Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận quản lý xã hội về giáo dục đào tạo vấn đề xã hội hoá giáo dục ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.05 KB, 27 trang )

TIỂU LUẬN
Môn: QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐỀ TÀI: VẤN ĐỀ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.

1


Mục lục
Mở đầu.......................................................................................................................2
1.

Lý do chọn đề tài..............................................................................................2

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................2

3.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu............................................................3

4.

Kết cấu của tiểu luận........................................................................................3

Nội dung....................................................................................................................4
Chương 1 Cơ sở lí luận về giáo dục và đào tạo.........................................................4
1.1 Một số khái niệm cơ bản..............................................................................4
1.1.1 Giáo dục và đào tạo....................................................................................4
1.1.2 Xã hội hóa..................................................................................................4


1.2 Xã hội hóa giáo dục và đào tạo.....................................................................5
Chương 2 Nội dung xã hội hóa giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay...............6
2.1 Bản chất, hệ thống pháp luật của xã hội hóa giáo dục và đào tạo.................6
2.1.1 Bản chất......................................................................................................6
2.1.2 Hệ thống pháp luật....................................................................................8
2.2

Vai trò và ý nghĩa của xã hội hóa giáo dục..............................................11

2.3 Quan điểm và định hướng chung về xã hội hóa giáo dục và đào tạo ở
Việt Nam...........................................................................................................12
Chương 3 Thực trạng và giải pháp thực hiện xã hội hóa giáo dục và đào tạo ở Việt
Nam hiện nay...........................................................................................................13
3.1 Thực trạng xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam hiện nay................................13
3.1.1 Vai trị quản lí quản lí của nhà nước về xã hội hóa giáo dục và đào tạo..13
3.1.2 Thành tựu.................................................................................................15
3.1.3 Hạn chế.....................................................................................................19
3.2 Giải pháp thực hiện xã hội hóa giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay. 22
Kết luận...................................................................................................................25
Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................................26
2


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân chí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, đó và đang được Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta hết sức
quan tâm.
Để thực hiện CNH, HĐH việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo nhân lực có chất
lượng cao ln là sự quan tâm của cả nước. Bước sang thế kỷ XXI với sự phát

triển của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức nền kinh tế thế giới dang có nhiều
chuyển biến. Sự hợp tác đa dạng, đa phương trong nền kinh tế thị trường đang đũi
hỏi cỏc nước phải cải cách giáo dục theo hướng hiện đại. Phát triển quy mô, nâng
cao chất lượng giáo dục không chỉ đặt ra đối với các nước đang phát triển mà ngay
cả các nước phát triển cũng đang tiến hành cải cách và hiện đại hóa giáo dục theo
hướng hợp tác liên thông bằng cấp trong khu vực và thế giới.
Ở nước ta, cơng cuộc đổi mới kinh tế đó tạo điều kiện đổi mới giáo dục và xã
hội đang yêu cầu giáo dục nước nhà đẩy nhanh tốc độ đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế xã hội để nước ta sớm kịp các nước trong khu vực và quốc tế. Trong thời
kỳ đổi mới, giáo dục nước ta đó đạt được những kết quả đáng kể.
Đến nay chúng ta đó cú một hệ thống cỏc cơ sở giáo dục, đào tạo đa dạng các
loại hình nhà trường và hình thức giáo dục. Quy mơ giáo dục phát triển lớn từ mầm
non đến đại học. So với thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, giáo dục trong thời kỳ đổi
mới đó đổi thay nhiều mặt. Có được thắng lợi này là do chúng ta đã tích cực thực
hiện chương trình xã hội hố trong cơng tác giáo dục.
Đây chính là lí do vì sao mà tơi đã chọn đề tài “Vấn đề xã hội hoá giáo dục ở
Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu cho bài tiểu luận kết thúc môn quản lý xã hội về
giáo dục và đào tạo.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: nghiên cứu, khảo sát, phân tích, đánh giá một cách khách quan trên
cơ sở những luận cứ khoa học và những kinh nghiệm thực tiễn nhằm nhận thức
hướng tổ chức thực hiện của địa phương, cơ sở từ khi có nghị quyết, chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước về xã hội hóa giáo dục, đồng thời có thêm những

3


luận cứ tham khảo trong việc quyết định các chủ chương chính sách mới hơn thay
đổi tốt hơn về vấn đề xã hội hóa trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Nhiệm vụ: Từ các mục tiêu đặt ra nghiên cứu và đề xuất giải pháp cơ bản trong

việc tiến hành xã hội hóa giáo dục và đào tạo phù hợp với đặc điểm, tình hình đất
nước cũng như đáp ứng những yêu cầu của thế giới trong giai đoạn mới hiện nay.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là công tác xây dựng, quản lí, thực hiện cơng tác xã hội
hóa giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này tôi đã vẫn dụng và tiến hành đồng thời các phương
pháp: Phương pháp phân tích và tổng hợp,phương pháp lý luận gắn với thực tiễn,
phương pháp lịch sử và logic, phương pháp liệt kê, nêu ví dụ…
4. Kết cấu của tiểu luận.
Bài tiểu luận được trình bày theo kết cấu gồm:
Mở đầu
Nội dung gồm 3 chương
Chương 1: Một số khái niệm cơ bản
Chương 2: Nội dung về xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp thực hiện xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam
hiện nay.
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo

4


Nội dung
Chương 1 Cơ sở lí luận về giáo dục và đào tạo
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Giáo dục và đào tạo
Trong Nghị quyết số 04-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương
Đảng (khoá VII) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã nêu rõ quan

