Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Đầu tư phát triển giáo dục đào tạo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.29 KB, 35 trang )


Lời mở đầu
Cùng với cả nhân loại chúng ta đang bước vào thế kỷ 21 – kỷ nguyên
của sự bùng nổ thông tin, của sự phát triển như vũ bão của các công nghệ cao:
sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng… Nền kinh tế thế
giới đang có bước chuyển mình sâu sắc và mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng và
phương thức hoạt động. Đây không phải là một sự biến đổi bình thường mà là
một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại: nền kinh tế chứng từ, kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức, nền văn minh nhân loại chuyển từ văn minh
công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt
Nam tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước với mục
tiêu đến năm 2020 sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp. Trong quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá Việt Nam có lợi thế về nguồn người lực, chính
vì thế đào tạo phát triển nguồn nhân lực là hết sức quan trọng. Đảng và Nhà
nước ta đã chỉ rõ rằng: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Nói giáo dục - đào
tạo là quốc sách hàng đầu có nghĩa là giáo dục - đào tạo phải được ưu tiên
hàng đầu trong các chính sách phát triển của quốc gia bởi giáo dục - đào tạo
có vai trò to lớn trong phát triển nguồn nhân lực. Đặc biệt trong nền kinh tế tri
thức, đất nước mới có sức mạnh để phát triển cần phải tạo ra được nguồn
nhân lực có trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại cả về nguồn chất xám cũng như
năng lực khai thác để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao năng xuất lao động,
phát triển các hoạt động dịch vụ, nâng cấp các hoạt động văn hoá tinh thần…
chỉ có nền giáo dục phát triển mới đáp ứng được nhu cầu đó. Quán triệt quan
điểm coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, chúng ta cần phải quan tâm đầu tư
nhiều hơn cho phát triển giáo dục - đào tạo. Mặt khác giáo dục - đào tạo phát
1
triển theo đúng hướng xã hội hoá, phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường
thì đáp ứng cho phát triển giáo dục - đào tạo không còn là việc riêng của
những mà là của toàn xã hội.
Chính vì vậy để có cái nhìn tổng quan hơn về giáo dục - đào tạo và đầu
tư phát triển giáo dục - đào tạo em xin chọn đề tài: “Đầu tư phát triển giáo


dục - đào tạo ở Việt Nam”.
Đề tài của em gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề lý luận
Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư
và phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam.
2
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
Bước vào thế kỷ 21 Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Cùng
với sự phát triển kinh tế thì đầu tư phát triển nguồn lực là hết sức quan trọng
trong đó một nguồn lực không thể thiếu trong quá trình đầu tư là con người.
Do đó, đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo càng được coi là đầu tư phát triển.
1. Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển.
1.1. Khả năng về đầu tư và đầu tư phát triển.
Đầu ta là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực
tiếp làm tăng các tài sản vật chất,nguồn lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự
hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có.
1.2. Vai trò của đầu tư phát triển.
1.2.1 - Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước
1.2.1.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu:
Về mặt cầu: đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu của
toàn bộ nền kinh tế. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự thay đổi của đầu tư
làm cho đầu tư tăng (đường D dịch chuyển sang D’) kéo sản lượng cầu tăng
theo tư Qo – Q1 và giá của các nguyên liệu đầu vào của đầu tư tăng từ Po-P1.
Điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo-E1.
Về mặt cung: khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực

mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng dài hạn tăng lên (đường S
dịch chuyển sang S’) Kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1-Q2 và do đó
3
giá cả sản phẩm giảm tư P1-P2. Sản lượng tăng, gía cả giảm cho phép tăng
tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản
xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội,
tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên
trong xã hội.
1.2.1.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự thay đổi của nền kinh:
Từ sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng
cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư,
dù tăng hay giảm đều tạo cùng một lúc yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố
phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
1.2.1.3. Đầu tư nhằm tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất
nước:
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện
nay
Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu để có công
nghệ hoặc nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ
nước ngoài cũng cần phải có tiền, cần phải có đầu tư. Mọi phương án đổi mới
công nghệ không gắn liền với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không khả
thi
1.2.1.4. Đầu tư tác động vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có
thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo
ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, chính đầu tư
4
quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được
tốc độ tăng trương nhanh và ổ định của toàn bộ nền kinh tế.

Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối để
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi
tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa
thế, kinh tế…của những vùng có khả năng phát triển mạnh hơn, làm bàn đạp
thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng khác
1.2.1.5 . Đầu tư tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ
tăng trưởng ở mức độ tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải
đạt được từ 15%-20% so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu
tư, kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu
kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các nghành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ
thuộc vào hiệu quả của chính sách đầu tư nói chung. Thông thường ICOR
trong nông nghiệp phụ thấp hơn trong công nghiệp ICOR trong giai đoạn
chuyển đổi cơ cấu kinh tế chủ yếu do tận dụng năng lực. Do đó, ở các nước
phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp, dẫn đến tăng trưởng thấp
1.2.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ:
Đầu tư quyết định sự ra đời tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở nhằm
duy trì hoạt động và phát triển.
1.2.3. Đầu tư vào các cơ sở vô vị lợi
Với các cơ sở đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa
chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí
5
thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động
đầu tư.
2. Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo.
2.1. Đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo.
đầu tư cho giáo dục đào tạo là một nội dung trong đầu tư phát triển con
người. Đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn được
Đảng và Nhà nước ta coi là hoạt động đầu tư cơ bản nhất. Vậy có thể hiểu đầu

tư cho giáo dục đào tạo là hành động bỏ tiền ra để tiến hành hoạt động nhằm
tạo tài sản mới cho nền kinh tế nói chung, cho giáo dục nói riêng. Tài sản mới
có thể là trình độ được nâng cao của mọi đối tượng trong xã hội, từ đó tạo
tiềm lực, động lực mới cho nền sản xuất xã hội.
Con người là lực lượng sản xuất trực tiếp tạo ra của cải vật chất, là lực
lượng sáng tạo ra xã hội. Đào tạo nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng
những yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa vai trò hàng
đầu thuộc về công tác giáo dục và đào tạo. Giáo dục đào tạo tạo ra sự
chuyển biến về chất trong lực lượng lao động, góp phần thực hiện thành
công mục tiêu kinh tế xã hội.
2.2. Vai trò của đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo.
Giáo dục góp phần vào tăng trưởng kinh tế thông qua cả tăng
năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ nâng cao trình độ lẫn tích luỹ kiến
thức. Nguồn lực con người là một trong các yếu tố đầu vào của hàm sản
xuất:
Q = f(K, L, T, R )
Trong đó:
6
K: vốn.
L: lao động.
T: công nghệ.
R: tài nguyên.
Cũng như những nhân tố khác, lao động (L) là yếu tố tác động trực tiếp
tới sự thay đổi của sản lượng (Q). Đầu tư vào giáo dục đào tạo làm biến đổi
về chất lực lượng lao động từ đó sẽ làm thay đổi sản lượng Q.
Một sự đầu tư đúng đắn, hợp lý sẽ kéo theo sự thay đổi theo chiều hướng
tiến bộ của mặt bằng dân trí. Nhu cầu học tập, nghiên cứu được thoả mãn.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá 8 khẳng định: khoa học công
nghệ là nền tảng, là động lực của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Giữa giáo
dục - đào tạo và khoa học công nghệ có mối liên hệ qua lại hết sức chặt chẽ.

Giáo dục là nền tảng cho sự phát triển nhanh khoa học công nghệ. Giáo dục -
đào tạo và khoa học công nghệ kết hợp chặt chẽ, hỗ trợ nhau, tạo nên sự tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững gắn liền với sự phát triển xã hội theo hướng
văn minh, hiện đại. Đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo chính là động lực phát
triển khoa học công nghệ, thúc đẩy nền kinh tế – xã hội phát triển.
7
Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo ở
Việt Nam
1. Khái quát về tìnhhình phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam.
1.1. Tổng quan về giáo dục - đào tạo ở Việt Nam.
Bảng 1: Số lượng học sinh sinh viên (nghìn người)

Nguồn: Niên giám thống kê 1999
Cấp học
91 - 92 92 - 93 93 - 94 94 - 95 95 - 96 96 - 97 97 - 98 98 - 99
1. HSPT
Trung học
12371.4
568.2
12806.7
564.2
13568.7
703.3
14587.4
862.3
14541.5
1019.5
15192.4
1155.6
155882

