Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận quản lý xã hội về giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.94 KB, 24 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC.................................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU...........................................................................................................2
NỘI DUNG...............................................................................................................4
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO................4
1. Khái niệm giáo dục và đào tạo......................................................................4
2. Vị trí của chính sách giáo dục đào tạo...........................................................7
3. Nội dung của chính sách giáo dục và đào tạo.............................................10
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG ĐỜI SỐNG XÃ
HỘI......................................................................................................................13
1. Vai trị của chính sách giáo dục và đào tạo.................................................13
2. Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển..................................14
3. Vai trò của giáo dục đào tạo trong thời đại 4.0...........................................16
4. Vai trò của giáo dục đào tạo đối với xã hội Việt Nam trong bối cảnh hiện
nay...................................................................................................................18
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI, NÂNG CAO GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY....................................................................................................................21
KẾT LUẬN.............................................................................................................24

1


LỜI NÓI ĐẦU
Ngay từ thời cổ đại, giáo dục, đào tạo ln được đặt ở vị trí quan trọng. Đặc biệt,
trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức như hiện nay, khi nguồn lực con người
đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm, hàng đầu của sự phát triển thì giáo dục, đào
tạo ngày càng trở thành vấn đề thời sự được bàn đến trên các diễn đàn nghị sự ở
Việt Nam.
Từ lâu, song hành với quá trình phát triển, đi lên của đất nước, Đảng, Nhà nước,


Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm, xác định rõ tầm quan trọng của việc giáo dục
và đào tạo. Theo đó, với quan điểm khơng có sự đầu tư nào mang lại nhiều lợi ích
như đầu tư cho giáo dục và đào tạo, bởi đây là lĩnh vực, nền tảng góp phần hình
thành, tạo nên nhân cách chuẩn mực cho mỗi cơng dân, đào tạo nên những người
lao động có trình độ nghề, năng động, sáng tạo, là tiền đề cho sự phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước.
Ngày nay, trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng, Nhà nước,
Chính phủ Việt Nam cịn xác định giáo dục và đào tạo như một lợi thế, nhân tố,
chìa khóa, động lực mới cho việc thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển.
Đánh giá về tầm quan trọng không thể thiếu này, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về "Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hội nhập quốc tế" nhấn
mạnh: "Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu
học tập của nhân dân".

2


Giáo dục và đào tạo tạo ra nền kinh tế tri thức phát triển xã hội, trên quan điểm đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của Đảng, đây được xem là một chiến
lược, chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển, đưa đất nước đi lên
giàu mạnh. Cũng nhờ việc xác định cụ thể đó, giáo dục và đào tạo góp phần nâng
cao dân trí cho người dân, phát huy được hiệu quả, nguồn lực con người, và chính
điều này mới tạo nên những giá trị, động lực, yêu cầu khách quan của sự phát triển
kinh tế - xã hội (KT-XH), cốt lõi là nền kinh tế tri thức - hạt nhân có ý nghĩa sống
cịn trong xu thế tồn cầu, phát triển hội nhập quốc tế hiện nay.
Nói cách khác, muốn làm tốt việc nâng cao hiệu quả chất lượng nguồn nhân lực, tri
thức con người, chỉ có một con đường duy nhất không chỉ ở Việt Nam mà các