điểm “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” .
Giáo dục và đào tạo có vai trị quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển và
truyền bá văn minh nhân loại. Là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục và đào tạo là Nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực và bồi dưỡng nhân tài nhằm phát triển tiềm năng trí tuệ, cung cấp cho đất nước
nguồn lao động có chất lượng cao.
Giáo dục và đào tạo là hoạt động có tổ chức của xã hội nhằm bồi dưỡng và phát
triển các phẩm chất, năng lực của con người.
1.1.2 Xã hội hóa
Trong xã hội học, xã hội hóa (socialization) được định nghĩa là một quá trình
giới thiệu cho mọi người về các chuẩn mực xã hội và phong tục thơng qua q
trình tương tác với xã hội. Nhằm giúp con người phát triển các khả năng của mình
và học hỏi từ xã hội. Hay nói cách khác, xã hội hóa là q trình con người liên tục
tiếp thu văn hóa vào nhân cách của mình để sống hịa hợp với xã hội.
Trong q trình xã hội hóa, con người học cách để trở thành thành viên của một
nhóm, một cộng đồng hoặc xã hội. Q trình này khơng chỉ giúp mọi người làm
quen với các nhóm xã hội mà nhờ đó các nhóm xã hội này có khả năng tự duy trì
theo thời gian. Ở tầm vĩ mơ, xã hội hóa đảm bảo rằng chúng ta có một quá trình
phát triển mà qua đó các chuẩn mực và phong tục của xã hội được truyền tải. Xã
hội hóa dạy cho mọi người những chuẩn mực, cách ứng xử đúng đắn đáp ứng
những mong đợi của xã hội, cộng đồng hoặc một tình huống cụ thể.
Xã hội hóa là như vậy. Tuy nhiên, ở Việt Nam, khái niệm xã hội hóa này lại
được hiểu theo một cách hồn tồn khác. Khái niệm xã hội hóa lần đầu tiên được
đưa vào sử dụng tại văn kiện của Đảng tại Đại hội lần thứ VIII. Sau đó, trong nghị
quyết Đại hội lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng các chính sách xã hội
5


được thực hiện trên tinh thần xã hội hóa, đề cao tinh thần trách nhiệm của các cấp,

huy động nguồn lực của nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ
chức xã hội.
Như vậy, Ở Việt Nam, xã hội hóa được dùng để chỉ sự quan tâm cũng như đóng
góp của tồn xã hội đối với một hoặc một số lĩnh vực nào đó như xã hội hóa kinh
tế, xã hội hóa y tế…và quan trọng nhất là xã hội hóa giáo dục.
1.2 Xã hội hóa giáo dục và đào tạo
Tương tự như khái niệm xã hội hóa, xã hội hóa giáo dục là việc tất cả mọi
người trong xã hội đều làm giáo dục, mọi người giáo dục lẫn nhau và tất cả mọi
người đều được giáo dục. Xã hội hóa giáo dục nhằm hướng tới sự phát triển hồn
thiện về trí thức cũng như nhân cách của con người, trở thành quyền cơ bản của
con người. Bên cạnh đó, xã hội hóa giáo dục cũng trở thành trách nhiệm của tất cả
mọi người.
Xã hội hóa giáo dục là vận động tồn xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục,
nhằm phát huy truyền thống hiếu học và tiềm năng con người trong quá trình xây
dựng nền giáo dục hiện đại dưới sự quản lý của Nhà nước để phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao mức hưởng thụ giáo dục
của nhân dân.
Xã hội hoá giáo dục là huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng
lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà
nước để xây dựng một xã hội học tập; là việc thực hiện mối liên hệ phổ biến giữa
hoạt động giáo dục và cộng đồng xã hội, làm cho giáo dục phù hợp với sự phát
triển của xã hội, thích ứng với xã hội, duy trì sự cân bằng giữa hoạt động giáo dục
và xã hội.
Xã hội hoá giáo dục là làm cho hoạt động giáo dục mang tính xã hội. Trong đó
người đi giáo dục và người được giáo dục trong mọi hoạt động về nội dung và
phương thức thực hiện, kết quả đạt được đều mang tính xã hội, tính chuẩn mực xã
hội rất cao. Giáo dục nhằm bồi đắp cho người học tư tưởng, hình thành ý thức
chính trị, nhân cách, bản lĩnh dân tộc cùng với những tri thức khoa học, kỹ thuật,
văn hoá, đạo đức, lối sống.
Cơng tác xã hội hố giáo dục là đa dạng hố các loại hình giáo dục; là q trình

trao đổi những kinh nghiệm, đổi mới nội dung chương trình, phương pháp, hình
thức, phương tiện giáo dục một cách phù hợp với đối tượng và điều kiện nước ta.

6


Khái niệm “Xã hội hoá giáo dục” Trong văn kiện Hội nghị lần 2 của ban chấp
hành trung ương Đảng khố VIII nêu rõ: Xã hội hố trong cơng tác giáo dục là huy
động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng
nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước. các trường cơng lập - Xây
dựng và hồn thiện khung pháp lý cho việc tổ chức thực hiện chủ trương xã hội
hoá giáo dục.
Chương 2 Nội dung xã hội hóa giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
2.1 Bản chất, hệ thống pháp luật của xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
2.1.1 Bản chất.
Thứ nhất, chồng lấn do bản chất : Xã hội có thể được xem như sự hợp thành
của bốn thành phần: Nhà nước, Thị trường, Gia đình và Tổ chức dân sự. Nhìn vào
cấu trúc của xã hội thì thấy, giáo dục nằm trong vùng chồng lấn của cả bốn thành
phần này. Vì thế, giáo dục khơng phải là cơng việc của riêng ai, mà địi hỏi sự
gánh vác của tồn xã hội. Nói cách khác, xã hội hóa giáo dục là tất yếu, nhưng
cách thức tiến hành thế nào, ở nội dung và mức độ nào, còn là vấn đề cần thảo
luận. Nếu không, một chủ trương đúng dễ bị lạm dụng vì lợi ích cục bộ và khó trở
thành hiện thực. Nhìn vào bản chất chồng lấn của giáo dục thì thấy: giáo dục
khơng phải và khơng thể 100% thuộc bất cứ thành phần nào. Cho nên, đa dạng hóa
các loại hình cung cấp dịch vụ giáo dục và huy động sự đóng góp của tất cả các
thành phần vào giáo dục là cần thiết và tất yếu.
Tuy nhiên, do vai trò điều hành và quản lý xã hội của Nhà nước cũng như do
nguồn lực vượt trội so với các thành phần khác, Nhà nước phải là người cung cấp
dịch vụ giáo dục chính và chịu trách nhiệm về những phân khúc quan trọng nhất,
đòi hỏi nhiều nguồn lực nhất. Đầu tư cho giáo dục khi đó phải được coi là đầu tư

