TIỂU LUẬN
LÝ THUYẾT CHUNG QUẢN LÝ XÃ HỘI
ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG GIẢI PHÁP HỒN THIỆN VAI TRỊ CỦA MẶT TRẬN TỔ
QUỐC TẠI THÀNH PHỐ YÊN BÁI HIỆN NAY
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM..3
1.1. Khái niệm Mặt trận tổ quốc Việt Nam.......................................................................3
1.2. Vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.....................................................................3
1.3. Vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.....................................................................4
1.4. Các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.....................................7
1.5. Mối quan hệ giữa Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong hệ
thống chính trị..............................................................................................................................8
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM TẠI THÀNH PHỐ YÊN BÁI HIỆN NAY.................................11
2.1. Tổng quan về tình hình hoạt động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam đối với
thành phố Yên Bái hiện nay..................................................................................................11
2.2. Thực trạng vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam đối với thành phố Yên
Bái hiện nay................................................................................................................................13
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN VAI TRỊ CỦA MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TẠI THÀNH PHỐ YÊN BÁI HIỆN NAY.20
KẾT LUẬN........................................................................................................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................25
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
của nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai
trị của Mặt trận khơng phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính
lịch sử thừa nhận. Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân
giành được chính quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ
thống chính trị.
Tuy vai trị, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của từng bộ
phận cấu thành trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng đều là cơng cụ
thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung
là: Phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, dân
chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Hiến pháp năm
1992 đã xác định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân..." điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt nam là
một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta. “Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể thành viên có vai trị rất quan trọng trong
sự nghiệp đaị đồn kết tồn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...” Đó là củng
cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và
tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà
nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Xuất phát từ những quan
điểm trên em chọn “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực trạng và
những giải pháp hồn thiện vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại thành
phố Yên Bái hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
1
2. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở làm rõ nội dung về vai trò của Mặt trận Tổ quốc, nêu thực
trạng và đề ra những giải pháp hoàn thiện vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tại thành phố Yên Bái hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài
Nghiên cứu nội dung và vận dụng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc tại thành phố Yên Bái hiện nay.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại thành
phố Yên Bái hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tại thành phố Yên Bái hiện nay.
2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Khái niệm Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Tại Điều 9 Hiếp pháp quy định:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân;
tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.”
Trong đó tổ chức chính trị là loại tổ chức xã hội mà các thành viên
trong tổ chức hoạt động cùng về hướng về một khuynh hướng chính trị cụ thể.
Tổ chức chính chị là Đảng cộng sản Việt Nam
Tổ chức chính trị -xã hội gồm các Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Cơng đồn Việt Nam, Hội Nơng dân Việt Nam,
Đồn Thanh niên cộng sản Việt Nam
Tổ chức xã hội là một tập hợp gồm các cá nhân liên kết với nhau nhằm
đạt được mục đích cụ thể, khơng nhằm mục đích lợi nhuận. Gồm các tổ chức
chính trị- xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập
theo quy định pháp luật.
Người Việt Nam định cư ở nước ngồi là cơng dân Việt Nam và người
gốc Việt nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.
1.2. Vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
3
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trị là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc, mở rộng và
đa dạng hóa các hình thức tập hợp đồn kết Nhân dân; hỗ trợ nhân dân thực
hiện dân chủ, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, thực
hiện đường lỗi, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.3. Vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
- Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc: Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường
sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam phát triển đa dạng các hình thức tổ chức, hoạt động để tập hợp, đồn kết
mọi người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngồi, khơng phân biệt thành
phần giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, q khứ nhằm
động viên mọi nguồn lực góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước: Mặt
trận Tổ quốc thực hiện các hoạt động tuyên truyền, động viên nhân dân phát
huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật. Mặt trận Tổ quốc thực hiện
phối hợp với chính quyền cấp xã tổ chức vận động Nhân dân thực hiện dân
chủ ở cơ sở, hương ước, quy ước ở khu dân cư; chỉ đạo hoạt động của Ban
thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã và Ban giám sát đầu tư của cộng
đồng; tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở.
- Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân và tập
hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân để phản ánh, kiến nghị
với Đảng, Nhà nước.
Thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quyền và trách nhiệm của
mình tổng hợp ý kiến, kiến nghị của hội viên, đoàn viên và các tầng lớp Nhân
4
dân, gửi tới Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam địa phương.
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam địa phương phối hợp
cùng Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tổng hợp ý kiến, kiến
nghị của nhân dân để báo cạo tại kỳ họp Hội đồng nhân dân cùng cấp về
những vấn đề của địa phương để gửi lên Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, sau khi tổng hợp thì sẽ được gửi lên Ủy ban
thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Cuối cùng sẽ được tổng kết lại và báo cáo tại kỳ họp Quốc hội.
Bên cạnh đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn phối hợp tổ chức tiếp xúc cử tri
của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
- Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia vào công tác bầu cử thông qua
việc lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân; tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử; phối hợp với cơ quan nhà
nước hữu quan tổ chức hội nghị cử tri ở cấp xã, các cuộc tiếp xúc giữa cử tri
với người ứng cử; tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện pháp luật
về bầu cử.
Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cử đại diện tham gia
Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia, Hội đồng tuyển chọn
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng thi tuyển Kiểm sát
viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp. Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện chủ trì lựa chọn, giới thiệu người đủ
điều kiện, tiêu chuẩn để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm nhân dân theo
quy định của pháp luật.
Tham gia xây dựng pháp luật: Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội về xây
dựng luật, pháp lệnh; trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự án luật,
pháp lệnh; tham gia góp ý kiến vào dự thảo Hiến pháp, dự án luật, pháp lệnh
và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác; kiến nghị với cơ quan nhà nước
5
có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản pháp luật trái Hiến pháp và
pháp luật.
Tham dự các kỳ họp Quốc hội, phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, kỳ họp Hội đồng nhân dân, phiên họp Ủy ban nhân dân
Tham gia phịng, chống tham nhũng, lãng phí
Tham gia góp ý, kiến nghị với Nhà nước.
- Thực hiện giám sát và phản biện xã hội: Giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp
hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi,
xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu
dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp
luật. Nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc thực hiện
chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của Nhân dân, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Việc
giám sát nhằm kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm;
kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những
nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có thể thơng qua các hình thức giám sát khác
nhau như nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền, tổ chức
đồn giám sát; tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
(Chương V Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).
Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị
đối với dự thảo văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án,
đề án của cơ quan nhà nước. Nội dung phản biện xã hội bao gồm sự cần thiết;
sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; tính đúng đắn, khoa học, khả thi; đánh giá tác động, hiệu quả về
6
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại của dự thảo
văn bản; bảo đảm hài hịa lợi ích của Nhà nước, Nhân dân, tổ chức. (Điều 32,
Điều 33 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).
1.4. Các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm các thành viên:
Đảng Cộng sản Việt Nam; Tổng liên đồn Lao động Việt Nam; Hội
Nơng dân Việt Nam; Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Hội liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam; Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Quân đội Nhân dân Việt
Nam;
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam; Hiệp hội các hội văn
học – nghệ thuật Việt Nam; Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam; Hội
liên hiệp Thanh niên Việt Nam; Liên minh Hợp tác xã Việt Nam; Phịng
Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam
Hội Chữ thập đỏ Việt Nam; Hội Luật gia Việt Nam; Hội Nhà báo Việt
Nam; Hội Phật giáo Việt Nam; Uỷ ban Đồn kết cơng giáo Việt Nam; Hội
Làm vườn Việt Nam; Hội Người mù Việt Nam; Hội Sinh vật cảnh Việt Nam;
Hội Đông y Việt Nam; Tổng hội Y dược học Việt Nam; Hội người Cao tuổi
Việt Nam; Hội Kế hoạch hố gia đình Việt Nam; Hội Khuyến học Việt Nam;
Hội Bảo trợ tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam; Hội Châm cứu Việt Nam; Tổng
hội Thánh tin lành Việt Nam; Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài;
Hội Khoa học lịch sử Việt Nam; Hội Nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt
Nam; Hội Mỹ nghệ – Kim hoàn – Đá quý Việt Nam; Hội Cựu giáo chức
Việt Nam; Hội Xuất bản – in – phát hành sách Việt Nam; Hội Nghề cá Việt
Nam;
Hiệp hội Sản xuất kinh doanh của người tàn tật Việt Nam; Hội Cứu trợ
trẻ em tàn tật Việt Nam; Hội Y tế Công cộng Việt Nam; Hội Cựu thanh niên
xung phong Việt Nam; Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng ngồi cơng lập
Việt Nam; Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam; Hội Doanh nghiệp
nhỏ và vừa Việt – Đức; Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.