1382
15824.4
1653.6
2. THCN 106.5 107.8 119.8 155.6 170.5 12.4 164.1 177.6
3.Dạy
nghề
63.8 63.2 64.9 69.8 66.4 75.1 70.6 72.2
4.ĐH
& CĐ
107 136.8 157.1 203.3 297.9 509.3 662.8 682.3
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy: số lượng học sinh, sinh viên có xu hướng
tăng qua các năm, trong đó số lượng sinh viên ĐH tăng rất nhanh, năm 98-99
tăng hơn 6 lần so với năm 91-92. Nguyên nhân là do hình thức đào tạo ở bậc
ĐH rất phong phú; nhiều trường ĐH tư, ĐH mở, dân lập được thành lập. Số
lượng học sinh các trường dạy nghề nếu so với năm 86 - 87 thì năm 98 - 99
chỉ bằng 51.7% nhưng từ 93 - 94 có xu hướng tăng trở lại. Số lượng đào tạo
dạy nghề không đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế đối với đội ngũ công
nhân kỹ thuật.
8
Về mặt quy mô giáo dục thì mức chênh lệch giữa nông thôn và thành thị
có sự khác xa về trình độ.
Tỉ lệ phần trăm tốt nghiệp phổ thông ở thành phố và nông thôn là 47/29.
Đây là mức chênh lệch khá cao vì vậy chúng ta phải có biện pháp hữu hiệu để
rút ngắn tỉ lệ trên. Xét về quy mô ở nước ta tỉ lệ người đi học so với dân số
trong độ tuổi còn khá thấp. Dù rằng quy mô giáo dục đào tạo của Việt Nam
(xét về mặt biết chữ và tiểu học) ở mức trung bình, tức là ngang bằng với
Thái Lan và Philippines nhưng ở bậc trung học thì Việt Nam lại ở mức thấp
hơn so với các nước này. Đặc biệt ở bậc đại học thì Việt Nam ở vị trí cuối
cùng.
Số lao động kỹ thuật ở Việt Nam chiếm 12% năm 1995, trong số 40.2

triệu người chỉ có 4.7 triệu là lao động có kỹ thuật.
Cùng với sự biến động của số lượng học sinh, sinh viên thì số lượng giáo
viên ở các cấp có sự biến đổi theo:
Bảng 2: Số lượng giáo viên ở các cấp
Đơn vị: 1000 người
92 - 93 93 - 94 94 - 95 95 - 96 96 - 97 97 - 98 98 -99 99 - 00
Mẫu
giáo
69.3 66.3 69.3 75 84.4 92.9 93.7 96.3
PT 426.6 446.4 467.4 492.7 521 565.6 604.5 614.8
THCN 10 9.7 9.6 9.4 9.3 9.8 10
Dạy
nghề
6.141 6.238 6.196 6.055 6.643 6.425 6.193

&ĐH
21 21.2 21.7 22.8 23.5 24.1 26.1
Nguồn: Xử lý số liệu thống kê năm
1999.
9

Bảng 3: Số trường học qua các năm.
Nguồn: Xử lý số liệu trong Niên giám thống kê năm 1998.
91 - 92 92 - 93 93 - 94 94 - 95 95 - 96 96 - 97 97 - 98 98 - 99
PT 17189 17980 19164 20086 21754 22664 23286
THCN 268 271 272 265 266 239 239 247
Dạy nghề
275 185 198 182 203 239 246
CĐ &
ĐH

106 108 109 109 109 109 110 123
Số lượng các trường tăng liên tục qua các năm (trừ THCN và dậy nghề)
thể hiện sự quan tâm của Việt Nam đối với tầm quan trọng của giáo dục.
Việt Nam quản lý giáo dục theo từng cấp học khác nhau, cụ thể:
- Chính phủ quản lý các trường ĐH, CĐ, THCN.
- Tỉnh, thành phố quản lý giáo dục trung học.
- Quận, huyện quản lý giáo dục tiểu học.
Mặc dù có sự tăng lên về số lượng trường học các cấp qua các năm
nhưng vẫn không đủ lớp cho học sinh; ở các tỉnh, huyện ngoại thành tình
trạng học sinh phải học ca 3 vẫn tiếp diễn.ởcấp dạy nghề còn nằm trong tình
trạng manh mún, thiếu tập trung, chưa có chương trình nào dành cho dạy
nghề.
Về đào tạo sau đại học ở trong nước diễn ra như thế nào?
10
Quy mô đào tạo sau đại học ở trong nước không ngừng được mở rộng
và phát triển:
Bảng 4: Thống kê cơ sở đào tạo sau đại học.
Nguồn: Tài chính giáo dục tháng 9 năm 2001.
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
TS
Cao
học
509 1058 1730 3060 651 3444 5294 3041 4
534
2747
TS
NCS
16 52 96 51 074 258 1113 1174 76 86 713
Trong giai đoạn 1990 - 1993, cả nước có 77 cơ sở đào tạo tiến sỹ, nhưng
từ 1993 - 2001 số lượng cơ sở đào tạo tiến sỹ tăng gấp 1.5 lần (từ 77 lên 113