cho hạ tầng quốc gia trong một tầm nhìn tổng thể, dài hạn. Nếu khơng, sẽ dẫn đến
tình trạng Nhà nước thả nổi giáo dục và đẩy gánh nặng giáo dục cho dân như tình
trạng lạm thu đã xuất hiện ở nhiều nơi.
Thứ hai, không chỉ là tài chính: Sự tham gia của các thành phần ngồi Nhà
nước vào giáo dục khơng chỉ đơn thuần ở khía cạnh đóng góp tài chính, mà phải ở
tồn bộ nội dung và phương thức giáo dục . Gia đình cần phối hợp cùng Nhà
trường giáo dục con em cả về tri thức lẫn đạo đức chứ khơng thể giao khốn cho
Nhà trường mọi việc. Do đó, gia đình phải được tham gia việc hình thành và điều
chỉnh nội dung giáo dục trong Nhà trường thông qua những cơ chế hợp lý, như Hội
đòng trường chẳng hạn . Thị trường, cụ thể là các công ty, với tư cách là người sử
dụng các tri thức và kĩ năng của sản phẩm giáo dục , phải tham gia tư vấn, thiết kế
một phần nội dung giáo dục, nhất là với giáo dục đại học và dạy nghề. Nếu khơng,
chương trình giáo dục dễ lạc hậu và xa rời thực tế, những tri thức và kĩ năng mà
7


nhà trường trang bị cho người học không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao
động. Các tổ chức dân sự, hội nghề nghiệp tham gia vào giáo dục với chức năng
bồi dưỡng nghiệp vụ, tư vấn chương trình sao cho nội dung giáo dục đáp ứng được
những đòi hỏi của đời sống thực bên ngồi nhà trường.
Đó mới là nội dung đúng của xã hội hóa giáo dục. Nhưng thật đáng buồn, điều
này đã ít nhiều bị hiểu sai và bóp méo. Việc huy động sự đóng góp của các thành
phần ngoài Nhà nước, chủ yếu là gia đình vào giáo dục chỉ tập trung vào khía cạnh
đóng góp tài chính, một phần rất nhỏ trong tổng thể giáo dục, lại là phần Nhà nước
cần phải chịu trách nhiệm chính dưới sự ủy nhiệm thơng qua việc đóng thuế của
người dân, dẫn đến tình trạng lạm thu và đẩy gánh nặng tài chính cho gia đình như
báo chí phản ánh
Một biểu hiện lệch lạc khác của việc bóp méo xã hội hóa giáo dục là xu hướng
thị trường hóa giáo dục. Nhà trường có nguy cơ trở thành nơi kinh doanh thu lợi.
Các trường đua nhau mở ra, chạy theo số lượng mà bỏ rơi chất lượng 2. Kế hoạch

cổ phần hóa các trường đại học, dù chỉ mới ở dạng dự thảo 3, cũng là con đẻ của tư
duy xã hội hóa giáo dục méo mó. Hệ quả của việc hiểu sai, cố tình hiểu sai, hoặc
bóp méo bản chất tích cực của xã hội hóa giáo dục đã biến một chủ trương đúng
đắn thành một gánh nặng cho người dân.
Thứ ba, xã hội hóa khơng gian và quyền tham gia giáo dục: Xã hội hóa giáo
dục trước hết phải là xã hội hóa khơng gian và quyền tham gia giáo dục , tham gia
quản lý Nhà trường, thiết kế chương trình và triển khai các hoạt động giáo dục của
tất cả các thành phần trong xã hội. Quyền học tập của mọi công dân phải được đảm
bảo và mở rộng. Từ đó hình thành những chính sách phù hợp để hỗ trợ những trẻ
em khó khăn vẫn có thể đến trường. Quyền tự chủ của Nhà trường, quyền lựa chọn
nội dung và phương thức giảng dạy của giáo viên cũng cần được tăng cường. Biểu
hiện rõ ràng của điều này là quyền tự chủ của các trường đại học về chương trình,
nhân sự; quyền lựa chọn sách giáo khoa dựa trên khung chương chình chuẩn của
các trường phổ thông; quyền được điều tiết nội dung và cách thức giảng dạy tùy
thuộc vào đặc điểm cụ thể của người học, vùng miền hoặc nội dung đào tạo...
Các loại hình giáo dục khác nhau và khác với giáo dục truyền thống, như giáo
dục trực tuyến, giáo dục di động, cũng cần được sử dụng để mở rộng không gian
học tập sao cho phù hợp với nhiều đối tượng cụ thể.
Khơng gian giáo dục sẽ khơng chỉ gói gọn ở trong Nhà trường, mà cần mở
rộng về đến Gia đình, Thị trường (các cơng ty), Tổ chức dân sự (Hội nghề
nghiệp). Vì thế một cơ chế cho phép tất cả các thành phần này tham gia tích cực
vào hoạt động giáo dục đào tạo là cần thiết và cần được khuyến khích.

8


Chất lượng của xã hội và sự giàu mạnh của đất nước, suy cho cùng, được quyết
định bởi chất lượng của chính những cơng dân tạo ra xã hội đó. Do vậy, huy động
mọi nguồn lực để phát triển giáo dục là một chính sách đúng. Nhưng chỉ chú ý đến
huy động tài chính thì đó là sự bóp méo nội dung của xã hội hóa giáo dục và phần

nào là thiếu trách nhiệm, đẩy gánh nặng tài chính cho người dân. Cách thức xã hội
hóa giáo dục , với đặc điểm nổi bật là huy động tài chính của dân, là lệch lạc về
bản chất, vì thế cần được chấn chỉnh để trả lại sự trong sáng và tích cực vốn có của
khái niệm này.
2.1.2 Hệ thống pháp luật
Trong tiến trình phát triển ở nhiều quốc gia, giáo dục được xem là cách để
giảm thiểu rủi ro, nguy cơ cho xã hội và là con đường hữu hiệu để chống đói
nghèo. Ngày nay, khi trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực và sức
mạnh của một quốc gia thì chúng ta đều ý thức được rằng, giáo dục không chỉ là
phúc lợi xã hội, mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế, phát triển
xã hội. Theo đó, các nước kém phát triển cần quan tâm đến giáo dục và đầu tư cho
giáo dục bởi đây chính là đầu tư cho phát triển, quyết định vận mệnh của con
người, xã hội, vận mệnh của dân tộc. Vì thế, giáo dục, đào tạo giữ vai trò trung
tâm, then chốt để hội nhập và phát triển của mỗi quốc gia.
So với các nước, kể cả các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn thì tỷ lệ
chi tiêu cơng cho giáo dục trên GDP của Việt Nam khá lý tưởng góp phần đem lại
những thành tựu quan trọng cho giáo dục nước nhà.
Để thực hiện nguyên tắc hiến định “phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu”, Luật Giáo dục qua các thời kỳ đã xác định rõ hệ thống giáo dục quốc dân là
hệ thống giáo dục mở, liên thơng gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường
xun. Trong đó, cấp học, trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao
gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại
học. Để bảo đảm tính chất “đa mục tiêu” của nền giáo dục, chúng ta không thể chỉ
dựa vào nguồn lực của Nhà nước, mà cần thực hiện giải pháp “xã hội hố”.
Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương được thực hiện ở rất nhiều quốc gia trên
thế giới, không chỉ những quốc gia nghèo, kém phát triển mà ngay cả ở các quốc
gia phát triển, công tác xã hội hóa giáo dục càng được thực hiện rộng rãi và có hiệu
quả.
Tuy nhiên, qua các giai đoạn và tùy từng quốc gia, dân tộc, thuật ngữ xã hội
hóa giáo dục có nhiều cách hiểu với những nội hàm ít nhiều liên quan đến các khía