quốc gia khác cùng lựa chọn, chính là thơng qua việc đầu tư, nâng cao phát triển
mạnh mẽ chất lượng cho việc giáo dục và đào tạo.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1. Khái niệm giáo dục và đào tạo
Theo Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng thì: “Giáo dục đào tạo là hoạt
động tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người để họ
dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”.
Theo Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Khoa học xã hội: “Giáo dục đào tạo là
hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất
của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất
và năng lực như yêu cầu đề ra”.
Theo Tân Từ điển – Nhà xuất bản Khai Trí: “Giáo dục đào tạo là hoạt động dạy dỗ
để phát triển khả năng thể chất, tri thức và đạo lý” và “Đào tạo là quá trình nung
nấu, gây dựng nên”.
Theo Giáo trình Thống kê xã hội – Nhà xuất bản Thống kê: “Giáo dục đào tạo là
một ngành hoạt động xã hội nhằm nâng cao dân trí, tạo nguồn lao động có kỹ năng
thích hợp và tạo nhân tài cho đất nước”.
Qua các khái niệm trên, giáo dục đào tạo được hiểu trên các khía cạnh: Giáo dục là
một lĩnh vực quan trọng có ảnh hưởng và quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của nhân loại. Giáo dục chính là một hiện tượng xã hội, diễn ra quá trình trao
truyền tri thức, kinh nghiệm giữa con người với con người thông qua ngôn ngữ và
các hệ thống ký hiệu khác nhằm kế thừa và duy trì sự tồn tại, tiến hóa và phát triển
của nhân loại. Hoạt động giáo dục đào tạo bao gồm giáo dục mẫu giáo, giáo dục
4



phổ thông, giáo dục đại học, trên đại học và dạy nghề. Trong tất cả các hoạt động
trên trường học là nơi đảm nhận vai trò quan trọng và giáo viên là khâu chủ đạo.
Chính sách giáo dục được hiểu bao gồm các mục tiêu và các giải pháp, công cụ để
thúc đẩy quá trình trang bị và nâng cao kiến thức, hiểu biết về thế giới khách quan,
khoa học, kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động nghề nghiệp cũng như hình
thành nhân cách của con người. Theo nghĩa rộng, chính sách xã hội bao gồm chính
sách giáo dục phổ thơng và chính sách đào tạo nghề nghiệp chun mơn. Theo
nghĩa hẹp thì chỉ bao gồm chính sách giáo dục phổ thơng.
Chính sách đào tạo có ý nghĩa quyết định đến nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực quốc gia, nhất là nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật cao và nhân tài
của quốc gia. Ngày nay, nguồn nhân lực con người qua giáo dục, đào tạo trong xã
hội được coi là nguồn lực quý giá nhất, là nguồn gốc và có khả năng tạo ra nhiều
giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Trong hoạch định và thực thi chính sách giáo dục và đào tạo cần phải chú ý đến
đặc điểm là giáo dục và đào tạo diễn ra thường xuyên, liên tục và ở mọi mơi trường
hoạt động của con người trong gia đình, nơi làm việc, trong các trường lớp, trong
quan hệ xã hội, nhung trong đó, mơi trường các trường lớp có vai trò quyết định
nhất đối với giáo dục và đào tạo. Nói cách khác, chính sách giáo dục và đào tạo
phải tạo điều kiện cho mọi người có thể đến trường, đến các cơ sở giáo dục và đào
tạo.
1.1. Mục tiêu của giáo dục
Mục tiêu giáo dục là một hệ thống các chuẩn mực của một mẫu hình nhân cách cần
hình thành ở một đối tượng người được giáo dục nhất định. Đó là một hệ thống cụ

5


thể các yêu cầu xã hội trong mỗi thời đại, trong từng giai đoạn xác định đối với
nhân cách một loại đối tượng giáo dục.

Do đó, mục tiêu giáo dục phụ thuộc vào mỗi thời kỳ nhất định của quá trình phát
triển xã hội và mỗi giai đoạn của quá trình giáo dục con người.
Trải qua các giai đoạn phát triển xã hội, cách tiếp cận xác lập mục tiêu giáo dục
đang có nhiều thay đổi.
Trong một thời gian dài cho đến những năm 1940, dạy học lấy việc trang bị kiến
thức làm nhiệm vụ cơ bản. Có thể nói dung lượng và mức độ đồng hóa kiến thức là
mục tiêu của việc dạy học thời kỳ này.
Việc dạy học hướng tới mục tiêu thực sự bắt đầu vào những năm 1950 ở Hoa
Kỳ sau những kết quả nghiên cứu thuyết phục của nhóm Bloom và sau đó nhanh
chóng được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển tồn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri
thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý
thức cơng dân; có lịng u nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế (Điều 2 Luật
Giáo dục).
1.2. Các thuật ngữ về giáo dục thường được sử dụng
- Giáo dục chính quy là giáo dục theo khóa học trong cơ sở giáo dục để thực
hiện một chương trình giáo dục nhất định, được thiết lập theo mục tiêu của
các cấp học, trình độ đào tạo và được cấp văn bằng của hệ thống giáo dục
quốc dân.
6


