Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đồng Chí.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.75 KB, 12 trang )

ĐỒNG CHÍ
1.MB: (giới thiệu tác phẩm,tác giả,đoạn trích,vấn đề nghị luận)
2.TB:
a. KQ: - Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống
Pháp. Phần lớn các sáng tác của ơng đều viết về người lính và chiến tranh với lời
thơ đặc sắc, cảm xúc dồn nén.
- Tác phẩm: ra đời năm 1948, “Đồng chí” là một trong những tác phẩm hay nhất
của Chính Hữu.
Bài thơ diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí thiêng liêng, gắn bó thời kì đầu cuộc
kháng chiến
b. Phân tích
1. Tình đồng chí, đồng đội của anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp.
- Chính Hữu viết bài thơ “Đồng chí” khi cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc
đang ở giai đoạn đầu. Bộ đội và nhân dân phải sống trong thời kì hết sức khó khăn,
gian khổ.Từ trải nghiệm chân thực về những gian khổ và cả những ấm á pthiêng
liêng của tình đồng đội, bài thơ là lời ca về hình ảnh người lính vệ quốc giản dị mà
cao q và tình đồng chí thân thiết, sâu nặng giữa những ngày gian khổ ấy.
- Ngay từ những câu thơ mở đầu, nhà thơ lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí
thắm thiết, sâu nặng của “anh” và “tơi”, của người lính và người lính:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ
lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ. Thành ngữ“nước mặn đồng chua” và
hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” cho thấy tình đồng chí đồng đội bắt nguồn sâu xa từ
sự tương đồng cùng cảnh ngộ. Họ là những người nông dân áo vải, ra đi từ miền
quê nghèo, lam lũ của mọi miền Tổ quốc và gặp gỡ nhau ở tình yêu đất nước lớn
lao. Cũng như giọng thơ, ngôn ngữ thơ ở đây là ngôn ngữ của đời sống dân dã,
mộc mạc:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
Họ không hề quen biết nhau nhưng đã cùng gắn bó bằng mối tình đồng đội trong


hồn cảnh chiến đấu:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ”.
Hình ảnh sóng đơi “súng bên súng”,”đầu sát bên đầu” và giọng điệu thơ trở nên tha
thiết, trầm lắng thể hiện sự gắn bó của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu.
Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc,các anh đã cùng tập hợp dưới quân
kỳ, kề vai sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện lí tưởng cao đẹp, để cùng
chung nhau cái giá lạnh mùa đông. Từ hiện thực khốc liệt của hồn cảnh sống, tình


đồng đội nảy nở và trở nên bền chặt trong sự chan hịa, sẻ chia mọi gian lao thiếu
thốn. Đó là mối tình tri kỉ của những người đồng đội:
Đồng đội ta
Là hớp nước uống chung
Là nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau chỗ đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời,chia nhau cái chết”.
( “Giá từng thước đất” – Chính Hữu).
Có thể nói, từ tình giai cấp, tình đồng đội, tình bạn bè tri kỉ, họ đã trở thành đồng
chí của nhau. Từ “Đồng chí” được đặt riêng thành một dòng thơ, ngắn gọn mà
ngân vang như lời nói thiết tha, chân thành, khẳng định giá trị chân thực của tình
đồng chí. “Đồng chí” - ấy là điểm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp – tình
bạn, tình người trong chiến tranh.
Hai tiếng “Đồng chí” bởi vậy mà giản dị, đẹp đẽ, sáng ngời và thiêng liêng.
- Tình đồng chí của người lính cịn được biểu hiện thật đẹp trong tâm tư,
trong đời sống chiến đấu. Đồng chí trước hết là sự thấu hiểu và sẻ chia những
tâm tư , nỗi lòng của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Ra đi vì nghĩa lớn, các anh để lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao băn khoăn,
trăn trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh, ta bắt gặp một sự thay đổi lớn lao trong
quan niệm của người ra lính: ruộng nương tạm gửi bạn thân cày, gian nhà khơng
mặc cho gió lung lay. Họ đã tạm gạt những trăn trở, riêng tư để kiên quyết ra đi khi
mục đích rõ ràng, lý
tưởng đã chọn lựa.Song, dù dứt khốt, mạnh mẽ lên đường thì những người nơng
dân mặc áo lính hiền lành, chân chất ấy vẫn rất nặng lịng với q hương. Hình ảnh
hốn dụ mang tính chất nhân hóa “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” càng tơ
đậm sự gắn bó, u thương của người lính đốivới quê nhà. “Giếng nước gốc đa
nhớ người ra lính” hay chính là tấm lịng củangười ra đi không nguôi nhớ về quê
hương. Ba câu thơ với “ruộng nương”, “gian nhà”, “gốc đa”… hình ảnh nào cũng
thân thương, cũng ăm ắp một tình quê, ăm ắp nỗi nhớ vơi đầy. Phải chăng, tình
nhà, tình quê là điểm tựa tinh thần tạo nên sức mạnh để cỗ vũ những người lính?
-Tình đồng chí cịn là sự “đồng cam cộng khổ”, sự sẻ chia những gian lao,
thiếu thốn của cuộc đời chiến sĩ:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai


Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân khơng giày”
Bằng những câu thơ tả thực, nhà thơ đưa người đọc trở lại với những hiện thực
gian khổ của buổi đầu kháng chiến. “Anh” với “tôi” cùng nhau chịu đứng những
cơn sốt rét, cùng nhau sẻ chia những trang phục ít ỏi: “áo rách”,”quần vá”,”chân
không giày”. Ý thơ của Chính Hữu gợi nhớ những câu thơ của Hồng Nguyên cũng
viết về người lính trong kháng chiến qua bài “Nhớ”:

“Lột sắt đường tàu
Rèn thêm đao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh”
Từ những gian khổ, thiếu thốn đó, họ thấm thía hơn tình đồng chí, đồng đội:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” Nhịp thơ đã có sự thay đổi, ý thơ trải rộng, câu
thơ gợi nhiều hơn tả. “Tay nắm lấy bàn tay” của người lính cùng hình ảnh “miệng
cười buốt giá” nơi chiến trường như một lời động viên, an ủi, như truyền cho nhau
hơi ấm của tình đồng chí, như tiếp thêm sức mạnh và ý chiến đấu, như một lời hứa
hẹn lập công. Cái nắm tay ấy là biểu tượng đẹp đẽ của tình đồng đội. Hơi ấm từ hai
bàn tay như lan tỏa, như làm sáng ấm cả bài thơ. Đúng là “tay trong tay ta trao
nhau tất cả”. “Bàn tay biết nói” là thế!
- Bài thơ khép lại với bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội, là biểu tượng
cao đẹp về cuộc đời người chiến sĩ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Đêm khuya, nơi rừng hoang, dưới làn sương muối, những người lính đứng cạnh
bên nhau phục kích chờ giặc. Nổi bật trên cảnh rừng đêm giá rét là ba hình ảnh gắn
kết: khẩu súng – vầng trăng – người lính. Sức mạnh của tình đồng chí đã giúp họ
vượt lên những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ,thiếu thốn. Trong những
đêm phục kích chờ giặc, họ đã phát hiện ra hình ảnh”Đầu súng trăng treo”. Hình
ảnh rất thực và lãng mạn mang ý nghĩa biểu tượng gợi nhiều liên tưởng phong phú:
súng và trăng là gần và xa, là thực tại và mơ mộng;súng là biểu tượng của chiến
tranh, trăng là biểu tượng của hịa bình; chất chiến đấu và chất trữ tình; chiến sĩ và
thi sĩ… Hai hình ảnh tưởng như đối lập song lại bổ sung, hài hòa với nhau làm đẹp
thêm cuộc đời người lính cách mạng.Các anh chắc tay súng để bảo vệ vầng trăng
hịa bình. Hình ảnh thơ thật đẹp và ý nghĩa biết bao! Có thể nói, đây là một sự phát
hiện, một sáng tạo bất ngờ của tác giả, góp phần nâng cao giá trị bài thơ và trở
thành nhan đề cho cả tập thơ.

=> Tình đồng chí là tình cảm vơ cùng thiêng liêng, là cội nguồn sức mạnh giúp
người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp “khoét núi, ngủ hầm,mưa


dầm, cơm vắt” làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Tình
đồng chí ấy được phát huy và thể hiện sức mạnh qua hình ảnh anh giải phóng quân
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ để làm nên đại thắng mùa xuân 1975. Các anh,
những người lính cách mạng – anh bộ đội cụ Hồ và tình đồng chí cao đẹp mãi mãi
l
2. Hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp trong bài thơ “Đồng chí”
của Chính Hữu.
- Giới thiệu vài nét
về nhà thơ Chính Hữu
- Giới thiệu về bài
thơ “Đồng chí”
- Giới thiệu vấn đề nghị luận

a. Người lính giản
dị, mộc mạc…

- Họ là những
người nơng dân

- Chính Hữu là nhà thơ qn đội hoạt
động trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp. Thơ ông hầu như chỉ
viết về người lính và chiến tranh
- Bài thơ “Đồng chí” được ơng viết năm
1948,in trong tập “Đầu
súng trăng treo”.