7
1.5. Mối quan hệ giữa Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong
hệ thống chính trị
- Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận có một đặc điểm đáng chú ý:
Đảng vừa là thànhviên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Là thành viên, Đảng
tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi thành viên khác. Đại
diện cấp uỷ Đảng tham gia uỷ ban Mặt trận có trách nhiệm sinh hoạt đầy đủ
thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành động. Cấp uỷ
Đảng phải giáo dục đảng viên gương mẫu thực hiện chương trình hành động
chung đã được các tổ chức thành viên thoả thuậnvà tích cực tham gia cơng
tácMặt trận tại khu dân cư.
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, Đảng thực hiện vai
trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp
ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi íh chính đáng của các tầng lớp nhân dân:
Đảng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm
tra và bằng sự gương mẫu của Đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập
Mặt trận đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác
thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo Mặt trận thơng qua Đảng đồn Mặt trận thơng qua Đảng
đồn các tổ chức thành viên của Mặt trận và thông qua đại diện của cấp uỷ
Đảng tham gia Uỷ ban Mặt trận cùng cấp. Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ và
giới thiệu những Đảng viên có phẩm chất, có tín nhiệm trong các tầng lớp
nhân dân, có năng lực làm cơng tác Mặt trận, để Mặt trận chọn cử theo đúng
điều lệ. Đảng lãnh đạo sự phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành
viên, sự phối hợp giữa Mặt trận với chính quyền. Đảng tơn trọng tính độc lập
về tổ chức và hoạt động sáng tạo của Mặt trận; Đảng lắng nghe ý kiến đóng
góp của Mặt trận đối với sự lãnh đạo của Đảng và đối với cán bộ Đảng viên.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là vấn đề có tính ngun tắc, đảm bảo
cho Mặt trận khơng ngừng được củng cố và mở rộng. Mặt trận có nhiệm vụ
8
truyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động viên các tầng
lớp nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước. Mặt trận có trách nhiệm tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chính
sách của Đảng và Nhà nước, trong việc xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vì mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước là yếu tố cực kỳ quan trọng bảo đảm sự vững mạnh của
chế độ.
- Mối quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền:
Quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền là quan hệ hợp tác bình đẳng,
tơn trọng lẫn nhau, phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Quyền hạn của
Mặt trận đã được Hiến pháp và pháp luật qui định Mặt trận hoạt động theo
pháp luật và qui chế làm việc đã được thoả thuận giữa Mặt trận và chính
quyền.
Mặt trận tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ Nhà nước như: vận
động các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, bầu ra cơ quan dân cử,
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ viên chức
Nhà nước; tham gia xây dựng pháp luật và chính sách; đóng góp ý kiến với cơ
quan Nhà nước các cấp, vận động nhân dân xây dựng các qui ước, qui chế
trên địa bàn cư trú về các vấn dề liên quan đến đời sống nghĩa vụ và lợi ích
của cơng dân phù hợp với pháp luật. Mặt trận tham gia tuyên truyền, phổ biến
pháp luật trong nhân dân, đấu tranh chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham
nhũng, gây phiền hà cho dân, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của dân.
Nhà nước dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể để phát huy quyền
làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo mọi điều kiện
để nhân dân trực tiếp hoặc thơng qua đồn thể của mình tham gia xây dựng,
quản lý và bảo vệ Nhà nước. Đó cũng là sức mạnh của bản thân Nhà nước.