cơ sở). Số lượng cơ sở đào tạo thạc sỹ tăng rất nhanh: từ 12 cơ sở năm 1991
lên 93 cơ sở năm 2001. Tính đến hết tháng 5 - 2001, cả nước có 141 cơ sở đào
tạo sau đại học. Tuy nhiên, số lượng các cơ sở đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ tăng
mạnh vào năm 1996 sau đó chững lại (1997).
Bảng 5: Số lượng tuyển sinh sau đại học giai đoạn 1990 - 2000.
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
TS
Cao
509 1058 1730 060 651 3444 5294 3041 4534 2747
11
học
TS
NCS
316 452 596 651 074 258 1113 1174 576 686 713
Nguồn: Tài chính giáo dục tháng 9/2001.
Trong 10 năm từ 1990 - 2000, số lượng tuyển sinh cao học đã tăng
hơn 11 lần (từ 509 học viên năm 1991 lên 5747 học viên năm 2000). Tuyển
sinh đào tạo tiến sỹ trong thập kỷ qua có nhiều biến động, khởi đầu bằng
con số 316 nghiên cứu sinh được tuyển vào năm 1990 và tăng đạt kỷ lục
1258 nghiên cứu sinh năm 1995, sau đó từ 1996 - 2000 thì số lượng giảm
dần.
1.2. Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư phát triển giáo dục - đào
tạo:
Nghị quyết Đảng lần thứ VIII chỉ rõ “cùng với khoa học và công
nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Giáo dục phải mang tính chất xã hội hoá, là sự nghiệp của toàn dân,
của gia đình, các tổ chức mọi người cần phải góp công sức, tiền của để
phát triển giáo dục, quan tâm đến giáo dục. Từ đó hình thành nên môi
trường thuận lợi cho giáo dục.

Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, Nhà nước cấp ngân sách cho
giáo dục, cho phép vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển giáo dục, tranh
thủ hỗ trợ của mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Người đi học và người
sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp kinh phí.
12
Tạo nên quyền bình đẳng trước cơ hội được giáo dục của mọi người
dân. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở nông thôn, miền núi, có chú ý
đến các đối tượng chính sách. Miễn học phí, cấp học bổng, cho vay vốn đối
với sinh viên học giỏi. Tạo nên những loại trường nội trú thích hợp đối với
các đối tượng chính sách.
Trong khi nguồn lực không dồi dào, lại phải mở rộng quy mô giáo
dục, phát triển hệ thống giáo dục để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá
nên phải chấp nhận tình trạng không đồng đều về chất lượng. Do đó vừa
mở rộng đồng thời vừa củng cố một số cơ sở đào tạo, giáo dục chất lượng
cao, đào tạo đa ngành.
2. Thực trạng đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam
2.1. Giáo dục và đào tạo Việt Nam từ 2002-2004
Một là, đầu tư cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo phải chú ý tăng chi cho
công tác giảng dạy và học tập khoản chi này có tác động trực tiếp đến chất
lượng giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh – sinh viên. Hiện nay
cơ sở vật chất kỹ thuật (đặc biệt là hệ thống thư viện; trang thiết bị của các
phòng thực hành, thí nghiệm; sách giáo khoa, tài liệu tham khảo…) còn thiếu
thốn. Vì vậy, đòi hỏi trong đầu tư ngân sách cho sự nghiệp này phải chú ý đến
việc tăng cường cơ sở vật chất cho công tác giảng dạy và học tập tại các cơ sở
đào tạo, nhất là những cơ sở đào tạo có chất lượng cao.
Hai là, có chế độ chính sách đãi ngộ đối với người làm công tác giảng
dạy, đảm bảo tiền lương tương xứng với lao động của các Nhà giáo.
Quá trình sản xuất của Nhà trường với đầu vào là con người và đầu ra
cũng là con người, đó là: “sản phẩm đặc biệt”, con người ở đầu vào với con
người ở đầu ra khác nhau ỏ tri thức khoa học. Trong quá trình sản xuất đó,

