Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Tiểu luận quản lý xã hội về giáo dục đào tạo vấn đề thực hiện chính sách giáo dục và đào tạo ở việt nam những năm gần đây)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.01 KB, 52 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Đề tài:

VẤN ĐỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................1
B. NỘI DUNG......................................................................................................2
Chương I. Lý thuyết chung về thực hiện chính sách giáo dục và đào tạo ở Việt
Nam hiện nay........................................................................................................2
1.1

Một số khái niệm.........................................................................................2

1.2

Vị trí của chính sách giáo dục và đào tạo....................................................4

1.3

Vai trị chính sách giáo dục đào tạo.............................................................5

1.4

Nội dung chính sách giáo dục và đào tạo....................................................6

Chương I. Thực trạng thực hiện chính sách giáo dục và đào tạo ở VN hiện nay10
2.1 Kết quả..........................................................................................................10


2.2 Hạn chế..........................................................................................................35
Chương III Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chính sách giáo dục và đào
tạo ở Việt Nam hiện nay......................................................................................42
3.1 Giải pháp trong việc đổi mới tư duy quản lý giáo dục..................................42
3.2 Giải pháp trong công tác đầu tư cho giáo dục và đào tạo.............................43
3.3 Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục.......................................................45
3.4 Giải pháp nâng cao chính sách giáo dục tại các vùng dân tộc thiểu số ...47
C KẾT LUẬN....................................................................................................49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................50


A. MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, số hóa, nhất là xu thế phát triển từ cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 đã, đang tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu rộng đến
nhiều mặt, lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó phải kể đến lĩnh vực giáo dục &
đào tạo (GĐ&ĐT). Giáo dục và đạo tạo - Nhân tố quan trọng đảm bảo sự phát
triển xã hội thời kỳ hội nhập. Ngày nay, trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế, Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam cịn xác định GD&ĐT
như một lợi thế, nhân tố, chìa khóa, động lực mới cho việc thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển.
Giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, có sức mạnh nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế xã hội, phát huy giá trị đất nước, văn hóa và con người Việt
Nam. Với chủ trương của Chính phủ chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, đầu tư cho giáo dục đã trở thành
vấn đề được quan tâm và là lĩnh vực đầy tiềm năng, thu hút nhiều nguồn lực cả
trong và ngoài nước trong những năm trở lại đây. Các chính sách tập trung đổi
mới tồn diện giáo dục, trong đó chú trọng quan tâm chăm lo phát triển đội ngũ
nhà giáo, nhất là các thầy cô giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Mặc
dù còn đối mặt với nhiều khó khăn, ngành giáo dục và đào tạo đã đóng góp to

lớn trong việc bồi dưỡng nhân cách đạo đức cho thế hệ trẻ, giúp phát triển con
người, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, đóng góp chung vào phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín như ngày nay.
Với tầm quan trọng đó, em chọn đề tài: “Vấn đề thực hiện chính sách
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam những năm gần đây”. Thông qua bài tiểu luận,
chỉ ra thực trạng hoạt động và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực
hiện chính sách giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới.

1


B. NỘI DUNG
Chương I.
Lý thuyết chung về thực hiện chính sách giáo dục và đào tạo ở Việt Nam
hiện nay
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm giáo dục
Giáo dục là một lĩnh vực quan trọng có ảnh hưởng và quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của nhân loại. Giáo dục chính là một hiện tượng xã hội, diễn
ra quá trình trao truyền tri thức, kinh nghiệm giữa con người với con người
thông qua ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu khác nhằm kế thừa và duy trì sự tồn
tại, tiến hóa và phát triển của nhân loại.
Giáo dục là một cách tiếp thu về kiến thức, các thói quen, phong tục và
những kỹ năng của con người đã được lưu truyền thông qua các thế hệ bởi hình
thức giảng dạy, nghiên cứu hoặc đào tạo. Giáo dục có thể do mỗi người tự tìm
hiểu và học hỏi cũng có thể do người khác hướng dẫn. Điều này đồng nghĩa với
việc những trải nghiệm mà cá nhân con người có được cùng các suy nghĩ, hành
động và sự cảm nhận sẽ được coi là giáo dục. Đối với mỗi người, giáo dục sẽ
được hình thành thơng qua nhiều giai đoạn khác nhau: từ giáo dục cấp mầm non,

giáo dục tiểu học cho tới giáo dục trung học và đại học.
Theo cách hiểu rộng, giáo dục là một quá trình bao gồm tất cả các hoạt
động hướng vào sự phát triển và rèn luyện năng lực (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo)
và phẩm chất (niềm tin, đạo đức, thái độ...) ở con người để có thể phát triển
nhân cách đầy đủ và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội. Theo cách hiểu
hẹp hơn, giáo dục là một q trình được tổ chức một cách có mục đích, có kế
hoạch nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội của loài người.
1.1.2 Khái niệm đào tạo
Đào tạo là q trình phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và
thái độ, tư cách... đòi hỏi ở một cá nhân để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất
định. Như vậy, đào tạo được hiểu là một dạng đặc thù của giáo dục, trong đó nó
hướng về giáo dục chun mơn nghề nghiệp. Vì là một dạng đặc thù của giáo
2