cạnh như: phi tập trung hóa (decentralization); giáo dục suốt đời (longlife
education); xã hội học tập (learning society); giáo dục cộng đồng (comunity
education). Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã phân chia dịch vụ và thương
9


mại dịch vụ trên thế giới 12 nhóm lớn với 143 hạng mục dịch vụ. Trong 12 nhóm
thương mại dịch vụ, thì dịch vụ giáo dục thuộc nhóm thứ năm, dịch vụ nhóm này
bao gồm: dịch vụ giáo dục tiểu học, dịch vụ giáo dục trong học; dịch vụ giáo dục
đại học và cao đẳng; dịch vụ giáo dục cho người lớn và các dịch vụ giáo dục khác.
Dù muốn hay khơng thì thị trường dịch vụ (giáo dục) cũng đã và đang hình thành ở
nước ta khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII)
về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố và nhiệm vụ đến năm 2000 đã chỉ rõ, “Thể chế hoá chủ trương xã
hội hoá giáo dục đã ghi trong nghị quyết Đại hội VIII”.Thực hiện chủ trương xã
hội hóa giáo dục đã nêu, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày
21/8/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế,
văn hoá. Sau Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII nêu trên, Luật Giáo dục ra đời
năm 1998, lần đầu tiên công nhận chế độ đa sở hữu đối với các cơ sở giáo dục, bao
gồm công lập, bán công, dân lập và tư thục.
Ngày 14/6/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục. Luật Giáo dục xác
định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế,
xã hội; “phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và
của toàn dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục;
thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến
khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp
giáo dục
Năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh

xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, trong đó đặt
mục tiêu định hướng đến năm 2010, “tỷ lệ học sinh nhà trẻ ngồi cơng lập chiếm
80%, mẫu giáo 70%, trung học phổ thông 40%, trung học chuyên nghiệp 30%, các
cơ sở dạy nghề 60%, đại học, cao đẳng khoảng 40%”.
Năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 40/NQ-CP về xã hội hóa giáo
dục. Chủ trương xã hội hóa giáo dục cịn được Trung ương chỉ đạo rõ hơn trong
Nghị quyết số 29/NQ-TƯ ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo. Trong phần Định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, quan điểm chỉ đạo,Nghị quyết xác định:“Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong
phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục cơng lập và
ngồi cơng lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo
đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng

10


sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo
dục và đào tạo”.
Ngày 14/6/2019, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật Giáo
dục năm 2019. Với mục tiêu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và pháp
luật của Nhà nước về đổi mới giáo dục, đào tạo, tạo hành lang pháp lý cho việc xây
dựng nền giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện; Luật xác định: “Thực hiện đa
dạng hóa các loại hình cơ sở giáo dục và hình thức giáo dục; khuyến khích, huy
động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục;
khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về
giáo dục
Điều 54 Luật Giáo dục năm 2019 quy định, “Nhà đầu tư thành lập cơ sở giáo
dục tư thục được lựa chọn một trong các phương thức sau đây:
Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh

nghiệp để tổ chức kinh tế thành lập cơ sở giáo dục tư thục theo quy định của Luật
này;
Trực tiếp đầu tư thành lập cơ sở giáo dục tư thục theo quy định của Luật này”.
Theo quy định này, nhà đầu tư có hai cách để thành lập cơ sở giáo dục tư thục:
Một là,nhà đầu tư thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của Luật Đầu tư,Luật
Doanh nghiệp (nhà đầu tư tiến hành đăng ký thành lập, lựa chọn mơ hình kinh
doanh, có thể là cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh,
doanh nghiệp tư nhân). Việc lấy được giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
hoặc giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư chỉ là bước đầu. Để đi vào hoạt động, nhà
đầu tư phải cần nhiều giấy phép khác; trong khi đó, mỗi địa phương lại đặt ra
những yêu cầu mang tính địa phương. Điều này đã gây ra những khó khăn nhất
định cho nhà đầu tư. Để khắc phục bất cập này, Chính phủ cần tăng cường khâu
thanh tra, kiểm tra việc thi hành Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư ở các địa phương
theo tinh thần Chính phủ “kiến tạo, liêm chính và hành động”.
Thứ hai, Điều 103 Luật Giáo dục năm 2019 quy định về chính sách ưu đãi đối
với trường dân lập, trường tư thục như sau: “Trường dân lập, trường tư thục được
Nhà nước giao hoặc cho thuê đất, giao hoặc cho thuê cơ sở vật chất”. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy, vấn đề được “nhận đất” với hình thức “giao”hoặc “cho thuê”
chưa hợp lý; tình trạng “xin – cho” vẫn tồn tại phổ biến; tình trạng sử dụng sai mục
đích đất được giao hoặc cho thuê vẫn còn diễn ra. Để khắc phục bất cập này,
Chính phủ cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục năm
2019; trong đó, quy định rõ “cam kết của nhà đầu tư về thời gian đưa vào khai
thác, mục đích đưa vào khai thác, tính kinh tế trong khai thác…” để tạo sự minh
bạch và công bằng trong việc tiếp cận, sử dụng đất đai cho giáo dục.
11