- Đến với bài thơ, người đọc cảm phục
và yêu q người lính cách
mạng thời kì đầu cuộc kháng chiến
chống Pháp
- Đọc bài thơ, cảm nhận đầu tiên của
chúng ta là hình ảnh người
lính hiện lên rất chân thực như cuộc
sống còn nhiều vất vả và lo
toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực
họ bước thẳng vào trang thơ,
trong cái mơi trường quen thuộc bình dị
thường thấy ở làng quê đất
Việt:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng
nói hằng ngày của người dân
quê. Tác giả tuy khơng chỉ đích danh,
bản qn nơi cư ngụ từng
người, song ta bắt gặp thành ngữ quen
thuộc “nước mặn đồng
chua” và “đất cày lên sỏi đá” thể hiện rõ
nhất nguồn gốc xuất thân
của những người lính. Họ đến từ mọi


b. Họ cùng chung
lí tưởng, mục đích
chiến đấu.


miền Tổ quốc, từ những vùng
đồng bằng châu thổ quanh năm ngập lụt
đến vùng đồi núi trung du
khô cằn sỏi đá. Quê hương xa cách
nhau, mỗi người mỗi nơi nhưng
giống nhau ở cái nghèo, sự lam lũ, khó
nhọc của người dân quê
Việt Nam. Chính sự đồng cảnh ấy đã
khiến họ xích lại gần nhau, để
từ những người xa lạ, họ tập hợp lại
trong hàng ngũ cách mạng và
trở thành quen biết, thân thiết với nhau:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Những hình ảnh thơ rất thực nhưng
cũng đầy sức gợi. Câu thơ
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu” là câu
thơ giàu ý nghĩa. Điệp từ
“bên” cùng nghệ thuật sóng đơi có tác
dụng khẳng định sự gắn bó
khăng khít giữa những người lính. Họ
cùng chung nhiệm vụ chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc “súng bên sung”,
cùng chung lí tưởng, suy nghĩ
“đầu sát bên đầu”. Dù gian khổ đến đâu,
dù nguy hiểm, sóng gió
đến nhường nào, các anh vẫn trung
thành với con đường của mình
đã chọn. Đọc câu thơ, ta không nhận ra
“anh” và “tôi” nữa mà họ
đã trở thành “những anh”, “những tơi”

nhịa đi sau những khẩu
súng,những mái đầu.
-> Thì ra cuộc kháng chiến chống Pháp
đã trở thành cuộc “gặp gỡ”
của bao người yêu nước. Mới đây thơi,
họ đã “Rũ bùn đứng dậy
sáng lịa” làm cuộc cách mạng tháng
Tám thành công. Giờ đây họ
lại sát cánh bên nhau thề “Quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh”. Chính


c. Ý chí nghị lực
phi thường, vượt
lên gian khó.

d. Tình đồng chí,
đồng đội…

lí tưởng chung của thời đại đã gắn kết
họ với nhau trong hàng ngũ
quân đội cách mạng.
- Ở nơi chiến trường đầy khói bom
thuốc súng, người chiến sĩ phải
chống chọi với cái rét:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”
Cái rét ở rừng già Việt Bắc đã nhiều lần
vào trong thơ bộ đội chống
Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm
trải trong những năm chinh

chiến ấy:
“ Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế
Gió qua rừng đèo Khế gió sang.
Đêm mưa rình giặc tai thao thức
Mùa lại mùa qua rét nhức xương.
( Tố Hữu – “Lên Tây Bắc”)
- Nhưng câu thơ của Chính Hữu nói đến
cái rét gợi cho người đọc
một cảm giác ấm cúng của tình đồng
đội, nghĩa đồng bào. Cái hay
của nhà thơ là đã biết đem “đêm rét
chung chăn” vào bài thơ, sưởi
ấm mối tình đồng chí lên thành mức độ
tri kỉ. Những người lính đến
với nhau nhẹ nhàng, bình dị, vừa có cái
chung của lí tưởng lớn, vừa
có cái riêng của một đơi bạn ý hợp tâm
đầu. Và cứ giản dị như thế,
những con người cùng chung gian khó
ấy trở thành đồng chí của
nhau:
Đồng chí!
- Câu thơ chỉ có hai tiếng và kết thúc
bằng dấu chấm than tạo một
nốt nhấn, vang lên như một sự phát
hiện, lời khẳng định. Đồng thời
như một chiếc bản lề khép mở sự lí giải
cội nguồn của tình đồng chí
ở sáu câu thơ trước với những biểu hiện,