dục, nên quá trình đào tạo cũng tuân theo những quy luật chung của giáo dục.
Tuy nhiên, do những đặc điểm riêng của nó (về mục tiêu, đối tượng và phương
pháp) nên trong thực tế, người ta vẫn thường tách riêng giáo dục và đào tạo.
1.1.3 Khái niệm chính sách giáo dục đào tạo
Chính sách giáo dục được hiểu bao gồm các mục tiêu và các giải pháp,
công cụ để thúc đẩy quá trình trang bị và nâng cao kiến thức, hiểu biết về thế
giới khách quan, khoa học, kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động nghề
nghiệp cũng như hình thành nhân cách của con người. Theo nghĩa rộng, chính
sách xã hội bao gồm chính sách giáo dục phổ thơng và chính sách đào tạo nghề
nghiệp chun mơn. Theo nghĩa hẹp thì chỉ bao gồm chính sách giáo dục phổ
thơng.
Có thể nói, Chính sách giáo dục và đào tạo là một trong những chính sách
xã hội cơ bản trong hệ thống các chính sách kinh tế- xã hội của Nhà nước. Chính
sách giáo dục và đào tạo là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các
hoạt động giáo dục và đào tạo, nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước về

lĩnh vực này. Chính sách giáo dục và đào tạo là một hệ thống các quan điểm,
mục tiêu của Nhà nước về giáo dục- đào tạo, cùng các phương hướng, giải pháp
nhằm thực hiện các mục tiêu đó, trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển
đất nước.
Chính sách đào tạo có ý nghĩa quyết định đến nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực quốc gia, nhất là nguồn nhân lực có chun mơn kỹ thuật cao và
nhân tài của quốc gia. Ngày nay, nguồn nhân lực con người qua giáo dục, đào
tạo trong xã hội được coi là nguồn lực quý giá nhất, là nguồn gốc và có khả
năng tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Trong hoạch định và thực thi chính sách giáo dục và đào tạo cần phải chú
ý đến đặc điểm là giáo dục và đào tạo diễn ra thường xuyên, liên tục và ở mọi
môi trường hoạt động của con người trong gia đình, nơi làm việc, trong các
trường lớp, trong quan hệ xã hội, nhung trong đó, mơi trường các trường lớp có
vai trị quyết định nhất đối với giáo dục và đào tạo. Nói cách khác, chính sách

3


giáo dục và đào tạo phải tạo điều kiện cho mọi người có thể đến trường, đến các
cơ sở giáo dục và đào tạo.
1.2 Vị trí của chính sách giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là quá trình trao truyền và bồi dưỡng tri thức cho cá
nhân và cộng đồng của thế hệ trước cho các thế hệ sau, để từ đó họ có thể tiếp
nhận rèn luyện, hòa nhập và phát triển trong cộng đồng xã hội. Quá trình giáo
dục và đào tạo cũng như quá trình tự giáo dục, tự đào tạo diễn ra suốt vịng đời
con người thơng qua hệ thống giáo dục trong nhà trường và hệ thống giáo dục
xã hội. Mục tiêu của nền giáo dục và đào tạo của bất cứ quốc gia nào cũng đều
hướng tới phát triển con người cả về thể lực, trí lực và tri thức tình cảm, xây
dựng các thế hệ công dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Phát triển giáo dục và đào tạo chính là xây dựng nền móng văn hóa dân

tộc, là cơ sở để phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn
háo dân tộc. Giáo dục và đào tạo là cơ sở thiết yếu để đào tạo ngưồn nhân lực,
đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giáo dục và đào tạo khơng chỉ là nhân tố có ý nghĩa
quyết định đến đào tạo nguồn nhân lực cho nền sản xuất xã hội mà còn là trung
tâm đào tạo nhân tài cho đất nước. Hiền tài là nguyên khí quốc gia, có vai trị to
lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình phát triển nền kinh tế tri
thức hiện nay, vai trị của nhân tài nói riêng, của đội ngũ tri thức nói chung ngày
càng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng khơng chỉ đối với sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội mà cả trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, trong đối nội và đối ngoại.
Chính sách giáo dục và đào tạo có mối quan hệ biện chứng với các chính
sách kinh tế và xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ với chính sách lao động và
việc làm, chính sách an sinh xã hội... Chẳng hạn, chính sách giáo dục, đào tạo
thực hiện tốt thì cơ hội việc làm tăng và nguồn nhân lực được sử dụng có hiệu
quả. Kết quả là hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi và chính sách bảo hiểm xã hội
sẽ giảm được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, khi chính sách giáo
dục và đào tạo không 5 được giải quyết tốt thì làm cho trình độ dân trí thấp, các
tệ nạn xã hội sẽ dễ dàng phát sinh, thất nghiệp sẽ tăng lên. Khi đó, gánh nặng
4