13
người lao động trực tiếp là các cán bộ giảng dạy, có thể nói họ là những lao
động đặc biệt” Với tính đặc thù như vậy, việc đầu tư của ngân sách cho sự
nghiệp giáo dục - đào tạo cần phải chú ý:
Tạo điều kiện cho cán bộ giảng dạy đạt tiêu chuẩn chức danh Chính
phủ quy định. Cần có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ cán bộ giảng dạy, khuyến
khích nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đạt trình độ kiến thức cao
hơn.
- Nhà nước cần có những chính sách và chế độ đảm bảo đời sống tinh
thần và vật chất của đội ngũ cán bộ giảng dạy, đây là yếu tố quan trọng để họ
yên tâm lao động sáng tạo và xã hội tôn vinh các Nhà giáo.
Ba là, ở nước ta hiện nay, mạng lưới trường học chưa hợp lý về quy mô
và cơ cấu ngành nghề đào tạo. Chúng ta có 110 trường Đại học và Cao đẳng;
546 trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (trong đó Trung ương 260
trường, địa phương 286 trường), nhưng quymô nhỏ và rất nhỏ. Trong 110
trường Đại học và Cao đẳng chỉ có 7 trường đào tạo “đa ngành”, số còn lại
đào tạo “chuyên ngành”, có khoảng 20% số trường dưới 500 sinh viên,
khoảng 40% số trường dưới 1.000 sinh viên, số trường con lại dưới 2.000 sinh
viên, chỉ có 7 trường trên 5.000 sinh viên và có 2 trường trên 10.000 sinh
viên. Quy mô trường nhỏ đã kéo theo mối quan hệ khônghợp lý giữa sinh
viên và giáo viên, hiện nay bình quân là 9 sinh viên/ giáo viên, trong khi đó
bình quân ở các nước Đông Namá là 14 sinh viên/ giáo viên. Quy mô trường
nhỏ đã làm tăng chi phí đào tạo đối với một sinh viên, đồng thời làm phân tán
đội ngũ giáo viên, phân tán thiết bị máymóc, phòng thí nghiệm, thư viện…
nên hiệu suất sử dụng cơ sở vật chất trường lớp không cao, giảm hiệu quả đầu
tư của ngân sách Nhà nước . Chính vì vậy, cần phải sử dụng công cụ tài chính
để tham gia sắp xếp lại hệthống các trường Đại học và Cao đẳng, các trường
14
Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng giảm những trường có quy
mô nhỏ dưới 1000 học sinh, ngân sách Nhà nước chỉ tập trung đầu tư cho

những trường trọng điểm, chất lượng cao (Đại học Quốc Gia, Đại học vùng),
các trường mang tính chất đặc thù theo mô hình một cơ sở đảm nhận ba
nhiệm vụ đào tạo – nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất; đào tạo những
ngành nghề theo cơ cấu chuyển dịch kinh tế, đồng thời chuyển phần lớn các
trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề về địa phương và các doanh
nghiệp. Đi đôi với việc sắp xếp lại mạng lưới các trường phải tính toán lại
quymô đào tạo cho phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế, chú trọng
nâng cao chất lượng đào tạo, hạn chế quy mô đào tạo chuyên tu và tại chức.
Từ đó tạo điều kiện để nâng định mức chi ngân sách cho một học sinh/ năm
đối với từng ngành nghề cụ thể.
Bốn là, công tác quản lý tài chính đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo
phải được thựchiện nghiêm chỉnh theo “luật ngân sách Nhà nước”. Cụ thể:
- Bộ giáo dục đào tạo có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ kế
hoạch và đầu tư trong việc xây dựng, tổng hợp và dự kiến phân phối ngân
sách toàn ngành (cả phần ngân sách dành cho các chương trình mục tiêu) gửi
Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư xem xét cân đối trình Chính phủ, để
Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt.
- Thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong chi tiêu hành chính, sửa
chữa, xây dựng mới.
2.1.1. Giáo dục mầm non.
2002-2003 2003-2004
15
Trường
9.715 10.104
Trẻ em
2.547.430 2.588.837
Giáo viên
134.934 150.335
Từ năm 2002-2004 số lượng trường học, số trẻ em và số lượng giáo
viên trong giáo dục mầm non đều tăng.