Thứ ba, Điều 103 Luật Giáo dục năm 2019 còn quy định chính sách ưu đãi về
thuế và tín dụng đối với trường dân lập, trường tư thục. Theo đó, “trường dân lập,
trường tư thục được Nhà nước … được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế và tín

dụng”.
Vấn đề tín dụng là bài tốn khó khi mà các sản phẩm của giáo dục để “thế
chấp” hoàn toàn khác với các ngành nghề sản xuất kinh doanh khác, và tín dụng
đối với nhóm trường ngồi cơng lập chỉ có thể khả thi khi nó được áp dụng đối với
các tổ chức tín dụng của Nhà nước, cịn khó khả thi với các tổ chức tín dụng tư
nhân. Do đó, Chính phủ cần có cơ chế “giao nhiệm vụ” đối với các tổ chứng tín
dụng khi xét cấp tín dụng cho các trường ngồi cơng lập theo tinh thần “hỗ trợ và
đồng hành”.
Có thể nói rằng, các cơ sở chính trị, pháp lý nêu trên là căn cứ quan trọng để
việc xã hội hoá giáo dục được ghi nhận và phát triển và trở thành một phần không
thể thiếu trong bức tranh chung về phát triển giáo dục Việt Nam trong những năm
qua.
2.2 Vai trò và ý nghĩa của xã hội hóa giáo dục.
Vai trị của xã hội hóa giáo dục:
Xã hội hố cơng tác giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Xã hội hố cơng tác giáo dục huy động được các nguồn lực, tiềm năng của xã
hội, khắc phục khó khăn trong q trình phát triển giáo dục.
Xã hội hố cơng tác giáo dục tạo sự cơng bằng, trách nhiệm, dân chủ trong
hưởng thụ.
Xã hội hố cơng tác giáo dục góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà
nước về giáo dục…
Ý nghĩa của xã hội hóa giáo dục:
Thực hiện xã hội hóa cơng tác giáo dục là tạo ra một “xã hội học tập” góp phần
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho cộng đồng. Mở rộng
hình thức giáo dục thường xun, tăng cường quy mơ, hình thức dạy học cho toàn
dân phấn đấu thực hiện tốt giáo dục tồn diện: đức, trí, thể, mỹ, lao động.
Coi trọng giáo dục tư tưởng chính trị, chú ý hình thành tư duy sáng tạo và năng
lực thực hành cho người học… xã hội hóa cơng tác giáo dục góp phần nâng cao
12



chất lượng giáo dục và đào tạo, tạo nên những điều kiện vật chất và tinh thần để
nâng cao chất lượng giáo dục; làm cho giáo dục thực sự phục vụ đắc lực cho sự
phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương, phục vụ trực tiếp lợi ích cho từng cá nhân;
tạo điều kiện cho mục đích của giáo dục phù hợp với mục đích của từng cá nhân
tham gia giáo dục.
Tạo điều kiện làm phong phú hơn cho nội dung và phương pháp giáo dục; thực
hiện công bằng xã hội và dân chủ hoá giáo dục, nhờ dân chủ hóa mà mở rộng
LLXH tham gia giáo dục, làm cho mọi người hiểu được giáo dục không chỉ là
trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của tồn xã hội, của mỗi gia
đình, từng cá nhân người đi học.
2.3 Quan điểm và định hướng chung về xã hội hóa giáo dục và đào tạo ở Việt
Nam.
Nhà nước thực hiện xã hội hóa nhằm hai mục tiêu lớn đó là phát huy tiềm năng
trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động nguồn lực của toàn xã hội để chăm lo
cho sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa... của đất nước cũng như tạo điều kiện để xã
hội đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được hưởng các thành quả
giáo dục, y tế, văn hóa ngày càng cao.
Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, hồn thiện chính sách, tăng cường
đầu tư, tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình phát triển quốc gia; hỗ
trợ vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số; ưu đãi các đối tượng chính sách
và trợ giúp người nghèo...
Chuyển các cơ sở công lập hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính
bao cấp sang cơ chế tự chủ về tổ chức và quản lý, hạch toán đầy đủ chi phí, cân đối
thu chi... để nâng cao hiệu quả và chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
Đổi mới chế độ thu phí đi đơi với thực hiện tốt các chính sách ưu đãi đối với
các đối tượng chính sách, trợ giúp người nghèo.Mức phí quy định phải tuân thủ
nguyên tắc đủ trang trải các chi phí cần thiết, có tích lũy để đầu tư phát triển và xóa
bỏ mọi nguồn thu khác.
Phát triển các cơ sở ngồi cơng lập với 2 cơ chế là dân lập và tư nhân. Quyền sở

hữu đối với các cơ sở ngồi cơng lập được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Mỗi cơ sở ngồi cơng lập đều có thể hoạt động theo cơ chế lợi nhuận hoặc phi lợi
nhuận. Theo cơ chế phi lợi nhuận thì ngồi phần được dùng để bảo đảm lợi ích cho
13


các nhà đầu tư thì cịn phải thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước,
trợ giúp người nghèo, lợi nhuận chủ yếu được dùng để đầu tư phát triển. Theo cơ
chế lợi nhuận thì lợi nhuận có thể được chia cho các cá nhân và phải chịu thuế.
Tiến hành chuyển một số cơ sở thuộc loại hình cơng lập sang loại hình ngồi
cơng lập để tập thể hoặc cá nhân quản lý và hoàn trả vốn lại cho Nhà nước.
Khuyến khích đầu tư trong và ngồi nước bằng nhiều hình thức phù hợp với
quy hoạch phát triển, yêu cầu và đặc điểm của từng lĩnh vực
Nhà nước tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện luật pháp;
phát huy vai trị của các đồn thể, tổ chức quần chúng, đặc biệt là các hội nghề
nghiệp trong việc giám sát các hoạt động dịch vụ.
Nhà nước tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, phát triển, bình đẳng dựa trên
cơ sở luật pháp để thúc đẩy phát triển cả về quy mô và chất lượng của các cơ sở
cơng lập và ngồi cơng lập. Xây dựng cơ sở đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và
trên thế giới.
Chương 3 Thực trạng và giải pháp thực hiện xã hội hóa giáo dục và đào tạo ở
Việt Nam hiện nay.
3.1 Thực trạng xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
3.1.1 Vai trị quản lí quản lí của nhà nước về xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
Xã hội hóa giáo dục và đào tạo có vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự phát
triển của nền giáo dục nước ta, tuy nhiên, để phát huy được hết hiệu quả của quá
trình xã hội hóa giáo dục thì phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: con người, nguồn
lực… và đặc biệt vai trò của Nhà nước đối với xu thế này là vô cùng quan trọng.
Làm rõ được câu hỏi “Nhà nước được làm gì, phải làm gì và khơng được làm gì?”.
Trong xu thế xã hội hóa giáo dục và đào tạo thì chúng ta sẽ giảm nhiều chính sách

