Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM TRONG TRẠNG THÁI BÌNH THƯỜNG MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.94 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH DOANH
KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING

TIỂU LUẬN
KINH TẾ VĨ MÔ
Giảng viên: Trần Bá Thọ
Mã lớp học phần: 22D1ECO50100232
Sinh viên: Phạm Nguyễn Hồng Ngọc - 31211023310
Lâm Ý Như - 31211024660
Vũ Lê Tường Vi - 31211023315
Khóa – Lớp: Khóa 47 – KQ004.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 19, tháng 03, năm 2022

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................2
CHƯƠNG 1: TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH BỆNH COVID-19 ĐẾN LAO ĐỘNG
VÀ VIỆC LÀM KHU VỰC PHÍA NAM.............................................................2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM TRONG TRẠNG
THÁI BÌNH THƯỜNG MỚI ..............................................................................8
1. Tình hình lao động và việc làm...................................................................8
2. Nhu cầu tuyển dụng tăng cao....................................................................13
3. Lao động - việc làm 2022 và giai đoạn tiếp theo......................................14
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HỖ TRỢ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG TRẠNG
THÁI BÌNH THƯỜNG MỚI.............................................................................16
PHẦN KẾT LUẬN...........................................................................................20


Tài liệu tham khảo..............................................................................................20

1

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


PHẦN MỞ ĐẦU
Tình hình dịch Covid-19 kéo dài đã làm trì trệ và ảnh hưởng đến nhiều
mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Nó khơng chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và đe
dọa tính mạng của con người mà còn đem lại nhiều tổn thất nặng nề cho nền
kinh tế. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa phải ngừng hoạt động do không đủ vốn
để chống chọi với nhiều tháng liền giãn cách, những doanh nghiệp khác thì
khơng được phép hoạt động do không đủ khả năng tổ chức “3 tại chỗ”, làm việc
an tồn mùa dịch. Khơng chỉ người dân bị thất nghiệp, các doanh nghiệp cũng
không đủ người làm do phải cắt giảm chi phí và lao động về quê tránh dịch. Ở
các tỉnh và đồng bằng phía Nam-vốn là nơi có các hoạt động kinh tế sôi nổi,
không chỉ các khu công nghiệp bị tác động mạnh, việc trồng hoa màu cũng bị
ảnh hưởng do thiếu nhân lực, cửa khẩu vận chuyển đóng cửa khiến tổng sản
phẩm quốc nội giảm. Để giải quyết tình trạng đó, Đảng và Nhà nước đã đưa ra
nhiều giải pháp giúp ổn định, giúp người dân vừa sống chung với dịch, tự bảo
vệ sức khỏe bản thân, vừa hoạt động xã hội bình thường trở lại hướng tới “bình
thường mới”. Trong đề tài này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về tình hình lao động
và việc làm của khu vực phía Nam (TP.HCM, Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông
Cửu Long) trong trạng thái bình thường mới ấy.
CHƯƠNG 1: TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH BỆNH COVID-19 ĐẾN LAO
ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM KHU VỰC PHÍA NAM.
Từ khi xuất hiện kể từ cuối năm 2019 cho đến nay, dịch bệnh Covid-19
đã và vẫn đang là nguyên nhân gây khủng hoảng nghiêm trọng đến sức khỏe
cũng như tính mạng con người. Khơng dừng lại ở đó, đại dịch lần này còn ảnh