- Giáo dục thường xuyên là giáo dục để thực hiện một chương trình giáo dục
nhất định, được tổ chức linh hoạt về hình thức thực hiện chương trình, thời
gian, phương pháp, địa điểm, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người
học.
- Kiểm định chất lượng giáo dục là hoạt động đánh giá, công nhận cơ sở giáo

dục hoặc chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục do cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành.
- Phổ cập giáo dục là quá trình tổ chức hoạt động giáo dục để mọi công dân
trong độ tuổi đều được học tập và đạt đến trình độ học vấn nhất định theo
quy định của pháp luật.
- Giáo dục bắt buộc là giáo dục mà mọi công dân trong độ tuổi quy định bắt
buộc phải học tập để đạt được trình độ học vấn tối thiểu theo quy định của
pháp luật và được Nhà nước bảo đảm điều kiện để thực hiện.
- Cơ sở giáo dục là tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục trong hệ thống giáo
dục quốc dân gồm nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
2. Vị trí của chính sách giáo dục đào tạo
Giáo dục và đào tạo là quá trình trao truyền và bồi dưỡng tri thức cho cá nhân và
cộng đồng của thế hệ trước cho các thế hệ sau, để từ đó họ có thể tiếp nhận rèn
luyện, hịa nhập và phát triển trong cộng đồng xã hội. Quá trình giáo dục và đào
tạo cũng như quá trình tự giáo dục, tự đào tạo diễn ra suốt vịng đời con người
thơng qua hệ thống giáo dục trong nhà trường và hệ thống giáo dục xã hội. Mục
tiêu của nền giáo dục và đào tạo của bất cứ quốc gia nào cũng đều hướng tới phát
triển con người cả về thể lực, trí lực và tri thức tình cảm, xây dựng các thế hệ công
dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

7


Phát triển giáo dục và đào tạo chính là xây dựng nền móng văn hóa dân tộc, là cơ
sở để phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn háo dân tộc.
Giáo dục và đào tạo là cơ sở thiết yếu để đào tạo ngưồn nhân lực, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao phục vụ u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Giáo dục và đào tạo khơng chỉ là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến đào tạo
nguồn nhân lực cho nền sản xuất xã hội mà còn là trung tâm đào tạo nhân tài cho
đất nước. Hiền tài là ngun khí quốc gia, có vai trị to lớn trong xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc. Trong quá trình phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay, vai trị của
nhân tài nói riêng, của đội ngũ tri thức nói chung ngày càng chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng không chỉ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội mà cả trong lĩnh
vực an ninh quốc phịng, trong đối nội và đối ngoại.
Chính sách giáo dục của Việt Nam trong bối cảnh đầu năm 2006 phải hướng đến
mục tiêu tạo ra được những chuyển biến cơ bản để không tụt hậu so với các nước
trên Thế giới và trong khu vực.
- Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội
dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo
được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận
với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp
vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ.
- Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại của dân, do dân và vì dân, bảo đảm
cơng bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học
tập và học tập suốt đời, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
- Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương
trình, nội, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên

8


và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và
độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên.
- Mở rộng quy mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, đảm bảo tốc độ tăng
nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng. Quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn
tăng khoảng 17%/năm và trung học chuyên nghiệp tăng 15%/năm.
- Phát triển rộng khắp và nâng cao chất lượng các trung tâm giáo dục cộng
đồng.
- Tích cực triển khai các hình thức giáo dục từ xa.

- Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo, rà soát sắp xếp lại mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
- Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động, đề cao và đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của nhà trường, nhất là các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề.
- Nối tiếp những tư tưởng đó, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định đường
lối, cụ thể:
 Khoản 1 – Điều 61: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
 Khoản 2 – Điều 61: Nhà trường ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu
tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu
học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo
dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực
hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý”

9


3. Nội dung của chính sách giáo dục và đào tạo
3.1. Một số chính sách giáo dục và đào tạo
Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống các chính sách giáo dục và đào tạo
nhằm thúc đẩy sự phát triển của giáo dục và đào tạo. Cụ thể:
- Luật giáo dục 2019
- Luật giáo dục nghề nghiệp 2014
3.2. Thực trạng thực hiện chính sách giáo dục - đào tạo
3.2.1. Thành tựu
Trọng tâm giai đoạn 2016-2020, toàn ngành giáo dục đã thực hiện chín nhóm
nhiệm vụ chủ yếu và năm giải pháp căn bản. Ðối với chín nhóm nhiệm vụ chủ yếu

gồm: Rà soát, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục & đào tạo trong cả nước;
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp; công tác
phân luồng và định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông; nâng cao chất
lượng dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh ở các cấp học và trình độ đào tạo;
ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lý giáo dục; đẩy mạnh giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục đại học; hội nhập
quốc tế trong giáo dục & đào tạo; tăng cường cơ sở vật chất bảo đảm chất lượng
các hoạt động giáo dục & đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao. Năm giải pháp thực hiện gồm: Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính về giáo dục & đào tạo; nâng cao năng lực lãnh đạo của
cán bộ quản lý giáo dục các cấp; tăng cường các nguồn lực đầu tư cho giáo dục &
đào tạo; tăng cường cơng tác khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục; đẩy mạnh
công tác truyền thông về giáo dục & đào tạo.

10


Ðến nay, sau 5 năm, các lĩnh vực thuộc chín nhóm nhiệm vụ chủ yếu, năm nhóm
giải pháp cơ bản đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thực hiện mục
tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục & đào tạo theo tinh thần Nghị quyết số
29-NQ/TW. Trong đó, khung pháp lý cho đổi mới giáo dục & đào tạo được hoàn
thiện. Bộ giáo dục & đào tạo đã trình Chính phủ để trình Quốc hội thơng qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo
dục năm 2019. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại
học đã tháo gỡ những điểm nghẽn trong việc giao quyền tự chủ cho các trường đại
học; Luật Giáo dục 2019 đã làm rõ tính liên thơng, phân luồng trong giáo dục… Cả
nước duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, trong đó hồn thành phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Kết quả và chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học
được giữ vững và nâng cao. Tất cả 63 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo
dục tiểu học mức độ 2 và đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1.

Nhiều địa phương đã đạt tỷ lệ 100% học sinh học 2 buổi/ngày, tạo tiền đề thuận lợi
để chuẩn bị cho việc triển khai chương trình giáo dục phổ thơng mới.
3.2.2. Hạn chế
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ những yếu kém, bất cập
trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Cụ thể là chất lượng giáo dục - đào tạo chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn lực trình độ cao vẫn còn hạn
chế, chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội, chưa giải quyết tốt mối
quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy
người, chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, chậm đổi
mới, cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất
lượng giáo dục tồn diện giảm sút, quản lý về giáo dục cịn bất cập, xu hướng
thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả
thấp đang trở thành nỗi bức xúc của xã hôị.
11