e. Tình u q
hương, đất nước
của người lính

- Thái độ ra đi cứu

sức mạnh của tình đồng
chí trong những câu thơ tiếp theo của
bài thơ.
=> Nếu coi bài thơ như một cơ thể sống
thì hai tiếng “Đồng chí”
như một trái tim hồng ni sống cả bài
thơ. Nó có sức vang dội và
ngân nga mãi trong lòng người đọc.
=> Tám mươi năm nơ lệ nay mới được
gọi nhau là đồng chí sung
sướng và kiêu hãnh biết bao! Từ nay
tình cảm gì cũng phải nâng lên
thành tình đồng chí, phải đo bằng tình
đồng chí. Tình cảm cao đẹp
này đã trở thành nguồn cảm hứng lớn
nhất, dồi dào nhất của thơ ca
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
sau này.
=> Chính Hữu đã có lời nhận xét:
“Những năm đầu cách mạng từ
“đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và
máu thịt vơ cùng. Nơi khó
khăn, cuộc sống của người này trở nên

cần thiết với người kia. Một
người có thể thay thế cho gia đình, cho
cha mẹ, vợ con đối với một
người khác. Hơn nữa, họ còn bảo vệ
nhau trước mũi súng của kẻ
thù, cùng nhau đi qua cái chết, chống lại
cái chết, cùng nhau thực
hiện một lí tưởng cách mạng. Đó là ý
nghĩa thiêng liêng của tình
đồng chí bấy giờ”.
- Những người lính, những đồng chí ấy
ra đi chiến đấu với tinh thần
tự nguyện:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
- Từ bao đời nay, ai cũng biết rằng


nước dứt khoát,
kiên quyết

- Nỗi nhớ quê
hương

ruộng nương và nhà cửa là
những tài sản quý giá nhất đối với người
nông dân vì họ phải tốn
biết bao mồ hơi nước mắt mới có được.
Cho nên họ vơ cùng gắn bó

sâu nặng, gìn giữ, trân trọng với những
thứ của cải ấy.Vậy mà họ
lại dễ dàng gạt bỏ lại sau lưng, lên
đường theo tiếng gọi của quê
hương, đất nước. Từ “mặc kệ” mộc mạc
như cách nói của người dân quê vang
lên, ẩn chứa một thái độ ra đi kiên
quyết, dứt khoát,
mạnh mẽ vào chốn sa trường vì họ hiểu
rằng: nước nhà chưa yên,
thì gia đình họ, cuộc sống ở chốn làng
q cũng khơng thể yên
được. Bỏ lại chuyện riêng tư như người
trí thức thành thị “xếp bút
nghiên lên đường”, họ sẵn sàng hi sinh
cho dân tộc. Ai ngờ những
người nông dân quê mùa, hiền lành như
hạt lúa, củ khoai, cả đời chỉ
biết cầm cày gieo lên mầm xanh, nhân
lên sự sống cho quê hương
đất nước lại dễ dàng từ bỏ xóm làng đến
thế! Các anh đã biết đặt
tình cảm chung lên tình cảm cá nhân,
đặt tình yêu nước lên trên tình
cảm gia đình. Hai tiếng “mặc kệ” khơng
phải hiểu theo nghĩa phó
mặc mà trong ngơn ngữ giản dị của
người lính là “Cứ chờ đó, cách
mạng thành cơng mọi chuyện sẽ làm lại
sau”. Đó mới chính là ngơn

ngữ, là ý tưởng mà họ muốn thể hiện
trong hành động “dứt áo” ra
đi của mình.
- Vì thế quê hương luôn khiến họ trào
dâng nỗi nhớ:


h. Càng gian khó,
họ càng yêu
thương nhau

“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
- Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa,
bến nước, sân đình trong ca
dao xưa nhưng vẫn thật mới mẻ trong
thơ Chính Hữu. Biện pháp
nghệ thuật hoán dụ “Giếng nước gốc
đa” gợi ta nhớ tới nơi hò hẹn
của những người dân quê, nhắc đến
những kỉ niệm một thời gắn bó
trên mảnh đất quê hương. Song hai hình
ảnh này cịn được nhân
hóa. Nói “Giếng nước gốc đa nhớ người
ra lính” hay chính là tấm
lịng của người ra đi không nguôi nhớ
về quê hương. “Giếng nước
gốc đá” cồn cào đến chừng nào! Đời
sống tình cảm của họ với làng
q da diết vơ cùng. Bao tình cảm sâu
nặng như đều dồn tụ trong