hưởng gián tiếp và cả trực tiếp đến mọi mặt đời sống của toàn nhân loại, làm

2

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


cho mọi hoạt động sinh hoạt, xã hội dường như bị trì trệ đi. Trong đó phải đặc
biệt kể đến nền kinh tế tồn cầu.
Vì là vấn đề tồn cầu nên nền kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi bị
đại dịch tác động đến. Theo thống kê của Bộ Y tế, kể từ khi dịch bệnh xâm nhập
vào nước ta thì cho đến nay Việt Nam đã trải qua bốn đợt bùng phát dịch
nghiêm trọng. Trong đó làn sóng dịch thứ 4 tại Việt Nam kéo dài liên tục từ cuối
tháng 4/2021 đến cả các tháng cuối năm 2021, được xem là giai đoạn bùng phát
mạnh nhất, mang theo sự xuất hiện của biến chủng mới là Delta, biến chủng này
đã thay đổi mọi thứ do tốc độ lây lan nhanh và nguy hiểm.
Tại Việt Nam, dịch tấn công chủ yếu vào các khu cơng nghiệp, đây là nơi
có mật độ dân cư cao do đó số ca nhiễm tăng lên nhanh chóng trong thời gian
ngắn, gây áp lực lớn cho toàn bộ hệ thống y tế trong bối cảnh năng lực hệ thống
y tế, nhất là y tế cơ sở còn gặp nhiều hạn chế; đồng thời nguồn nhân lực, trang
thiết bị vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống nhiều người mắc nên xảy ra
quá tải cục bộ, dẫn đến số tử vong tăng cao.
Dịch bệnh với đa nguồn lây, đa chủng, đa ổ bệnh đã làm nhiều tỉnh, thành
phố phải tăng cường giãn cách xã hội, áp dụng các biện pháp chưa có trong tiền
lệ trong thời gian dài, trên phạm vi rộng nhằm kiểm sốt tình hình dịch bệnh đã
vơ tình ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đến sức khỏe, đời sống nhân dân và phát
triển kinh tế-xã hội của quốc gia.
Thêm việc chưa hiểu rõ về biến chủng Delta, chưa dự báo được tính chất
nguy hiểm và lây lan nhanh nên cơng tác phịng, chống dịch thời gian đầu còn
bị động, lúng túng ở các cấp, các ngành; chưa linh hoạt điều chỉnh các biện

pháp sao cho phù hợp, hiệu quả, nhất là khi dịch bùng phát tại TP. Hồ Chí Minh
và một số tỉnh, thành phố khu vực phía Nam.
( />3

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


Sự kiện bùng phát dịch lần ấy đã khiến nền kinh tế của cả nước nói chung
và đặc biệt các khu vực ở phía Nam nói riêng phải hứng chịu nhiều tác động
tiêu cực, cụ thể hơn là cân bằng cung - cầu của thị trường lao động, việc làm ở
các địa phương này bị ảnh hưởng sâu sắc.
Theo Tổ cơng tác đặc biệt phịng, chống dịch COVID-19 của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội tại các tỉnh phía Nam, đợt dịch COVID-19 lần
thứ 4 đã ảnh hưởng lớn đến thị trường lao động và người lao động tự do tại 19
tỉnh, thành phố phía Nam. Thống kê tính được đến cuối tháng 08/2021, tại các
tỉnh, thành phía Nam đã có gần 2,5 triệu lao động trong các doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất kinh doanh phải ngừng việc, chiếm 70% số lao động phải ngừng việc
của cả nước.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương có số doanh
nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh đạt kỷ lục trong giai đoạn 2016 – 2020 với
hơn 23.000 doanh nghiệp, hơn 625.000 người lao động ở các quận, huyện,
thành phố Thủ Đức và các khu chế xuất, khu công nghiệp ở thành phố bị mất
việc, ngừng việc.
Bình Dương cùng là địa phương nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm
phía Nam như Thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh có 50.000 doanh nghiệp với hơn
1,2 triệu lao động đến từ hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước. Theo kết quả
khảo sát từ Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Bình Dương, cho đến đầu quý
II/2021, thị trường lao động tại tỉnh vẫn trong tình trạng thiếu lao động. Để đáp
ứng nhu cầu sản xuất các doanh nghiệp đã triển khai nhiều biện pháp, hình thức
tuyển lao động. Nhưng, diễn biến phức tạp của đợt dịch COVID-19 lần thứ 4 đã

khiến việc tuyển dụng của các doanh nghiệp càng gặp khó khăn, đồng thời gây
nên tình trạng thất nghiệp dài ngày cho những lao động nghỉ việc hoặc về quê
tránh dịch khi áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trên toàn tỉnh.