Cơ sở vật chất, thiết bị của nhiều cơ sở dạy nghề thiếu về số lượng và lạc hậu về
chất lượng, vẫn còn khoảng 31% số phòng học và 50,7% số xưởng thực hành là
nhà tạm; chỉ khoảng 20% số trường được trang bị một số thiết bị ở mức độ cơng
nghệ khá, cịn lại mới chỉ được trang bị cho thực hành, về cơ bản chưa hình thành
được các trường dạy nghề chất lượng cao...
Phương án đổi mới, tổ chức kỳ trung học phổ thông quốc gia đã kế thừa được
những ưu điểm và kết quả đạt được, khắc phục những bất cập
Theo C.Mác và Ph.Ảngghen, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, là sự tự ý
thức, tự cảm giác của con người về thế giới xung quanh mình và về chính bản thân
họ.
Chính sách tơn giáo là một hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước tác động
vào đơng đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo nhằm phát huy truyền thống yêu nước,
gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đồn kết đồng bào tôn giáo với đồng bào không
theo tôn giáo, thúc đẩy sự phát triển tồn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa và an

ninh quốc phịng.

12


CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI
1. Vai trị của chính sách giáo dục và đào tạo
Giáo dục có vai trị to lớn trong phát triển con người, thể hiện ở một số mặt dưới
đây:
- Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan
tâm đến sự nghiệp chăm sóc và phát huy yếu tố con người. Điều đó xuất phát từ
nhận thức sâu sắc những giá trị lơn lao và ý nghĩa quyết định của yếu tố con người,
chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn
minh của quốc gia. Xây dựng và phát triển con người trí tuệ cao, cường tráng về
thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực, đồng thời là
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, giáo dục và đào tạo có vai trị quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của một quốc gia.
- Phát triển giáo dục - đào tạo sẽ nâng cao dần về mặt bằng dân trí, yếu tố thúc đẩy
sự phát triển và tiến bộ xã hội của môi trường quốc gia
- Sự phát triển của giáo dục - đào tạo sẽ tạo ra một nguồn nhân lực có đạo đức và
trí tuệ cao đáp ứng u cầu của sự phát triển, đặc biệt yêu cầu của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể nói, trong các nguồn lực để phát triển, nguồn lực có trí tuệ là nhân tố cơ
bản, quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, Vì vậy, chính sách
giáo dục có ý nghĩa đặc biệt, được coi là quốc sách hàng đầu của quốc gia.

13



2. Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển
Trong đời sống xã hội, giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trị quan trọng đối với
mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay,
giáo dục - đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát
triển ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn phát
triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về học
vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo
xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” bởi khơng có tri
thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ luôn lệ
thuộc, bất lực trước những thế lực và sức mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc,
đất nước mình.
Giáo dục góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc. Ngày nay, giáo dục và
đào tạo cịn góp phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong nền kinh tế tri thức
hiện nay, tri thức là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, đồng thời là tài sản quý giá
nhất của con người và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất
được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi
quốc gia, dân tộc từ tài nguyên, sức lao động cơ bắp là chính chuyển sang nguồn
lực con người có tri thức là cơ bản nhất.
Giáo dục và đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc bởi
giáo dục - đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao làm giàu
của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức đề
kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính q trình hội nhập quốc
tế và tồn cầu.

14


Giáo dục - đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia. Việt Nam đang tiến hành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, trình

độ lao động phổ thơng cịn thấp, ít được đào tạo nghề, vẫn cịn khoảng gần 60% lao
động nông nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Giáo dục đào tạo nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam khẳng định giáo dục - đào tạo cùng
với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là điều kiện phấn đấu để đến năm
2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Giáo dục - đào tạo bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ
chun mơn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan trọng
phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức. Kinh tế tri
thức được hiểu là kinh tế trong đó có sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là
yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất
lượng cuộc sống. Tất cả các quốc gia phát triển đều có chiến lược phát triển giáo
dục. Trong “Báo cáo giám sát toàn cầu giáo dục cho mọi người”, tổ chức
UNESCO cũng đã khuyến khích các nước phải chi tiêu ít nhất 6% GDP cho giáo
dục.
Nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển, Đảng và Nhà
nước ta khẳng đinh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc đổi mới giáo dục
trong giai đoạn hiện nay đang là mối quan tâm của các cấp, ngành, các nhà khoa
học và toàn xã hội. Chọn khoa học và giáo dục làm khâu đột phá cho phát triển.
Chọn giáo dục làm tiền đề, làm xương sống của phát triển bền vững là xác định
đúng đắn và khoa học.