đối với các chính sách về bảo trợ xã hội, an sinh xã hội sẽ tăng lên, thậm chí cịn
có thể gây ra bất ổn định về chính trị, xã hội.
1.3 Vai trị chính sách giáo dục đào tạo
Giáo dục có vai trị to lớn trong phát triển con người, thể hiện ở một số
mặt dưới đây:
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta ln ln
quan tâm đến sự nghiệp chăm sóc và phát huy yếu tố con người. Điều đó xuất
phát từ nhận thức sâu sắc những giá trị lơn lao và ý nghĩa quyết định của yếu tố
con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi

nền văn minh của quốc gia. Xây dựng và phát triển con người trí tuệ cao, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực,
đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, giáo dục và đào tạo có vai trị
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một quốc gia.
Phát triển giáo dục - đào tạo sẽ nâng cao dần về mặt bằng dân trí, yếu tố
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội của môi trường quốc gia, tạo lập hệ giá
trị xã hội mới. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, tri thức là sản phẩm của giáo
dục và đào tạo, đồng thời là tài sản quý giá nhất của con người và xã hội. Sở hữu
tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất được các nước thừa nhận và bảo hộ.
Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc từ tài nguyên, sức
lao động cơ bắp là chính chuyển sang nguồn lực con người có tri thức là cơ bản
nhất.
Giáo dục và đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia,
dân tộc bởi giáo dục - đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình độ
cao làm giàu của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính trị vững
vàng, đủ sức đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính q
trình hội nhập quốc tế và toàn cầu.
Giáo dục và đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang tiến hành phổ cập giáo dục trung
học cơ sở, trình độ lao động phổ thơng cịn khá thấp, ít được đào tạo nghề, vẫn
cịn khoảng gần 60% lao động nơng nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây dựng
5


kinh tế tri thức. Giáo dục – đào tạo nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón
đầu” rút ngắn thời gian công nghiệp là quốc sách hàng đầu, là điều kiện phấn
đấu Việt Nam trở thàn nước Công nghiệp.
Giáo dục - đào tạo bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có trình
độ chun mơn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan
trọng phát triển khoa học cơng nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức.

Kinh tế tri thức được hiểu là kinh tế trong đó có sự sản sinh, truyền bá và sử
dụng tri thức là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất,
nâng cao chất lượng cuộc sống. Tất cả các quốc gia phát triển đều có chiến lược
phát triển giáo dục. Sự phát triển của giáo dục - đào tạo sẽ tạo ra một nguồn
nhân lực có đạo đức và trí tuệ cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, đặc biệt
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển, Đảng và
Nhà nước ta khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc đổi mới giáo
dục trong giai đoạn hiện nay đang là mối quan tâm của các cấp, ngành, các nhà
khoa học và toàn xã hội. Chọn khoa học và giáo dục làm khâu đột phá cho phát
triển. Chọn giáo dục làm tiền đề của phát triển bền vững là xác định đúng đắn và
khoa học.
Có thể nói, trong các nguồn lực để phát triển, nguồn lực có trí tuệ là nhân
tố cơ bản, quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, Vì vậy, chính
sách giáo dục có ý nghĩa đặc biệt, được coi là quốc sách hàng đầu của quốc gia.
1.4 Nội dung chính sách giáo dục và đào tạo
1.4.1 Văn bản quy định chính sách giáo dục và đào tạo.
Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống các chính sách giáo dục và
đào tạo nhằm thúc đẩy sự phát triển của giáo dục và đào tạo. Cụ thể ở một số
văn bản:
-

Hiến pháp

- Luật giáo dục 2019
- Luật giáo dục nghề nghiệp 2014
1.4.2 Một số chính sách giáo dục và đào tạo mới, có hiệu lực năm 2021
6



Năm 2021, chính sách về giáo dục, đào tạo sẽ có nhiều thay đổi.
Theo lộ trình, năm học 2021 - 2022 học sinh lớp 2 và lớp 6 trên cả nước
sẽ thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông theo Nghị
quyết 88/2014/QH13, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết 51/2017/QH14. Hiện
nay, các bộ sách giáo khoa lớp 2 và lớp 6 đang trong quá trình thẩm định. Trong
đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo vơ cùng chú trọng khâu lấy ý kiến của giáo viên
bằng việc ban hành một số Công văn yêu cầu các Sở Giáo dục và Đào tạo tổ
chức góp ý sách giáo khoa mới trước. Theo Công văn 5103/BGDĐT-GDTrH,
giáo viên sẽ tham gia 03 đợt góp ý về mẫu sách giáo khoa của các nhà xuất bản
trước khi in và phát hành.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã làm việc với Bộ Nội vụ để thống nhất về xóa
bỏ chứng chỉ ngoại ngữ, tin học cho giáo viên. Đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo
cho biết, việc bỏ yêu cầu chứng chỉ ngoại ngữ, tin học đối với giáo viên nằm
trong kế hoạch rà soát các văn bản quy phạm pháp luật của bộ. Cụ thể, các yêu
cầu này nằm trong Thông tư quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
và bổ nhiệm, xếp lương giáo viên mầm non, giáo viên phổ thông công lập.
Dự kiến, năm 2021, dự thảo Thông tư mới quy định về khen thưởng và kỷ
luật học sinh phổ thông thay thế Thông tư 08/TT năm 1988 sẽ được thơng qua.
Theo đó, dự thảo Thông tư mới đã đưa ra các biện pháp "kỷ luật tích cực" và các
hình thức kỷ luật mới thay thế các hình thức kỷ luật trước đây mang tính phê
bình, bạo lực, xúc phạm nhân phẩm, ảnh hưởng xấu đến thể chất và tinh thần
của học sinh. Theo dự thảo, mức kỷ luật cao nhất áp dụng trong theo nhà trường
là "tạm dừng học tập trên lớp” thay vì "đuổi học" như trong quy định hiện hành.
Như vậy, nếu Thông tư mới được thông qua, học sinh vi phạm kỷ luật sẽ khơng
cịn bị đuổi học.
Từ ngày 01/01/2021, tuổi nghỉ hưu của giáo viên sẽ tăng dần qua các
năm. Cụ thể, khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 quy định:


Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình


thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động
nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
7




Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao

động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 04
tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao
động nam và 04 tháng đối với lao động nữ.
Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp giáo viên có thể nghỉ hưu trước tuổi
quy định như: giáo viên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó
khăn bao; giáo viên bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến dưới 81%...
Từ 11/01/2021, Chương trình mơn Giáo dục quốc phòng và an ninh cấp
trung học phổ thơng ban hành kèm Thơng tư 46/2020/TT-BGDĐT sẽ chính thức
có hiệu lực. Theo đó, Luật An ninh mạng là một trong những nội dung học của
mơn giáo dục quốc phịng và an ninh. Cụ thể, học sinh phải đạt được các yêu
cầu là:


Nêu được một số khái niệm cơ bản về mạng, an ninh mạng, bảo mật

thông tin cá nhân trên môi trường không gian mạng; nội dung cơ bản của Luật
An ninh mạng;


Bảo mật được thông tin cá nhân, cảnh giác trước những thủ đoạn xâm


nhập, phát tán mã độc, thông tin giả trên mạng...
Năm 2020, do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, 24 triệu học sinh,
sinh viên trên cả nước không thể đến trường học tập. Với chủ trương “tạm dừng
đến trường, không ngừng việc học”, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tăng cường chỉ
đạo các cơ sở giáo dục dạy học qua internet. Dựa trên kinh nghiệm dạy học trực
tuyến trong thời gian vừa qua, Bộ đã xây dựng dự thảo Thông tư về tổ chức dạy
học trực tuyến đối với cơ sở giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, Thông
tư mới sẽ sớm hoàn thiện và ban hành trong năm 2021
Những tiêu chuẩn chung về tuyển sinh theo chế độ cử tuyển quy định tại
Nghị định 141/2020/NĐ-CP. Cụ thể, tiêu chuẩn chung để tuyển sinh theo chế độ
cử tuyển là:


Không quá 22 tuổi tính đến năm tuyển sinh, có đủ sức khỏe theo quy

định hiện hành (trước đây là không quá 25 tuổi);

8




Thường trú từ 05 năm liên tục trở lên tính đến năm tuyển sinh tại vùng

có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; có cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ ni
(hoặc có một trong hai bên là cha đẻ hoặc mẹ đẻ, cha nuôi hoặc mẹ nuôi), người
trực tiếp nuôi dưỡng sống tại vùng này;



Đạt các tiêu chuẩn sơ tuyển đối với các ngành, nghề có yêu cầu sơ

tuyển.
Như vậy, năm 2021 sẽ là một năm đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực giáo
dục. Những thay đổi này phần lớn mang tính tích cực và phù hợp với tình hình
thực tế hiện nay.

9


Chương I.
Thực trạng thực hiện chính sách giáo dục và đào tạo ở VN hiện nay
2.1 Kết quả
Chính sách giáo dục của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay hướng đến
mục tiêu tạo ra được những chuyển biến cơ bản để không tụt hậu so với các
nước trên Thế giới và trong khu vực.
2.1.1 Đổi mới tư duy giáo dục
Đổi mới tư duy quản lý giáo dục là một trong những yếu tố có ý nghĩa
quyết định đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục ở các nhà
trường. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, dưới tác động của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đã và đang đặt ra những yêu cầu và điều kiện mới nhằm thay đổi nền
giáo dục quốc gia, nhất là đổi mới, phát triển nguồn nhân lực quản lý giáo dục.
Vì vậy, đổi mới tư duy giáo dục nói chung, đổi mới tư duy đội ngũ quản lý giáo
dục nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay.
Trong bối cảnh hội nhập, đội ngũ các nhà quản lý giáo dục đã nhanh
chóng đổi mới tư duy, nhận thức, năng lực sáng tạo trong quản lý một cách nhất
quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống
tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền
giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc

phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ
tránh nguy cơ bị tụt hậu.
Đổi mới tư duy quản lý giáo dục là đổi mới từ nhận thức đến hành động
trong các hoạt động giáo dục, nhằm tạo ra cách nhìn, cách nghĩ và cách làm mới
về giáo dục. Đây là vấn đề quan trọng có vai trị định hướng cho tồn bộ q
trình đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo. Nội dung của đổi mới tư
duy quản lý giáo dục, đó là:


Đổi mới về xây dựng nguồn nhân lực giáo dục và đào tạo, bảo đảm

đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có được mơi trường thuận lợi để họ cống hiến
10


và trưởng thành; xây dựng cơ chế tuyển chọn giảng viên và có cơ chế chính sách
đãi ngộ để tạo động lực cho họ phát huy cao nhất khả năng của mình


Đổi mới về xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp dạy học

cho các đối tượng, bậc học, cấp học, cần có tư duy hệ thống trong xây dựng nội
dung, chương trình giảng dạy để khắc phục sự trùng lặp giữa các môn học, cấp
học, bậc học và các đối tượng khác nhau; qua đó, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại
hóa nội dung, chương trình giảng dạy.


Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và phương pháp học, xem đây là

một trong các khâu đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục.

Có thể khẳng định đổi mới tư duy quản lý giáo dục là một tất yếu khách
quan và cũng là đòi hỏi cấp thiết của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Về mặt
chủ trương, chúng ta đã có Chỉ thị số 40 - CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục. Chỉ thị đã chỉ ra những nhiệm vụ và giải pháp cơ
bản để phát triển nguồn nhân lực quản lý giáo dục đáp ứng các yêu cầu mới và
phức tạp của tiến trình đổi mới giáo dục Việt Nam. Đến Luật giáo dục (2005),
Điều 16 ghi rõ: “Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ
chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục”. Nghị quyết số 29 -NQ/TW
ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đã xác định rõ một trong các nhiệm vụ và giải pháp
hàng đầu là “Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân
chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục,
đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng”.
Đổi mới tư duy quản lý giáo dục ở Việt Nam có vai trị quan trọng, quyết
định chất lượng giáo dục của nhà trường trong bối cảnh hiện nay. Thế giới ngày
nay đã và đang trải qua những thay đổi vượt bậc. Tồn cầu hóa và hội nhập quốc
tế đã ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống con người, trong đó, có lĩnh
vực giáo dục, đào tạo, nó báo hiệu một sự chuyển dịch mạnh mẽ về đội ngũ lao
động trên toàn cầu. Để bắt kịp với sự chuyển dịch đó, hệ thống giáo dục thế giới
nói chung, hệ thống giáo dục ở Việt Nam nói riêng đã có sự thay đổi căn bản và
11


toàn diện. Đổi mới tư duy quản lý giáo dục chính là nâng cao năng lực, hiệu quả
làm việc của các nhà quản lý giáo dục - chìa khóa để thực hiện sự đổi mới toàn
diện nền giáo dục quốc gia ở nước ta hiện nay.
Thực chất, đổi mới tư duy quản lý giáo dục là đổi mới từ nhận thức, quan
điểm, phương pháp quản lý cho tới xây dựng mục tiêu, chương trình giảng dạy
và học tập theo tiêu chuẩn mới, tiêu chuẩn Giáo dục 4.0, nhằm đưa nguồn nhân

lực quản lý giáo dục bắt kịp với tốc độ thay đổi của công nghệ trong thời kỳ hội
nhập. Nhờ có đổi mới tư duy mà các nhà quản lý giáo dục Việt Nam có khả
năng thích ứng nhanh, nhạy với môi trường giáo dục và tiến bộ khoa học cơng
nghệ mới, có năng lực chun mơn, sáng kiến đột phá, sáng tạo trong quản lý.
Từ đó, tạo nên kết quả cao và vượt trội trong cơng việc, đóng góp thực sự hữu
ích cho các cơ sở giáo dục và toàn xã hội.
Đánh giá về thành tựu đổi mới tư duy quản lý giáo dục ở nước ta, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Công tác quản
lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến” (1). Điều đó chứng tỏ, với sự thay
đổi nhanh chóng của cuộc cách mạng cơng nghệ 4.0, giáo dục Việt Nam đã đem
lại cho đội ngũ quản lý giáo dục những kiến thức, kỹ năng, khả năng sáng tạo,
thích ứng với những thách thức và yêu cầu mới mà các phương pháp giáo dục
truyền thống không thể đáp ứng.
Ưu điểm nổi bật trong đổi mới tư duy quản lý giáo dục ở Việt Nam, đó là
đội ngũ quản lý giáo dục đóng vai trị quyết định trong việc bảo đảm thực hiện
thành cơng chính sách giáo dục và nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục ở nước
ta hiện nay. Trước đây, các nhà quản lý giáo dục có tư duy hướng tới ổn định và
trật tự, quản lý bằng mệnh lệnh thì hiện nay dưới tác động của hội nhập quốc tế,
tư duy, nhận thức của các nhà quản lý giáo dục hướng tới đổi mới và phát triển.
Vai trò và chức năng của các nhà quản lý giáo dục đã và đang thay đổi. Bên
cạnh những chức năng truyền thống, nhiều nhiệm vụ mới được bổ sung đối với
đội ngũ quản lý giáo dục, như trang bị những kiến thức mang tính đa ngành, kỹ
năng mềm, đặc biệt là tư duy phân tích, phản biện để thích ứng với mơi trường
tồn cầu hóa; ln bình tĩnh, tự tin, biết tự kiểm sốt, nắm vững chun mơn, có
12