Trong quá trình ra các quyết định về quản lý và điều hành, Nhà nước
các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà
nước căn cứ qui chế tổ chức và cơ chế hoạt động để giải quyết tốt mối quan
9
hệ giữa Nhà nước với Mặt trận. Nhà nước cần tiếp tục thể chế hoá quyền hạn
và trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã
hội và xây dựng cuộc sống tự quản của dân.
Nhà nước phối hợp với Mặt trận trong việc chăm lo lợi ích chính đánh
của nhân dân, trong việc vận động các tầng lớp nhân dânđẩy mạnh phong trào
hành động thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế xã hội.
Một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy Nhà nước
hiện nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. để Mặt trận làm trịn trách nhiệm là cơ sở
chính trịcủa chính quyền nhân dân, sự phối hợp giữa Mặt trận với Nhà nước
phải như nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: " Thực hiện thành
nền nếp iệc đảng và Nhà nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến của Mặt trận
về những quyết định chủ trương lớn" ngày một chặt chẽ và cụ thể hơn.
10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM TẠI THÀNH PHỐ YÊN BÁI HIỆN NAY
2.1. Tổng quan về tình hình hoạt động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
đối với thành phố Yên Bái hiện nay
Công tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
cả hệ thống chính trị và tồn xã hội, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng,
quản lý điều hành trực tiếp của chính quyền, trong đó Cơng an nhân dân làm
nồng cốt, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội với vai
trị tham mưu đề xuất với cấp ủy, phối hợp với chính quyền và các ngành có
liên quan trong cơng tác tun truyền, vận động, nhằm tạo sự đồng thuận xã
hội, góp phần nâng cao ý thức cảnh giác trong nhân dân, tạo tiền đề tích cực
vào việc ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người
dân, khẳng định lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
chính quyền và vai trị giám sát, theo dõi của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và
các đồn thể chính trị - xã hội trong phong trào tồn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc gắn với cơng tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội.
Trên cơ sở các kế hoạch của Ban chỉ đạo 138 tỉnh năm 2020 về việc thực
hiện cơng tác phịng, chống tội phạm; phòng, chống mua bán người; phòng,
chống ma túy, mại dâm, HIV/AIDS và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc. Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh xây dựng Kế
hoạch số 165, 166, 167, 168 ngày 08/4/2019 về việc phối hợp các ngành chức
năng, các tổ chức thành viên để triển khai thực hiện các mặt công tác nêu trên
của Ban chỉ đạo 138 tỉnh và lồng ghép tuyên truyền kế hoạch số 156/KHMTTQ ngày 06/3/2019 hướng dẫn Mặt trận các cấp phối hợp triển khai thực
hiện Đề án “Vận động toàn dân tham gia phịng ngừa, phát hiện, tố giác tội
phạm; cảm hóa, giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng
dân cư”, do Mặt trận tổ quốc Việt Nam chủ trì phối hợp thực hiện… Mặt trận
11
tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh đã tổ chức triển khai rộng rãi trong hệ
thống Mặt trận từ tỉnh đến khu dân cư, được 578 cuộc, có 17.350 lượt người
tham dự; Bên cạnh đó, Mặt trận tổ quốc Việt Nam cơ sở phối hợp với các
ngành chức năng tổ chức cảm hóa giáo dục trước cộng đồng 97 đối tượng gây
rối trật tự công cộng giúp họ trở thành người tốt, sống hòa nhập cộng đồng
dân cư. Bên cạnh đó, để tăng cường và thực hiện hiệu quả phong trào bảo vệ
an ninh tỉnh. Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt nam tỉnh và các tổ chức thành viên
phối hợp với lực lượng Công an các cấp vận động nhân dân xây dựng và duy
trì nhiều mơ hình tự quản ở khu dân như: “Tổ tự quản dòng tộc về an ninh trật
tự trong đồng bào Khmer”; “Cổng an ninh trật tự”; “Tổ tự quản về an ninh
trật tự trong phật tử” … Các mơ hình đã được đơng đảo quần chúng tham gia,
nhiều mơ hình đã đi vào cuộc sống và trở thành những quy ước trong cơng tác
giữ gìn an ninh trật tự tại cộng đồng dân cư, hiện nay phong trào vẫn tiếp tục
phát triển sâu rộng trong nhân dân và đi vào nề nếp.