2002-2003 2003-2004
Công
lập
Ngoài
công lập
Công
lập
Ngoài
công lập
Trường
3.599 6.116 4.002 6.102
Trẻ em
964.241 1.583.1
89
1.003.2
99
1.585.5
38
Giáo
viên
52.613 93.321 56.706 93.629
Số trường công lập tăng lên; số trường ngoài công lập giảm xuống.
Số trẻ em, số giáo viên công lập và ngoài công lập đều tăng.
Tỷ lệ trẻ em/ giáo viên
2002-2003 2003-2004
Nhà trẻ
9,5 9,5
Mẫu giáo
20,8 20,4
2.1.2. Giáo dục phổ thông.

2002-2003 2003-2004
Trường Học sinh Giáo viên Trường
Học sinh
Trường
14.163 8.841.004 358.606 14.346
8.350.191
16
Học sinh
1.197 6.497.548 262.543 1.139
6.612.099
Cán bộ
giảng
dạy
1.532 2.458.446 89.357 1.685
2.616.207
Số trưòng học, số học sinh và số giáo viên ở cả ba cấp tiểu học, PTCS,
PTTH nhìn chung đều tăng từ năm 2002-2004
2.1.3. Giáo dục trung học chuyên nghiệp.
2002-2003 2003-2004
Trường
268 286
Học sinh
309.807 360.392
Cán bộ giảng dạy
10.247 11.121
Do nhu cầu đòi hỏi lao động kỹ thuật có trình độ chuyên môn, có tay
nghề nên số lượng trường, số học sinh và số cán bộ giảng dạy ở các trường
trung học chuyên nghiệp đều gia tăng. Trong đó số trường công lập chiếm đa
số (238 trường năm 2002-2003).
Cán bộ giảng dạy phân theo trình độ chuyên môn:

2002-2003 2003-2004
Tiến sĩ
53 115
Thạc sĩ
727 1.221
Đại học, cao đẳng
8.336 8.722
THCN 781 753
Trình độ khác
350 310
Cán bộ giảng dạy có trình độ tiến sĩ tăng gấp đôi, trình độ thạc sĩ tăng
trong khi trình độ trung học chuyên nghiệp giảm.
2.1.4. Giáo dục Cao đẳng và Đại học:
2002-2003 2003-2004
17
Trường
121 81 127 87
Sinh
viên
13.933 746.759 231.107 801.333
Giảng
viên
11.215 27.393 11.551 38.434
Hiện nay, giáo dục Việt Nam có hơn 300 giáo sư, hơn 1000 phó giáo
sư. Số trường Đại học, sinh viên và số giảng viên Cao đẳng, Đại học đều tăng.
2.1.5. Giáo dục không chính quy.
2002-2003 2003-2004
Trung tâm giáo
dục thường xuyên tỉnh
57 57

Trung tâm giáo
dục thường xuyên quận
491 499
Trường bổ túc văn
hoá
83 83
Trung tâm học tập
cộng đồng
488 500
2.2. Nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo.
Vốn là điều kiện để đảm bảo mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng
giáo dục - đào tạo. Theo luật giáo dục, các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục -
đào tạo gồm: Ngân sách Nhà nước và các khoản đóng góp, tài trợ của các cá
nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
Bảng 6: Cơ cấu nguồn tài chính cho sự nghiệp giáo dục đào tạo ở
Việt Nam.
Đơn vị: %
18
1993 1994 1995
Tổng nguồn
100 100 100
1. Học phí
23.1 15.7 16.8
2. SX & HĐ
1.3 1.6 1.2
3. Thu khác
3.2 3.3 2.7
4. NS NN cấp
72.4 79.4 79.3
Nguồn: Ngân hàng thế giới năm 1995.

Bảng 7: Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục đào tạo so với GDP.
1995 1996 1997 1998
Đầu tư cho GD - ĐT (tỷ đồng)
8293 9887 11274 13217
GDP (tỷ đồng)
228892 272036 313623 361468
% so GDP 3.62 3.63 3.59 3.66
Nguồn: Niên giám thống kê năm 1998.
Trong các nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục - đầu tư ở Việt Nam thì
nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước là chủ yếu.
19
2.2.1. Đầu tư của ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo.
Thời kỳ 1991 – 1995 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,2%, tỷ lệ động
viên GDP vào ngân sách Nhà nước là 20,5%, Nhà nước đã đầu tư cho giáo
dục - đào tạo trong 5 năm là: 18.188 tỷ đồng, chiếm 9,84% chi ngân sách Nhà
nước. Tốc độ chi giáo dục - đào tạo bình quân hàng năm khoảng 157,1%
trong khi tốc độ tăng chi ngân sách Nhà nước khoảng 146%. Giai đoạn 1991-
1995 so với 1986-1990 ngân sách đầu tư cho giáo dục đào tạo tăng gấp 11,76
lần.
Nguồn ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục - đào tạo trong những
năm gần đây được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 8: Nguồn và cơ cấu chi ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo
dục - đào tạo giai đoạn 1991-1998
Chi cho GD-ĐT
20
N
ăm
Chi
XDCB
Chi