khả năng sáng tạo, đổi mới; tự đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn đáp ứng yêu cầu
kết nối mới trên nền tảng kiến thức và công nghệ.
Trong các cơ sở giáo dục, đội ngũ quản lý giáo dục luôn là những người

sẵn sàng đổi mới tư duy và có tầm nhìn chiến lược; có năng lực sáng tạo, năng
lực thích ứng và hội nhập, năng lực tiếp thu nhanh, năng lực kiểm tra, đánh giá.
Đồng thời, họ được bổ sung và trau dồi các kỹ năng như: kỹ năng ngoại ngữ, tin
học; kỹ năng trình bày và giao tiếp; kỹ năng thuyết phục. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục có bước phát triển...” Theo Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý
cơ sở giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến tháng 8/2020, tồn quốc có
hơn 1,2 triệu giáo viên, giảng viên. Trong đó, “giáo viên mầm non có hơn 316
nghìn; tiểu học hơn 397 nghìn; trung học cơ sở hơn 310 nghìn, trung học phổ
thơng hơn 150 nghìn; đại học hơn 72 nghìn giảng viên. Số nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục được đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuẩn hóa ngày càng tăng.
Về cơ bản, giáo viên ở tất cả các cấp học đã đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào
tạo, trong đó, mầm non đạt 96,6%, tiểu học đạt 99,7%, Trung học cơ sở đạt
99,0%, Trung học phổ thông đạt 99,6%, đại học đạt 82,7%” (3). Đây được coi là
một trong những động lực quan trọng, là điều kiện tốt để đổi mới tư duy, phát
huy nguồn lực quản lý giáo dục ở nước ta hiện nay
2.1.2 Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại của dân, do dân và vì
dân
Nhà nước và nhân dân Việt Nam xác định phát triển giáo dục-đào tạo là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, phát hiện và bồi
dưỡng nhân tài cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhà nước đầu tư
và tiến hành đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,
thực hiện công bằng trong giáo dục, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để ai
cũng được học hành. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín
ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hồn cảnh kinh tế đều bình
đẳng về cơ hội học tập. Bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người,
tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công
13



nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ
sở là các cấp học phổ cập, mọi công dân trong độ tuổi lao động đều có nghĩa vụ
học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập. Nhà nước và ngành giáo dục rất quan
tâm tạo điều kiện giúp đỡ cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và
các trẻ em tàn tật, khuyết tật thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình.
Nhà nước đã dành nhiều nguồn lực ưu tiên đầu tư cho phát triển sự nghiệp giáo
dục. Các chính sách tập trung đổi mới tồn diện giáo dục, trong đó chú trọng
quan tâm chăm lo phát triển đội ngũ nhà giáo, nhất là các thầy cô giáo ở vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
2.1.3 Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học.
Giai đoạn 2016 - 2020 là ngành giáo dục tiếp tục thực hiện Chiến lược
phát triển giáo dục 2011 - 2020 và triển khai thực hiện nhiều định hướng, chủ
trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GD và ÐT) của Ðảng và
Nhà nước. Ngành giáo dục đã xây dựng kế hoạch để triển khai chín nhóm nhiệm
vụ và năm nhóm giải pháp cơ bản. Bộ trưởng GD và ÐT đã phát động phong
trào thi đua "Ðổi mới, sáng tạo trong dạy và học" giai đoạn 2016 - 2020, đạt
được nhiều thành tựu quan trọng trong đổi mới giáo dục phổ thông và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Đổi mới chương trình, nội, phương pháp dạy và học,
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà
trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên.
Xác định nâng cao chất lượng dạy và học là nhiệm vụ then chốt, các nhà trường
thực hiện tốt việc đổi mới trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành các nhiệm
vụ của nhà trường, đẩy mạnh thực hiện đổi mới sinh hoạt chuyên môn lấy học
sinh làm trung tâm, chú trọng bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ công tác chủ
nhiệm, phương pháp giảng dạy và ứng dụng công nghệ thông tin.
Trọng tâm giai đoạn 2016-2020, tồn ngành giáo dục đã thực hiện chín
nhóm nhiệm vụ chủ yếu và năm giải pháp căn bản. Ðối với chín nhóm nhiệm vụ
chủ yếu gồm: Rà sốt, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở GD và ÐT trong cả nước;
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp; công

