩu từ năm 2007 khoảng 150000 tấn đến 350000 nghìn tấn vào năm 2010. [4]
Trước khi gia nhập WTO gạo Việt Nam được xuất khẩu đến hơn 60 quốc gia
năm 2006 thì đến năm 2008, con số này đã tăng lên gấp đôi (128 quốc gia)
Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo năm 2008 của Việt Nam có sự thay đổi đặc
biệt trong việc xuất khẩu gạo sang thị trường Indonexia. Thực tế các năm trước
đây, cũng như năm 2007, Indonexia luôn là thị trường gạo xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam (chiếm 24% tổng lượng xuất khẩu), thì năm 2008, nước này đã giảm
mạnh lượng nhập khẩu gạo (chỉ chiếm hơn 1% tổng lượng gạo xuất khẩu) do đã có
thể tự đáp ứng được nhu cầu gạo tại thị trường trong nước. Thị trường nhập khẩu

gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2008 vẫn là Philippines chiếm 40% tổng lượng
gạo xuất khẩu của Việt Nam. 3 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là
Philippines, Malaysia, Cuba. Đây đều là các thị trường truyền thống chiếm 63,8%
về giá trị và 54,8% về lượng. [16]
Bảng 2.2. Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam tới 10 thị
trường nhập khẩu chính 2007-2008
Năm
Nước
2007 2008
Khối lượng
(nghìn tấn)
Kim ngạch
(triệu USD)
Khối lượng
( nghìn tấn)
Kim ngạch
( triệu USD)
Philipine 1458 466 1479 1088
Cuba 431 167 488 411
Malaysia 377 116 457 263
Senegal 191 94 200 100
Iraq - - 190 95
Bờ Biển Ngà 148 46 185 51
Đông Ti Mo 134 46 165 47
Singapore 82 26 150 39
Ghana 130 40 125 30
Indonexia 1169 379 76 19
Nguồn: Tổng cục hải quan, 2008
Sang năm 2009 thì thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam vẫn là các
nước châu Á chiếm đến 61,68% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam (so

với mức 50,8% của năm 2008). Trong đó, xuất khẩu gạo sang thị trường
Philippines chiếm hơn một nửa thị phần của toàn khu vực châu Á (chiếm tới 35%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2009). Theo đó, lượng gạo
mà Việt Nam xuất khẩu sang Philippines trong năm 2009 đạt gần 1,7 triệu tấn, trị
giá hơn 912 triệu USD.
Tiếp theo phải kể đến Malaysia, từ vị trí thứ ba trong năm 2008, đã vươn lên
đứng thứ hai với thị phần 9%, tương đương với lượng gạo nhập khẩu hơn 611
nghìn tấn, trị giá khoảng 271 triệu USD. Các quốc gia và lãnh thổ châu Á nằm
trong nhóm 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2009 còn có
Singapore (329.000 tấn và 134 triệu USD ), Đông Timo (242.000 tấn và 97 triệu
USD), Đài Loan (203.000 tấn và 81 triệu USD) và Iraq (168.000 tấn và 68
triệuUSD ). [16]
Châu Á là thị trường xuất khẩu gạo chủ chốt của Việt Nam trong năm 2009
khi có tới sáu trong 10 thị trường có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Cụ thể, 10 thị
trường có kim ngạch nhập khẩu gạo từ Việt Nam trên 1 triệu đô la và có tốc độ
tăng trưởng kim ngạch lớn nhất năm 2009 bao gồm: Kiribati (tăng 10,608%),
Campuchia (tăng 2,516%), Li Băng (tăng 2,124%), Hồng Kông (tăng 758%), Mỹ
(tăng 714%), Nigeria (tăng 614%), Brunei (tăng 506%), Đài Loan (tăng 493%),
Trung Quốc (tăng 397%) và Fiji (tăng 365%). Đáng chú ý là Đài Loan từ vị trí thứ
23 trong bảng xếp hạng năm 2008 đã vươn lên đứng trong nhóm 10 thị trường xuất
khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam trong năm 2009. [16]
Đến năm 2010 Thị trường truyền thống chủ đạo của xuất khẩu gạo Việt Nam
vẫn là Philippines, Indonesia, Cu Ba, Malaysia và Đài Loan; trong đó, dẫn đầu về
lượng và kim ngạch trong năm 2010 là thị trường Philipines với 1,48 triệu tấn, trị
giá 947,38 triệu USD (chiếm 21,4% về lượng và chiếm 29,17% tổng kim ngạch);
thị trường Indonesia xếp vị trí thứ 2 với trên 687 nghìn tấn, trị giá 346,02 triệu
USD (chiếm 9,98% về lượng và chiếm 10,65% tổng kim ngạch); thứ 3 là
Singapore với 539,3 nghìn tấn, trị giá 227,79 triệu USD (chiếm 7,83% về lượng và

×