giáo dục đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản và phổ quát trong giáo dục.
Xã hội hóa khơng có nghĩa là Nhà nước bị loại mất vai trị quản lý của mình,
ngược lại vai trò quản lý nhà nước (QLNN) cần tăng lên khi thiết lập lại vai trò và
trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công. Sự thiếu vắng vai trị
QLNN và bỏ mặc theo kiểu “khốn trắng” có thể dẫn đến sự mất ổn định trong
cung ứng dịch vụ cơng và làm cho q trình xã hội hóa thiếu tính bền vững, tạo ra
sự bất bình đẳng trong xã hội. Đặc biệt, trong những lĩnh vực trước đây Nhà nước
nắm độc quyền hoặc những dịch vụ do “cầu” vượt quá “cung” (như lĩnh vực giáo
14


dục) dẫn đến sự độc quyền tự nhiên trong cung ứng dịch vụ thì vai trị QLNN là
vừa bảo đảm các mục tiêu phát triển xã hội trên cơ sở huy động nguồn lực lại vừa
phải bảo đảm quá trình xã hội hóa diễn ra theo quy luật của thị trường.
Vai trò được xem là hợp lý và phù hợp hơn của Nhà nước cần được nhận thức
rõ hơn, đó là:
Thứ nhất, Nhà nước sẽ thực hiện vai trò giám sát, quản lý các cơ sở giáo dục và
tách biệt với việc thực hiện chính sách giáo dục. Nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước
là tạo ra mơi trường chính sách, định ra quy tắc tự chủ; bảo đảm trách nhiệm xã hội
của các trường đi vào cuộc sống, duy trì trật tự hoạt động cung cấp dịch vụ giáo
dục và hạn chế sự vụ lợi quá mức làm xao nhãng lợi ích dài hạn của giáo dục.
Nhà nước cần nhận thức vai trị ban hành chính sách giáo dục phải được tách
khỏi việc thực hiện chính sách giáo dục. Việc tách biệt này nhằm hạn chế ít nhất ba
nguy cơ. Một là, sự liên minh lợi ích có tính vụ lợi cá nhân giữa các nhà hoạch
định chính sách và các nhà thực thi hay cung cấp dịch vụ giáo dục. Hai là, sự
khơng có cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ giáo dục. Ba là, làm bộ máy QLNN
cồng kềnh hơn yêu cầu cần thiết. Do đó, để khắc phục tình trạng này, Nhà nước
cần có cơ chế bảo đảm sự tham gia của nhiều bên có liên quan vào hoạch định
chính sách một cách thực chất.
Thứ hai, khuyến khích sự tham gia và phối hợp của các cơ sở giáo dục trong

quản lý giáo dục. Mặc dù, Chính phủ thống nhất QLNN về giáo dục giữ vai trò chủ
đạo trong bảo đảm sự phát triển lành mạnh của hệ thống giáo dục nhưng không
nhất thiết phải trực tiếp và tự mình thực hiện tất cả mọi cơng việc quản lý. Quan
niệm về quản lý chia sẻ, phối hợp hay hợp tác phù hợp cần được xác lập để bảo
đảm có sự tham gia ý kiến của giới chun mơn, những người có năng lực tốt nhất,
trước khi các quyết định hay chính sách được đưa ra cũng như giảm bớt gánh nặng
tác nghiệp của cơ quan nhà nước. Điều này đòi hỏi trao cho các tổ chức xã hội, các
cơ sở đào tạo hay các nhà ủng hộ nhà trường một vai trò nhất định trong việc định
hình chính sách và quyết định quản lý giáo dục.
Thứ ba, bảo đảm trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục đi vào cuộc sống.
Vai Nhà nước không chỉ bó hẹp ở việc bảo đảm dịch vụ giáo dục được cung cấp
mà còn mở rộng bảo đảm cho hàng hóa cơng đặc biệt này được cung cấp một cách
trung thực và có chất lượng, khơng chỉ buộc các trường phải chịu trách nhiệm mà
còn phải thúc ép các trường thực hiện trách nhiệm giải trình với các bên liên quan
khác.

15


Nhà nước cần hồn thiện thể chế và chính sách về trách nhiệm của các bên liên
quan, nhất là của Nhà nước và của nhà trường. Đặc biệt là bảo đảm chính sách
bình đẳng giữa các loại hình trường, kể cả các trường “ngoại nhập”. Cần tập trung
rà soát, ban hành quy định và thủ tục cấp phép thành lập trường và mở ngành, cần
quy định việc kiểm tra thực tế bắt buộc.
Thứ tư, bảo đảm phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong giáo
dục. Vai trò định hướng và phối hợp thị trường của Nhà nước được thực hiện qua
các hoạt động như thiết kế thị trường (gần như thị trường), định ra nguyên tắc và
bảo vệ trật tự thị trường; làm trung gian giải quyết các xung đột nhằm bảo đảm sự
công bằng và hiệu quả cạnh tranh giữa các nhóm lợi ích liên quan tới hoạt động
cung cấp và sử dụng giáo dục; điều tiết, bảo đảm sự lành mạnh của thị trường, điều