tiếng “nhớ” giản dị ấy!
=> Song, góc nhớ thương đó khơng làm
cho các anh mềm lịng, mất
đi ý chí cứu nước mà nó thơi thúc, động
viên người lính nơng dân
bền gan vững chí, cầm chắc tay súng lập
cơng. Bởi lẽ nước nhà sớm
độc lập thì các anh mới sớm được trở về
với quê hương, xóm
làng…
- Đọc bài thơ, chúng ta cịn cảm phục
người lính nơng dân ở tinh
thần vượt khó, vượt khổ:
“Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân khơng giày”
- Địa bàn chiến đấu của người lính thời
kì lúc bấy giờ ở nơi rừng


thiêng nước độc, chướng khí âm u nên
hầu như người lính nào cũng
bị mắc căn bệnh sốt rét ác tính. Căn
bệnh quái ác này làm cho họ
tóc rụng da xanh, gầy cịm yếu ớt, thậm
chí tử vong nữa. Ai đã từng
nói: “Đánh trận tử vọng ít, sót rét tử

vong nhiều”.
- Nhưng đó khơng phải là gian khổ duy
nhất mà người lính phải trải
qua. Họ cịn phải chịu đựng cái lạnh giá,
trong khi qn phục lại khơng đủ đầy:
người lính thường xuyên phải mặc “áo
rách”, “quần
vá” và “chân không giày”. Vậy mà họ
vẫn không một lời kêu ca,
không một tiếng phàn nàn, một lời than
thở…
=> Từ một dân tộc nô lệ với gậy tầm
vong giáo mác, chúng ta vùng
lên chọi lại xe tăng đại bác của kẻ thù.
Trong cuộc chiến đấu một
mất một còn này, anh bộ đội là người
trực tiếp chịu đựng biết bao
gian khổ. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, đọc
lại những vần thơ của Chính
Hữu mấy ai mà không cầm được nước
mắt, mấy ai không thán phục
sức chịu đựng phi thường của các anh.
- Viết về hiện thực cuộc sống của người
lính nơng dân, Chính Hữu
khơng phải định kể khổ để làm bài thơ
trở nên bi thảm, lòng người
bi quan mà chỉ để ngợi ca người lính: họ
biết đồng cam cộng khổ:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất

lính. Hai tiếng “Thương
nhau” đặt lên đầu câu khiến cho nhịp
thơ như lắng lại. “Thương”


chứ khơng phải là “u”. Trong
“Thương” khơng chỉ có tình u
mà cịn có cả sự cảm thơng, xót xa cho
nhau. Chính trong tâm thế
đó, người lính tìm đến nhau trong cái
nắm tay tình nghĩa.
+ Đó là cái nắm tay thân mật, thắm
thiết, siết chặt tình đồng chí keo
sơn, truyền cho nhau hơi ấm để giúp
đồng đội vượt qua cái giá lạnh
nơi núi rừng cũng là cái nắm tay truyền
ý chí chiến đấu, truyền
ngọn lửa tình cách mạng. Cái bắt tay âm
thầm lặng lẽ khơng ồn ào,
khơng cần lời nói hoa mĩ, họ trao nhau
hơi ấm từ lòng bàn tay, hơi
ấm từ trái tim, vì họ đã hiểu rõ lịng
nhau, vì họ “thương nhau”. Hơi
ấm lan tỏa cả hai người, làm hai người
nở một nụ cười, dù là “buốt
giá”.
+ Đây là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh
bất diệt của người lính Việt
Nam trong kháng chiến. Những người
nông dân vốn chỉ lo “cơi cút

làm ăn” ( Nguyễn Đình Chiểu), quanh
năm gắn bó với ruộng đồng, con trâu…
Nhưng tình yêu quê hương lên tiếng
giục giã họ cất bước lên đường. Những
gian khổ là nhiều, những hi sinh là
khơng ít, nhưng tình u Tổ quốc và
tình đồng chí thiêng liêng cao đẹp đã
tiếp thêm sức mạnh để người lính vượt
qua những khó khăn thử thách đó, để họ
vững tay súng, hồn thành nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc. Ba câu kết khắc họa thật
đẹp bức chân dung của người lính trong
một đêm canh gác ở rừng:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới


Đầu súng trăng treo.”
- Ba câu thơ ngắn là sự kết tinh tình
đồng chí. Giữa nơi chiến
trường khốc liệt, thiên nhiên khắc nghiệt
( “rừng hoang”, “sương muối”) hình ảnh
những người lính kề vai nhau ngời sáng
đẹp biết bao! Họ truyền cho nhau hơi
ấm sức mạnh và niềm tin để thực hiện
nhiệm vụ giữ gìn Tổ quốc. Có thể nói
chính hồn cảnh khắc nghiệt của núi
rừng hoang lạnh, hiểm nguy lại là nơi
thử thách tình đồng




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×