Để thực hiện cơng tác phịng, chống tội phạm và phong trào tồn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới gắn với Cuộc vận động “Tồn dân
đồn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” trong thời gian tới đạt
hiệu quả có sự chuyển biến tích cực trong quần chúng nhân dân. Mặt trận Tổ
quốc các cấp trong tỉnh tăng cường phối hợp với các ngành chức năng và tổ
chức thành viên đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và chấp
hành pháp luật trong các tầng lớp nhân dân; vận động nhân dân nêu cao cảnh
giác không nghe, không làm theo các âm mưu phá hoại của các thế lực thù
địch nhằm chống phá cách mạng. Thực hiện có hiệu quả Đề án 01-138 về
“Phát động tồn dân tham gia phịng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm; cảm
hoá, giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư” gắn
với cuộc vận động "Tồn dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn
minh"; Triển khai phong trào tồn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng,
chống tội phạm, tệ nạn xã hội… lồng ghép với chương trình mục tiêu phát
triển kinh tê – xã hội của địa phương, nhằm nâng cao đời sống , giải quyết
12
việc làm, thực hiện công tác giảm nghèo bền vững, góp phần hạn chế và loại
dần nguyên nhân về điều kiện phát sinh tội phạm, nhất là cần quan tâm quản
lý, giúp đỡ, hỗ trợ tạo việc làm cho những đối tượng hồn lương tái hịa nhập
cộng đồng; vận động xã hội hóa hỗ trợ củng cố, nhân rộng, nâng cao chất
lượng các mơ hình tự quản ở khu dân cư trong thời gian qua đem lại kết quả,
nhất là những nơi có địa bàn trọng điểm, phức tạp về trật tự, an tồn xã hội
cần được chuyển hóa trong năm 2020; Phát huy vai trò người tiêu biểu, uy tín
trong cộng đồng dân cư, trong đồng bào dân tộc, các vị chức sắc, chức việc
trong các tôn giáo, thông qua đó để tun truyền, vận động họ hàng, dịng tộc,
bà con giáo dân, đồng bào phật tử, đồng bào dân tợc ý thức, trách nhiệm hơn
trong cơng tác phịng, chống tội phạm, giáo dục con cháu không tham gia các
tệ nạn xã hội, nhằm góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội tại địa phương và thực hiện tốt quy ước khu dân cư đã được hộ gia
đình ký cam kết; Đề xuất các cơ quan chức năng kịp thời khen thưởng, biểu
dương những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong cơng tác phịng
ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, cảm hóa giáo dục người phạm tội.
2.2. Thực trạng vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam đối với thành phố
Yên Bái hiện nay
Một là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị,
liên hiệp tự nguyện rộng rãi nhất của các tổ chức và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam
định cư ở nước ngồi. Liên minh chính trị chính là sự liên kết các lực lượng
với nhau trong một khối thống nhất để cùng nhau thực hiện mục tiêu chính trị
chung là giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, xây
dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Mục tiêu chung đó ở mỗi giai
đoạn khác nhau phù hợp với mục tiêu cách mạng và các lợi ích cơ bản của các
lực lượng tham gia liên minh. Là tổ chức liên minh chính trị, như vậy, đương
nhiên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khơng phải là đồn thể, khơng có hội viên,
đồn viên, mà chỉ có các thành viên bao gồm thành viên là tổ chức và thành
13
viên là cá nhân tiêu biểu. Các tổ chức, cá nhân tự nguyện gia nhập và là thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khi tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam các thành viên đều có địa vị bình đẳng trong phối hợp và thống nhất
hành động và độc lập về tổ chức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức có cơ
sở xã hội rộng rãi nhất so với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, do
đặc điểm này mà Mặt trận có những điều kiện để tập hợp, vận động đông đảo
các tầng lớp nhân dân, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức
mạnh to lớn, cùng nhau thực hiện chương trình phối hợp và thống nhất hành
động chung trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia xây dựng
chính quyền nhân dân.