chỉnh sự cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục; hoạch định phát triển
dài hạn và hạn chế hành vi thiển cận của thị trường.
Thứ năm, vai trò kiểm sốt và giám sát nhà nước về tài chính. Trước hết, các
hoạt động kiểm soát và giám sát về tài chính của Nhà nước cần được phân định
giữa chức năng quản lý vĩ mô và chức năng của Nhà nước trong vai trò chủ sở hữu,
với chức năng của tổ chức trường đại học. Từng cấp độ kiểm soát có yêu cầu và
mục tiêu riêng nên cần được quy định rõ ràng để tránh chồng chéo và trùng lắp
trong kiểm tra và giám sát. Bên cạnh đó, để thuận lợi cho việc kiểm sốt và giám
sát tài chính, Nhà nước cần đặt trường học trong vị trí pháp lý mà có thể kiểm sốt
được các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí của nó.
3.1.2 Thành tựu
Về chương trình,
Thứ nhất, Từ Luật giáo dục năm 2005 xác định nguyên tắc, “Chương trình giáo
dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính
hợp lý và kế thừa giữa các cấp học và trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho sự phân
luồng, liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức
giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục
toàn diện; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”.
Quy định này đã tiếp tục được ghi nhận, mở rộng trong Luật giáo dục năm 2019
với nội dung,“Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế
thừa, liên thơng giữa các cấp học, trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho phân luồng,
chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ
thống giáo dục quốc dân để địa phương và cơ sở giáo dục chủ động triển khai kế
16


hoạch giáo dục phù hợp; đáp ứng mục tiêu bình đẳng giới, yêu cầu hội nhập quốc
tế. Chương trình giáo dục là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục tồn diện”.
Với tính chất này, chương trình giáo dục là thống nhất chung mà khơng có sự
phân biệt, phân chia giữa các trường cơng lập và ngồi cơng lập. Tuy nhiên, với

đòi hỏi của thực tế khi phải cạnh tranh nên các trường ngồi cơng lập đã “sáng tạo”
trong việc thực hiện chương trình với nhiều mơ hình học tập mới, phản ánh tính
năng động về cách tư duy, cách đánh giá tình huống vấn đề phức tạp trong cuộc
sống của xã hội. Các hoạt động này, ít nhiều đã hình thành phẩm chất, năng lực
giải quyết vấn đề phù hợp với thực tiễn, đem lại kết quả thực sự cho cuộc sống,
làm cho các phương pháp giáo dục truyền thống đang chịu nhiều thách thức, áp lực
cạnh tranh đối với cả người dạy và cả người học. Điều này đã tạo ra những lợi ích
xã hội nhất định khi mà đối tượng thụ hưởng đó chính là người học. Một số cơ sở
ngồi cơng lập khi đi vào hoạt động đã xác lập ngay một số giá trị cốt lõi như nhân
cách, trí tuệ, cảm xúc, đam mê, năng lượng… làm cơ sở xây dựng chương trình và
phương pháp giảng dạy phù hợp.
Qua việc thực hiện xã hội hóa giáo dục chúng ta đã đạt được những thành tựu
về đa dạng hóa các loại hình đào tạo, quy mơ đào tạo, đa dạng hóa hệ thống trường
lớp từ nhà trẻ, mẫu giáo đến phổ thông, đại học, trên đại học trong phạm vi cả
nước. Thường xuyên tiến hành đổi mới nội dung khung chương trình đào tạo,
phương pháp và điều kiện đào tạo phù hợp hơn với xu thế hội nhập quốc tế.
Ví dụ: Đó là mục tiêu Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đề xuất tại dự thảo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo
dục nghề nghiệp thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo dự thảo, mục tiêu giai đoạn 2021-2025 là hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo
dục nghề nghiệp theo hướng tinh gọn, hiệu quả thông qua việc sắp xếp lại các cơ
sở giáo dục nghề nghiệp cơng lập hiện có và đẩy mạnh phát triển các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp ngồi cơng lập. Hình thành mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp
theo hướng mở, linh hoạt, đa dạng về loại hình, hình thức tổ chức, phân bố một
cách phù hợp và hiệu quả nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường lao động
địa phương, vùng, đất nước và từng bước tham gia sâu rộng vào cung cấp nguồn
nhân lực cho thị trường quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam có đơng đảo đội ngũ cán bộ có trình độ cao, chính điều đó
đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.


17


Thứ ba, Nội dung chương trình giáo dục từng bước hồn thiện, phù hợp với
chương trình đào tạo thế giới, kết hợp tốt mối quan hệ sản xuất, kinh doanh, đào
tạo và nghiên cứu khoa học.
Luật giáo dục năm 2019 với nội dung,“Chương trình giáo dục phải bảo đảm
tính khoa học và thực tiễn; kế thừa, liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo;
tạo điều kiện cho phân luồng, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo
và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân để địa phương và cơ sở
giáo dục chủ động triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp; đáp ứng mục tiêu bình
đẳng giới, yêu cầu hội nhập quốc tế. Chương trình giáo dục là cơ sở bảo đảm chất
lượng giáo dục tồn diện”.Với tính chất này, chương trình giáo dục là thống nhất
chung mà khơng có sự phân biệt, phân chia giữa các trường công lập và ngồi cơng
lập. Tuy nhiên, với địi hỏi của thực tế khi phải cạnh tranh nên các trường ngồi
cơng lập đã “sáng tạo” trong việc thực hiện chương trình với nhiều mơ hình học
tập mới, phản ánh tính năng động về cách tư duy, cách đánh giá tình huống vấn đề
phức tạp trong cuộc sống của xã hội. Các hoạt động này, ít nhiều đã hình thành
phẩm chất, năng lực giải quyết vấn đề phù hợp với thực tiễn, đem lại kết quả thực
sự cho cuộc sống, làm cho các phương pháp giáo dục truyền thống đang chịu nhiều
thách thức, áp lực cạnh tranh đối với cả người dạy và cả người học. Điều này đã
tạo ra những lợi ích xã hội nhất định khi mà đối tượng thụ hưởng đó chính là người
học. Một số cơ sở ngồi cơng lập khi đi vào hoạt động đã xác lập ngay một số giá
trị cốt lõi như nhân cách, trí tuệ, cảm xúc, đam mê, năng lượng… làm cơ sở xây
dựng chương trình và phương pháp giảng dạy phù hợp.
Thứ tư, Trong những năm qua nước ta đã từng bước đa dạng hóa loại trường
đào tạo kết hợp giữa truyền thống, hiện đại tạo ra một hệ thống Giáo dục và Đào
tạo mở rộng, thuận tiện cả về mặt không gian thời gian, bước đầu hình thành nên
một cơ chế mềm dẻo liên thơng, chun cấp, chun ngành, tích lũy tín chỉ. Đa
dạng hóa về tính chất, chương trình chất lượng và phương thức quản lý cả về

nguồn kinh phí đào tạo theo xu hướng đẩy nhanh hội nhập quốc tế.
Ví dụ: Mơ hình Đại học liên kết quốc tế là mơ hình giáo dục mở ra cơ hội hội
nhập quốc tế cho sinh viên Chương trình đào tạo và giáo trình của nước
ngoài, giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh,… Và cịn vơ số lợi ích mà bạn sẽ
được nhận khi theo học Đại học liên kết: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
liên kết với trường Đại học Middlesex(Anh) với các ngành quảng cáo, quan
hệ công chúng và truyền thông, Học viện Ngân hàng liên kết với trường Đại
học Seatle(Hoa Kỳ) với chuyên ngành Quản trị kinh doanh chuyên ngành tài
chính…