thường
xuyên
Tổng số (tỷ
đồng)
So với
tổng chi NSNN
(%)
19
91
1.256 10,04 10,27 89,73
19
92
2.038 8,60 8,39 91,61
19
93
3.315 8,49 5,61 94,39
19
94
4.874 11,03 7,70 94,30
19
95
6.705 10,70 7,07 94,93
19
96
8.800 12,90 11,36 88,64
19
97
9.970 12,77 12,55 87,45
19
98

11.250 13,89 11,20 88,80
Cho đến năm 2002-2003, chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào
tạo đã tăng lên rất nhiều:
Bảng 9 : Chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo năm 2002-2003
2002 2003
Tổng số
20.624 22.795
Chi cho XDCB 3.008 3.200
Chi thường xuyên
cho giáo dục - đào tạo
16.906 18.625
21
Nguồn vốn chi ngân sách Nhà nước đầu tư là chủ yếu, bên cạnh đó còn
có các nguồn vốn khác đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam.
2.2.2. Đầu tư – Giáo dục - Đào tạo từ nguồn thu học phí.
Nguồn thu học phí có ý nghĩa kinh tế chính trị xã hội sâu sắc: Đối với
nhà trường đó là khoản bù đắp một phần những chi phí quá lớn mà khả
năng ngân sách Nhà nước không đài thọ đủ; đối với Nhà nước là thực hiện
phương châm Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo sự nghiệp giáo dục đào
tạo; đối với xã hội là phát huy trách nhiệm của cộng đồng cho sự nghiệp
“Trồng người” của đất nước.
Ngày nay, xu hướng đầu tư phát triển giáo dục đào tạo đang được
chuyển dần từ khu vực chính phủ sang khu vực tư nhân.
Nguồn thu học phí để tái đầu tư, nếu lấy số lượng học sinh năm 1998
tạm tính với mức học phí trung bình ở các cấp học là: (cấp I không phải
đóng học phí)
- THCS : 5,252,144 học sinh× 90,000 đồng = 472.693 tỷ đồng.
- THPT : 1,390,206 học sinh× (25,000 đồng× 9) = 312.796 tỷ đồng.
- Dạy nghề & THCN: 21,484 học sinh× (100,000 × 10) = 214.842 tỷ
đồng.

- ĐH và CĐ : 671,120 học sinh× (160,000 × 10) = 1,073.792 tỷ đồng.
Như vậy, mỗi một năm tổng tiền học phí thu được là: 2.074 tỷ đồng. Đó
là đối với hệ thống ở trường công lập, còn các trường dân lập, tư thục, bán
công, trung tâm giáo dục thường xuyên, dạy nghề không được quy định về
mức đóng học phí và chế độ chi tiêu thống nhất
2.2.3. Đầu tư – Giáo dục - Đào tạo từ các nguồn khác.
22
Chính phủ khuyến khích sự tham gia tích cực của các cá nhân, tổ chức
trong và ngoài nước nhằm đầu tư phát triển Giáo dục - Đào tạo của Việt Nam.
Bảng 10 : Đầu tư TTNN cho văn hoá, kinh tế Giáo dục ở Việt Nam năm 2003 –
2004
Năm Số dự án
Số vốn đăngký (nghìn USD)
Tổng số Trong đó: Vốn pháp định
1/1- 6/12/2003 18 30495,0 15560,0
1/1-22/7/2004 10 9410,8 5215,0
Nguồn: TC con số và sự kiện.
Khoản viện trợ chính thức (ODA) cũng được coi là một khoản mục có
vai trò đóng góp không nhỏ trong việc bổ xung nguồn vốn cho đầu tư phát
triển Giáo dục - Đào tạo ở nước ta.
Năm
1991 1992 1993 1994 1995
Tổng số
ODA (nghìn $)
8860 12242 18978 57427 37796
Ngoài ra các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cũng đã hợp tác tích
cực và đóng góp không nhỏ vào nguồn vốn đầu tư và phát triển Giáo dục -
Đào tạo ở Việt Nam.
23
3. Kết quả đạt được trong đầu tư phát triển Giáo dục - Đào tạo ở