15


3. Vai trò của giáo dục đào tạo trong thời đại 4.0
Như chúng ta đã biết trong thời đại hội nhập như hiện nay, khoa học cơng nghệ
bùng nổ thì càng khơng thể thiếu vai trị của người dân có trình độ cơng nghệ cao.
Theo Becker (1964), nhà kinh tế đoạt giải Nobel năm 1992, khơng có đầu tư nào
mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư vào giáo
dục.

Việc thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã thực sự đem lại những chuyển
biến về trình độc học vấn trong cộng đồng người dân, đây là một yếu tố thuận lợi
mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề cũng như giải
quyết việc làm cho người dân.
Điều đó cho chúng ta thấy khi người dân đạt được một trình độ học vấn nhất định
họ sẽ có khả năng tiếp thu thơng tin cũng như khả năng phát huy chun mơn của
mình một cách tốt nhất. Vì vậy, những người có trình độ học vấn càng cao thì cơ
hội họ tìm được một cơng việc tốt và thích hợp sẽ dễ dàng hơn so với những người
khác.
Mặt khác, một điều mà chúng ta dễ dàng nhận ra đó là việc đầu tư cho giáo dục sẽ
làm tăng năng suất cho chính bản than họ. Từ đó sẽ làm nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân (Becker, 1964).
Người dân là nhân tố sang tạo ra kỹ thuật công nghệ và trực tiếp sử dụng chúng
vào quá trình phát triển kinh tế. Do đó ta có thể nhận thấy việc nâng cao trình độ
học vấn và trang bị kiến thức chuyên môn cho người dân sẽ làm tăng năng suất và
hiệu quả cao.
Ở phạm vi vĩ mô, giáo dục làm tăng kỹ năng lao động, tăng năng suất và dẫn đến
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do vậy, giáo dục được xem như là một hoạt động đầu

16


tư làm tăng vốn nhân lực, có ích cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (Trần Nam
Bình, 2002). Chính vì thế, giáo dục được coi là quốc sách.
Nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển chỉ ra rằng ở những quốc gia mà người dân
có trình độ học vấn cao thường có trình độ phát triển cao hơn (Becker 1964,
Mincer 1974, Krueger và cộng sự 2001, Aghion và cộng sự 2009). Các học giả đều
cho rằng đào tạo là yếu tố sản xuất quan trong trong hàm sản xuất của nền kinh tế.
Sự đầu tư cho giáo dục sẽ làm tăng chất lượng lao động và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.

Phát triển giáo dục luôn là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực con
người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
“Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là
một bộ phận của các nguồn lực, có khả năng huy động, tổ chức để tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế xã hội” (Nguyễn Hữu Long, 2004).
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực, biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến
thức, kỹ năng, trình độ và nhân cách nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu hoạt động, lao
động cá nhân và sự phát triển của xã hội.
Giáo dục nâng cao chất lượng của lao động, được thể hiện qua việc tích lũy vốn,
tăng thu nhập người lao động. Giáo dục cũng là công cụ để thế hệ trước truyền lại
cho các thế hệ sau các tư tưởng và tiến bộ khoa học công nghệ. Giáo dục đào tạo
thực hiện mục đích “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” hình
thành đội ngũ có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ năng động
sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội.

17


Giáo dục gắn liền với học hành, những điều học sinh học trong nhà trường sẽ gắn
với nghề nghiệp và cuộc sống trong tương lai của họ. Giáo dục đào tạo lớp người
có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, có ý thức vươn lên về khoa
học, công nghệ, xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, đào tạo các chuyên gia,
các nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh quản lý nhằm phát huy mọi tiềm
năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước.
Sự gia tăng trình độ học vấn dẫn tới mức năng suất cao, ảnh hưởng tới tăng trưởng
kinh tế. Vì vậy các nhà chính trị và hoạch định chính sách đều cố gắng hành động
nhằm nâng cao trình độ học vấn của người dân. Các tranh luận rằng Chính phủ nên
hỗ trợ nhiều cho giáo dục vì giáo dục cần và tốt cho tăng trưởng kinh tế và phát