14


tác phân luồng và định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông; nâng cao
chất lượng dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh ở các cấp học và trình độ
đào tạo; ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong dạy, học và quản lý giáo dục; đẩy
mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục đại học;
hội nhập quốc tế trong GD và ÐT; tăng cường cơ sở vật chất bảo đảm chất
lượng các hoạt động GD và ÐT; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao. Năm giải pháp thực hiện gồm: Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính về GD và ÐT; nâng cao năng lực lãnh đạo của cán
bộ quản lý giáo dục các cấp; tăng cường các nguồn lực đầu tư cho GD và ÐT;
tăng cường cơng tác khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục; đẩy mạnh công
tác truyền thông về GD và ÐT.
Ðến nay, sau 5 năm, các lĩnh vực thuộc chín nhóm nhiệm vụ chủ yếu,
năm nhóm giải pháp cơ bản đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần
thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện GD và ÐT theo tinh thần Nghị
quyết số 29-NQ/TW. Trong đó, khung pháp lý cho đổi mới GD và ÐT được
hoàn thiện. Bộ GD và ÐT đã trình Chính phủ để trình Quốc hội thơng qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo
dục năm 2019. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục
đại học đã tháo gỡ những điểm nghẽn trong việc giao quyền tự chủ cho các
trường đại học; Luật Giáo dục 2019 đã làm rõ tính liên thơng, phân luồng trong
giáo dục… Cả nước duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, trong đó
hồn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Kết quả và chất lượng phổ
cập giáo dục tiểu học được giữ vững và nâng cao. Tất cả 63 tỉnh, thành phố đã
đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 và đạt chuẩn phổ cập giáo dục
trung học cơ sở mức độ 1. Nhiều địa phương đã đạt tỷ lệ 100% học sinh học 2
buổi/ngày, tạo tiền đề thuận lợi để chuẩn bị cho việc triển khai chương trình giáo
dục phổ thơng mới.

Chất lượng giáo dục phổ thông (cả đại trà và mũi nhọn) được nâng lên,
được quốc tế ghi nhận là một trong 10 hệ thống giáo dục hàng đầu của thế giới
nằm ở khu vực Ðơng Á - Thái Bình Dương. Theo báo cáo năm 2020 của Ngân
15


hàng Thế giới về vốn nhân lực, chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam đứng thứ
38/174 nền kinh tế; trong đó, thành phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng
thứ 15, tương đương với các nước như Hà Lan, Niu Di-lân, Thụy Ðiển. Kết quả
thi Ơ-lim-pích khu vực và quốc tế cũng đặc biệt xuất sắc. Giai đoạn 2016-2020,
Bộ GD và ÐT cử nhiều đoàn học sinh Việt Nam tham dự kỳ thi Ơ-lim-pích các
mơn văn hóa với 174 lượt em dự thi và đạt những kết quả cao, với 170 giải
thưởng, gồm: 54 Huy chương vàng, 68 Huy chương bạc, 40 Huy chương đồng,
tám bằng khen. Kết quả qua từng năm đều có bước tiến bộ vượt bậc, nhiều học
sinh Việt Nam đạt điểm số cao nhất ở các nội dung thi. Năm 2020, tất cả 24 thí
sinh Việt Nam tham dự các kỳ thi Ơ-lim-pích khu vực và quốc tế đều đoạt giải.
Trong đó, tất cả bốn thí sinh đội tuyển Hóa học đoạt Huy chương vàng, xếp thứ
2 thế giới (sau đội tuyển quốc gia Mỹ). Số Huy chương vàng mà học sinh Việt
Nam đạt được trong giai đoạn 2016-2020 nhiều gấp đôi giai đoạn 2011-2015.
Ðối với triển khai chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới,
Bộ GD và ÐT đã ban hành chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể, chương
trình mơn học; thẩm định, phê duyệt năm bộ sách giáo khoa lớp 1 để đưa vào sử
dụng trong năm học 2020 - 2021. Ðây là lần đầu tiên chương trình giáo dục phổ
thông được xây dựng một cách đồng bộ các môn học, hoạt động giáo dục ở tất
cả các cấp, lớp học theo hướng bảo đảm nội dung tinh gọn, giảm số môn bắt
buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn, xây dựng một số
môn tích hợp. Ðồng thời, xã hội hóa, xóa bỏ độc quyền sách giáo khoa phổ
thông, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước trong việc biên soạn sách giáo khoa
mới; trao quyền tự chủ lựa chọn sách về các trường phổ thông, giúp phù hợp đặc
điểm vùng, miền. Bộ GD và ÐT đã ban hành đầy đủ các chuẩn đối với đội ngũ

giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục giáo dục mầm non, phổ thông; áp dụng nhiều
giải pháp nhằm giảm áp lực, tạo động lực cho giáo viên. Xây dựng và triển khai
lộ trình đào tạo bồi dưỡng giáo viên theo chuẩn mới, theo chương trình và sách
giáo khoa giáo dục phổ thông mới bảo đảm tiến độ, chất lượng.
Ðáng chú ý, thi, kiểm tra, đánh giá được quan tâm, bảo đảm thực chất và
hiệu quả. Trong đó, kiểm tra đánh giá được triển khai theo hướng phát triển
16