Hai là: ngồi những phương thức vận động quần chúng nói chung, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cịn có các phương thức hoạt động đặc thù không
giống với phương thức hoạt động của Đảng, chính quyền. Cương lĩnh Đảng
năm 1991 ghi: “Mặt trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ,
phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên theo chương trình hành
động chung”. Đặc điểm cơ bản trong phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là vận động, giáo dục, thuyết phục, phối hợp và thống nhất
hành động. Đó chính là cách thức, phương pháp tiến hành những cơng việc để
phù hợp với vai trị, chức năng và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đây chính là lợi thế căn bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc động
viên các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành
Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu
dân cử và các bộ, công chức nhà nước. Phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam rất phong phú, đa dạng và không ngừng được đổi mới để
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong giai đoạn mới, đồng thời phù hợp với tinh thần Nghị quyết VIII, IX của
Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt
trận và các đồn thể chính trị - xã hội ... Thực hiện nề nếp việc Đảng và Nhà
14
nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến Mặt trận về những quyết định, chủ
trương lớn”.
Ba là: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo vừa là thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một nét độc đáo trong lý luận
cách mạng nước ta. Đảng là thành viên của Mặt trận nhưng với tư cách thành
viên lãnh đạo, thông qua Mặt trận để tập hợp các lực lượng quần chúng nhân
dân theo Đảng làm cách mạng. Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt
trận, là một thành viên của Mặt trận, Đảng khơng thể đứng trên hoặc đứng
ngồi để lãnh đạo Mặt trận. Về vấn đề này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình,
mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, ... chỉ trong đấu tranh và công
tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và
năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo.
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương,
chính sách đúng đắn, xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, đáp
ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân;
Đảng tiến hành công tác tuyên truyền vận động, thuyết phục, tổ chức, giám
sát, kiểm tra và bằng sự gương mẫu của đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày
thành lập Mặt trận đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều
tự giác thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời là thành viên, Đảng
tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi thành viên khác. Đại
diện cấp uỷ Đảng trong Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm
tham gia sinh hoạt đầy đủ, chủ động trình bày các chủ trương và kiến nghị của
Đảng đối với Mặt trận, đồng thời lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của
các thành viên, thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành
động. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay, quan điểm của Đảng là
phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,
15
xã hội ở các cấp, các ngành để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước. Yêu cầu mới đặt ra trong giai đoạn hiện nay, mà Đảng
ta xác định đó chính là Nhà nước cần xây dựng và ban hành Quy chế về phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân đối với dự thảo đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn
của Đảng, kể cả công tác tổ chức và cán bộ trước khi ban hành.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cịn là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, là nền tảng để xây dựng nên bộ máy nhà nước. Hệ thống của
Mặt trận được hình thành theo cấp hành chính là: trung ương; tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và xã,
phường, thị trấn. Ở mỗi cấp hành chính có Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam – là cơ quan chấp hành giữa hai kỳ đại hội của Mặt trận cùng cấp; đại
diện cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở từng cấp là Ban Thường trực.
Dưới cấp xã có Ban cơng tác Mặt trận ở cộng đồng dân cư. Với các cấp hành
chính như vậy, rất phù hợp với việc tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân ở từng cấp.
Theo quy định tại Điều 87 Hiến pháp 1992, và Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Mặt trận là một trong những chủ thể có quyền trình dự án luật ra
trước Quốc hội. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật đã có một số quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên có quyền tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân và về tổ chức bộ máy Nhà nước; trong quá trình soạn thảo
dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo
phải lấy ý kiến cơ quan, tổ chức hữu quan và đối tượng chịu sự tác động trực
tiếp của văn bản; nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng
lấy ý kiến... Cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tổng hợp,
nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý. Ở địa phương, Uỷ ban Mặt trận Tổ
16
quốc Việt Nam cấp tỉnh phối hợp với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
cùng cấp tổ chức lấy ý kiến của nhân dân vào dự án luật, pháp lệnh, văn bản
pháp luật của chính quyền địa phương trên các lĩnh vực có liên quan mật thiết
đến quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đến các tầng lớp xã hội do Mặt trận
trực tiếp vận động.