Việt Nam.
3.1. Giáo dục mầm non và phổ thông.
3.1.1. Về cơ sở vật chất:
Mạng lưới trường lớp còn nhiều khó khăn, song trong 15 năm qua đã
phát triển rộng khắp và đa dạng hoá: các loại hình công lập, bán công, tư
thục. Hiện nay hầu hết các xã phường đều có trường tiểu học và trung học
cơ sở, bình quân mỗi huyện có khoảng hai đến ba trường trung học phổ
thông hoăc phổ thông trung học ( cấp 2, cấp 3).
Tính đến năm học 2000- 2001 cả nước có 8,933 trường giáo dục mầm
non và 87,166 lớp, so với 1986 – 1987 tăng 31.87% về số trường (bình quân
một năm tăng 1.87%) và tăng 38.23% về số lớp (bình quân một năm tăng
2.17%).
Đối với giáo dục phổ thông năm học 2000- 2001 có 24,692 trường phổ
thông từ tiểu học đến trung học với 509,604 lớp, so với 1986 – 1987 tăng
79.2% về số trường, 49.53% về số lớp( bình quân mỗi năm tăng 3.96% số
trường và 2.72% số lớp). Từ năm học 1995 – 1996, giáo dục phổ thông loại
hình ngoài công lập phát triển mạnh, đến nay cả nước có 691 trường với
19,775 lớp, tăng 78.9% số trường và 75.77% số lớp học, so với 1986 –
1987( Bình quân mỗi năm tăng 3.96% số trường và 3.84% số lớp). Tuy nhiên
tốc độ phát triển trường học, lớp học có sự khác biệt rất lớn. Năm 2000 –
2001 so với 1986 – 1987 số lớp học bậc tiểu học tăng 33.12%, bậc trung học
cơ sở tăng 78.69%, bậc trung học phổ thông tăng 143.19%; tương ứng bình
quân một năm tăng 1.92% số lớp bậc tiểu học, 3.96% bậc trung học cơ sở,
6.1% trung học phổ thông.
24
Số trường phổ thông dân tộc nội trú năm 1999 – 2000 cả nước có 344
trường phổ thông dân tộc nội trú. Số phòng phổ thông bình quân năm tăng từ
50,000 đến 60,000 phòng học. Tuy nhiên tốc độ phát triển phòng học hàng
năm so với tốc độ phát triển qui mô học sinh chưa đáp ứng đủ nhu cầu nên tỷ
lệ lớp trên phòng học chung cả nước ở cả ba cấp học là 1.5; chất lượng phòng

học phổ thông còn nhiều khó khăn: hiện cò 283,742 phòng học là nhà cấp bốn
trở lên chiếm 83.83% tổng số phòng học cả nước, trong đó cấp tiểu học có
168,725 phòng chiếm 60% tổng số phòng của cấp học này
3.1.2. Về đội ngũ giáo viên:
Cùng với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đội ngũ giáo viên ở các
ngành học mầm non, phổ thông phát triển khá nhanh cả về số lượng và chất
lượng theo hướng chuẩn hoá.
Năm 2000 – 2001 so với năm 1986 – 1987, số giáo viên mẫu giáo có
103,306 người, tăng 47.35%( bình quân mỗi năm tăng 2.6%). Tỷ lệ giáo viên
mẫu giáo đạt chuẩn đào tạo trên 30%, tương ứng số giáo viên phổ thông có
661,748 người, tăng 55.29% (bình quân mỗi năm tăng 2.55%), bậc trung học
cơ sở có 233,834 người tăng 63.87% ( bình quân mỗi năm tăng 3.35%), trung
học phổ thông có 71,971 người tăng 80.79% ( bình quân mỗi năm tăng
4.02%). Tuy nhiên trước sự phát triển về qui mô học sinh phổ thông các cấp
thì mức độ đào tạo, cung cấp giáo viên tương ứng chưa đáp ứng được nhu
cầu, đặc biệt là giáo viên trung học phổ thông ở các tỉnh miền núi, vùng sâu,
vùng xa. Tình trạng thiếu giáo viên trực tiếp giảng dạy ở tất cả các cấp phổ
thông theo định mức tại Quyết định 243 QĐ\CP của chính phủ vẫn liên tục
xảy ra trong giai đoạn 1986 – 2000. Theo thống kê năm 1999 – 2000 cả nước
25

×