năng lực người học; kết hợp giữa đánh giá kết quả và đánh giá quá trình. Kỳ thi
tốt nghiệp THPT được tổ chức khách quan, công bằng và minh bạch; giảm áp
lực và tốn kém cho xã hội; tránh học lệch học tủ; hạn chế tối đa gian lận trong
thi cử; cung cấp thông tin tin cậy phục vụ đánh giá chất lượng giáo dục phổ
thông và là một trong các căn cứ tuyển sinh đại học, giáo dục nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, tự chủ trong giáo dục đại học có nhiều đột phá; phân quyền
và giao quyền tự chủ cho các trường đại học được mở rộng. Các trường đã đẩy
mạnh hoạt động, số lượng các chương trình mở mới tăng trong khi quy mô gia
tăng hợp lý. Các chỉ số nghiên cứu, công bố quốc tế cũng tăng mạnh. Năm 2020,
cả nước có 17.028 bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế trong danh mục Scopus,
ISI, tăng hơn năm 2019 là 4.462 bài. Trong đó, số bài báo quốc tế trong các cơ
sở giáo dục đại học là 16.346 bài. Các trường đại học chú trọng xây dựng các
nhóm nghiên cứu để tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và cơng bố
quốc tế. Việc hình thành các nhóm nghiên cứu đóng vai trị quyết định sự thành
công, vị thế của các trường đại học. Các trường đại học còn chú trọng đến
những sản phẩm nghiên cứu mang tính ứng dụng cao...
Có thể nói phong trào "Ðổi mới, sáng tạo trong dạy và học" giai đoạn
2016 - 2020 trong toàn ngành giáo dục đã khơi dậy tinh thần đổi mới, sáng tạo
của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục trong công tác giảng dạy, giáo
dục, quản lý và nghiên cứu khoa học; phát huy tính chủ động, sáng tạo của học
sinh, sinh viên trong học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp;

mỗi tập thể là nơi kiến tạo, hỗ trợ để mỗi giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và
học sinh, sinh viên có mơi trường thuận lợi phát huy tối đa phẩm chất, năng lực
cá nhân. Với việc thực hiện hiệu quả phong trào "Ðổi mới, sáng tạo trong dạy và
học" nhằm thực hiện hiệu quả chín nhóm nhiệm vụ chủ yếu và năm nhóm giải
pháp đã góp phần mang lại nhiều kết quả nổi bật, thúc đẩy đổi mới căn bản, toàn
diện GD và ÐT.
2.1.4 Mở rộng quy mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, đảm
bảo tốc độ tăng nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng.
Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) có vai trị quan trọng đối với đào tạo nhân
lực trực tiếp trong sản xuất – kinh doanh, dịch vụ, góp phần nâng cao năng lực
17


cạnh tranh của nền kinh tế đối với quá trình hội nhập. Những năm qua, công tác
GDNN ở nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức của xã hội,
người dân, doanh nghiệp (DN) về GDNN có bước chuyển biến tích cực; số
lượng người tham gia vào GDNN ngày càng tăng; tỷ lệ người học sau tốt nghiệp
có việc làm cao, thu nhập ổn định.
Để tạo điều kiện cho hoạt động GDNN phát triển, hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này ngày càng được bổ sung, hồn thiện.
Theo đó, Luật Giáo dục năm 2005 đã có một mục riêng quy định về GDNN.
Năm 2006, Luật Dạy nghề được ban hành, tạo nền tảng pháp lý thuận lợi cho
hoạt động đào tạo nghề phát triển phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng
và Nhà nước. Tiếp đó, năm 2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật GDNN
với nhiều đổi mới quan trọng và đột phá nhằm thể chế hóa mạnh mẽ chủ trương
đổi mới căn bản, toàn diện GDNN, giải quyết các bất cập trong thực tiễn, tạo
nên diện mạo mới của hệ thống GDNN ở Việt Nam.
Luật GDNN năm 2014 đã hình thành hệ thống GDNN trong hệ thống giáo
dục quốc dân, quy định rõ 3 cấp trình độ đào tạo là sơ cấp, trung cấp và cao
đẳng, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế trong

giai đoạn mới. Đồng thời, thể hiện sự đổi mới về tổ chức và quản lý đào tạo, về
chính sách cho người học, nhà giáo và cơ sở GDNN; bổ sung, hồn thiện cơ chế,
chính sách khuyến khích xã hội hóa GDNN, tăng cường sự phối hợp, tham gia
của doanh nghiệp (DN), người sử dụng lao động vào hoạt động đào tạo, gắn đào
tạo với nhu cầu thị trường lao động và xã hội.
Tại Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 03/9/2016 của Chính phủ về phiên họp
thường kỳ của Chính phủ tháng 8/2016, Chính phủ đã thống nhất giao Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) về GDNN.
Theo đó, từ ngày 01/01/2017, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chính thức
tiếp nhận chuyển giao cơng tác QLNN về GDNN, tiếp nhận toàn bộ trường
trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng từ Bộ Giáo dục và Ðào tạo.
Đến nay, sau hơn 3 năm chuyển giao, bộ máy QLNN về GDNN đã được
kiện toàn từ trung ương tới địa phương. Việc quản lý được thực hiện theo hướng
18



×