Hoạt động quản lý nhà nước ngày nay khơng chỉ bó hẹp trong lãnh thổ
quốc gia, mà đã hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, nhất là về kinh
tế. Mọi biến động của thế giới về kinh tế, ít nhiều đều tác động đến quản lý và
điều hành kinh tế của đất nước, ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu dùng, đến đời
sống của người dân. Nhằm tạo sự đồng thuận trong xã hội, trước hết Mặt trận
có trách nhiệm tham gia góp ý kiến với Chính phủ về các giải pháp vĩ mô, vận
động nhân dân hưởng ứng và tham gia các giải pháp đó. Như vậy, lúc bình
thường, cũng như lúc khó khăn, mối quan hệ giữa Mặt trận và Nhà nước là sự
phối hợp chặt chẽ, cùng mục đích vì sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Nội dung này gồm những hoạt động chủ yếu sau đây:
- Tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật: do có cơ sở xã hội rộng
lớn, nên Mặt trận có vai trị hết sức quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ
biến pháp luật cho nhân dân; động viên nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh
Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước ban hành. Nhà nước và Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đều là thành viên trong hệ thống chính trị. Tuy chức năng,
nhiệm vụ và phương thức hoạt động có khác nhau, nhưng đều là cơng cụ để
nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình. Nhà nước và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đều có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân. Vì vậy, cơng tác tun truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định tại Hiến pháp và Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Mọi chủ trương,
chính sách, pháp luật cũng như các hoạt động của nhà nước, nếu nhận được
sự ủng hộ, tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ là một nhân tố quan
trọng dẫn đến thành công khi đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống.
17
- Tham gia thực hiện dân chủ ở cơ sở: Đảng và Nhà nước ta chỉ ra là:
“cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, coi quần chúng nhân dân là lực
lượng quyết định thắng lợi của cách mạng. Ngày 18 tháng 2 năm 1998, Bộ
Chính trị đã ra chỉ thị số 30/CT-TW về việc xây dựng và thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta có một văn bản riêng về vấn đề
này nhằm phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý
Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thối, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham
nhũng đang xảy ra ở nhiều nơi trên đất nước ta. Năm 2007, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội khoá XI ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn, trong đó quy định trách nhiệm của Mặt trận là: tuyên truyền trong nhân
dân, làm cho mọi người hiểu và sử dụng đúng các quyền đã được quy định
trong quy chế dân chủ, đồng thời chấp hành đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ
của công dân; phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện và giám sát việc
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Tham gia tố tụng: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng hình sự, dân sự, lao động,
hành chính, kinh tế ... để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức mình,
của cơng dân, của hội viên, đoàn viên, đồng thời thực hiện quyền giám sát của
nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng; cử bào chữa viên
nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ
chức mình; tố giác và báo tin về tội phạm.
- Tham gia đặc xá: Theo quy định của Luật đặc xá ở trung ương Mặt
trận tham gia Hội đồng tư vấn đặc xá; tham gia ý kiến góp ý vào dự thảo
Quyết định của Chủ tịch nước và văn bản hướng dẫn quy định về các điều
kiện, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét đặc xá. Cử chuyên viên tham gia các
đoàn liên ngành thẩm định hồ sơ xét đặc xá tại các trại giam, trại tạm giam do
Bộ Công An, Bộ Quốc phòng quản lý; Mặt trận các cấp ở địa phương tuyên
truyền trong nhân dân ý nghĩa sâu sắc của chủ trương đặc xá; phối hợp với
chính quyền và đồn thể cùng cấp thực hiện việc quản lý, giúp đỡ, giáo dục
18