18


Liên kết đào tạo khơng phải là một hình thức mới trong ngành giáo dục.
Nó đang ngày càng phát triển do nhu cầu học tập của các cá nhân đang ngày
càng cao. Khơng chỉ có liên kết đào tạo các ngành nghề hấp dẫn như tài
chính, kế tốn, ngoại ngữ, mà còn mở rộng cho khối kỹ thuật.
Liên kết đào tạo với nước ngồi là một hình thức tiên tiến đang được đang
nhiều trường áp dụng. Hình thức liên kết giáo dục này áp dụng cho hệ giáo
dục đại học và cả hệ giáo dục sau đại học.
Về nguồn lực:
Thứ nhất, Các trường ngồi cơng lập chất lượng cao được tư nhân đầu tư mạnh
mẽ khang tranh về cơ sở vật chất, hiện đại về chương trình và hứa hẹn sẽ tiếp tục
phát triển mạnh trong các năm tới bởi các tập đồn kinh tế tư nhân.
Ví dụ: VinUni là trường Đại học bắt đầu hoạt động theo mơ hình đại học tinh
hoa. VinUni được đầu tư cơ sở vật chất ngang tầm với các đại học đẳng cấp trên
thế giới. Hoạt động theo mơ hình đại học tinh hoa và tư thục phi lợi nhuận, VinUni
được đầu tư 6.500 tỷ đồng từ Tập đồn Vingroup, trong đó 3.500 tỷ đồng chi đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất và 3.000 tỷ đồng dành để cấp học bổng tài năng, hỗ trợ
tài chính cho sinh viên

Thư viện kỹ thuật số rộng 4.000m2 với nguồn tài liệu khổng lồ, hoạt động 24/7.
Ký túc xá có diện tích lớn theo mơ hình: Cùng học, cùng sống, cùng làm việc; với
đầy đủ căng tin, phòng y tế, khu tự học, các cửa hàng tiện ích và khơng gian thư
giãn sau giờ học. Lãnh đạo VinUni đặt mục tiêu lọt vào tốp 50 trường đại học trẻ
hàng đầu thế giới với sự hợp tác chặt chẽ với hai trường đại học tinh hoa hàng đầu
thế giới là Đại học Cornell và Đại học Pennsylvania.
Cơ chế tuyển sinh, đào tạo và đánh giá sinh viên của VinUni tn thủ theo mơ
hình đại học tinh hoa trên thế giới, với các chuẩn mực cao của quốc tế. Sinh viên
VinUni sẽ học tập theo các chương trình tiên tiến nhất, dựa trên các nền tảng chuẩn
mực quốc tế tốt nhất, có điều chỉnh để phù hợp với môi trường Việt Nam
Thứ hai,Quan điểm, “các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật làm cho vai trò của kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày
càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn. Tỷ trọng trong GDP của khu
vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể ln duy trì ổn định trong khoảng
40%. Bước đầu đã hình thành được một số tập đồn kinh tế tư nhân có quy mơ lớn,
19


hoạt động đa ngành như Tập đoàn Vingroup, Trường Hải, FLC … có khả năng
cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế. Mức độ đóng góp vào
tổng sản phẩm trong nước của kinh tế tư nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng liên
tục trong những năm qua
Thứ ba,Với những quan điểm về xã hội hoá giáo dục đã và đang triển khai
trong hơn hai thập niên qua, mơ hình giáo dục ngồi cơng lập gia tăng về số lượng
điều đó cho thấy giáo dục ngồi cơng lập đã có sự phát triển và cả sự “chấp
nhận” của xã hội đặc biệt là ở các thành phố lớn của Việt Nam.
Ví dụ, những năm đầu thập kỷ 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có số ít
trường phổ thơng dân lập với chưa tới 1.000 học sinh, sau đó, chưa đầy 10 năm đã

tăng lên 130 trường với gần 30.000 học sinh cho cả 4 cấp: mầm non, tiểu học,
trung học cơ sở và trung học phổ thơng, đến năm học 2018-2019 có 932 trường
mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông dân lập với 280.118
học sinh, tăng gần 10 lần so với 10 năm trước. Theo thống kê của Sở giáo dục
thành phố Hồ Chí Minh, số lượng trường cơng lập và ngồi cơng lập của Thành
phố tương đương nhau (110 và 113 trường)đây là tỷ lệ cao hơn so với mặt bằng
chung của cả nước.
3.1.3 Hạn chế.
Về điều kiện thành lập:
Quan điểm xếp giáo dục là ngành nghề kinh doanh có điều kiện là hồn tồn
hợp lý bởi tính chất và đặc thù của lĩnh vực này. Thành lập cơ sở giáo dục của nhà
đầu tư ngồi cơng lập là tiền đề để hoạt động của một nhà trường.
Tuy nhiên, hồ sơ thủ tục trong cấp phép thành lập trường được xem là hành
trình đầy “nan giải” của nhà đầu tư. Thủ tục hành chính về cấp phép thành lập đã
được quy định trong Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Giáo dục nhưng về bản
chất các quy định vẫn ở dạng “luật khung”; vì thế, để thực thi được thì địa phương
đã ban hành những quy định riêng. Những quy định riêng đó đã làm cho bức tranh
về thủ tục được cấp phép thành lập trường ngoài công lập không thống nhất giữa
các địa phương. Điều này đã làm tăng phát sinh chi phí tuân thủ, gia tăng rào cản
gia nhập thị trường giáo dục/ kinh doanh giáo dục của nhà đầu tư. Đâu đó đã có
hiện tượng nhà đầu tư nản lịng, thậm chí rút lui khỏi thị trường bởi hàng rào thủ
tục hành chính nhiêu khê, rườm rà, phức tạp.
Về học phí:

20



×