triển giáo dục.
4. Vai trò của giáo dục đào tạo đối với xã hội Việt Nam trong bối cảnh hiện
nay
Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, tỷ lệ lao
động cơ bắp ngày một giảm, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng, lợi thế so sánh
dựa trên số lượng lao động và giá nhân công rẻ cũng ngày một giảm và đang
chuyển dần về phía những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Do đó, chất lượng nguồn nhân lực đang trở thành yếu tố quyết định nhất đối với
phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, Đảng ta cũng nhất
quán quan điểm khẳng định: “Nguồn lực con người là quý báu, có vai trị quyết
định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất cịn
hạn hẹp”.
Tuy nhiên, để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng đòi hỏi ngày càng
cao của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta phải cần đến một hệ
thống giải pháp đồng bộ về giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất
18


lượng dân số, cải thiện môi trường sống, tạo việc làm, tổ chức khai thác lực lượng
lao động, phát triển văn hóa tạo ra động lực kích thích tính tích cực ở con người.
Không chỉ trong điều kiện hiện nay, mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin lúc đương thời đã rất coi trọng vai trò của giáo dục,ln đặt giáo dục, đào
tạo ở vị trí trung tâm trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác”, V.I. Lênin viết: “Sự thay đổi căn bản đó
là ở chỗ: trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của
chúng ta vào cuộc đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính
quyền… thì trọng tâm cơng tác của chúng ta hiện nay quả thật là xoáy vào hoạt
động giáo dục”.
Người cũng giải thích rõ tại sao giáo dục, đào tạo lại có tầm quan trọng đặc biệt
như vậy. Đó là vì cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại

cơng nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nơng nghiệp và để có được cơ sở đó,
khơng có cách nào khác là nước Nga phải tiến hành điện khí hóa tồn quốc.
Nhưng cơng việc điện khí hóa tồn quốc lại “khơng thể do những người mù chữ
mà thực hiện được, mà chỉ biết chữ thơi thì cũng khơng đủ. Cơng việc tiến hành
điện khí hóa tồn quốc chỉ có thể thực hiện trên cơ sở một nền học vấn hiện đại,
nền học vấn mà thiếu nó thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện vọng
mà thơi”.
Và để có được nền học vấn đó thì cũng chỉ có một cách duy nhất là tập trung vào
phát triển giáo dục, đào tạo. Từ những chỉ dẫn của các nhà kinh điển và yêu cầu
của thực tiễn, Đảng ta đã coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu. Bởi lẽ,
“Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam”.

19


Đồng thời, Đảng xác định ba mục tiêu mà sự nghiệp giáo dục, đào tạo phải đạt tới
là nâng cao dân trí, phát triển nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, trong đó phát triển
nhân lực là mục tiêu có ý nghĩa quan trọng và được ưu tiên hơn.
Nói đến nguồn nhân lực là nói đến tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng lao
động, thái độ và phong cách làm việc, kinh nghiệm sống, đạo đức, lý tưởng, chất
lượng văn hóa, năng lực chun mơn, tính năng động trong công việc mà bản thân
con người và xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao động sáng tạo vì sự phát
triển và tiến bộ của xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực có thể hiểu là tổng thể các hình thức, phương pháp,
chính sách và biện pháp nhằm tạo ra sự tăng trưởng về số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực; đồng thời, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng để nguồn lực này
đáp ứng ngày càng tốt hơn sự phát triển bền vững của đất nước.
Từ nội dung của phát triển nguồn nhân lực như vậy, chúng ta có thể thấy vai trị

của giáo dục, đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực thực chất là làm gia tăng về
chất lượng của nguồn nhân lực và đảm bảo cơ cấu về số lượng lao động một cách
hợp lý trong từng ngành, lĩnh vực.

20



×