4

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


Cũng trong tình trạng tương tự, tại Đồng bằng sơng Cửu Long, đợt bùng
phát dịch COVID-19 lần thứ 4 cũng tác động mạnh đến cả cung và cầu lao động
ở khu vực này. Ông Nguyễn Phương Lam - Giám đốc Phịng Thương mại và
Cơng nghiệp Việt Nam Chi nhánh tại Cần Thơ cho biết: Sự bùng phát của dịch
COVID-19 lần thứ 4 trong 3 tháng 6, 7 và tháng 8 đã làm cho gần 10.000 doanh
nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long phải rút khỏi thị trường. Cũng từ tháng 6
đến hết tháng 08/2021, đã có gần 90% doanh nghiệp trong khu vực đã tạm
ngưng hoạt động. Điều này đồng nghĩa với số lượng lớn người lao động rơi vào
tình trạng phải nghỉ việc, khơng có việc làm.
( />fbclid=IwAR3gTlv6IijDltUTqP1HcD20HnfHTnEWOBoJ_TwdJmHwWyG8Pu3
VVKdAYxU)
Về lao động - việc làm
Biến thể Delta của virus corona đã tác động nặng nề đến thị trường lao
động Việt Nam trong quý III năm 2021. Đông Nam Bộ là vùng chịu tác động
nghiêm trọng nhất.
Chỉ tính riêng trong quý III năm 2021, cả nước có hơn 28,2 triệu người từ
15 tuổi trở lên hứng chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 khiến họ bị
mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập,
… So với quý trước đó, số lao động chịu tác động xấu bởi đại dịch Covid-19
trong quý III tăng thêm 15,4 triê ̣u người. Hầu hết những người bị ảnh hưởng
nằm trong độ tuổi lao động, từ 25 đến 54 tuổi, chiếm 73,3% tổng số lao động

chịu ảnh hưởng.
Trong tổng số hơn 28,2 triệu người bị tác động tiêu cực bởi dịch Covid19, có 4,7 triệu người bị mất việc, chiếm 16,5%; 14,7 triệu người phải tạm
nghỉ/tạm ngừng sản xuất kinh doanh, chiếm 51,1%; 12,0 triệu người bị cắt giảm
5

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


giờ làm hoặc buộc phải nghỉ giãn việc, nghỉ luân phiên, chiếm 42,7% và 18,9
triệu lao động bị giảm thu nhập, chiếm 67,2%.
Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là hai vùng bị ảnh hưởng
nặng nề nhất. Số người lao động ở hai vùng này cho biết công việc của họ chịu
tác động tiêu cực bởi đại dịch chiếm tỷ lệ cao nhất, lần lượt là 59,1% và 44,7%.
Con số này ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên thấp hơn
nhiều, lần lượt là 17,4% và 19,7%.
Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực chia theo vùng
kinh tế-xã hội, quý III năm 2021

Đơn vị tính: %

Cũng trong cơn bão đại dịch, Đông Nam Bộ là vùng chứng kiến sự sụt
giảm mạnh nhất về tỷ lệ người tham gia lực lượng lao động, với 62,8% (giảm
7,9 điểm phần trăm so với quý trước và cùng kỳ năm trước), tiếp theo đó là
Đồng bằng sơng Cửu Long với 65,4% (giảm lần lượt so với quý trước và cùng
kỳ năm trước là 3,3 điểm phần trăm và 5,4 điểm phần trăm) và Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trung với 66,8% (lần lượt giảm 2,2 điểm phần trăm so với quý
trước và 4,0 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).
Lực lượng lao động các quý, năm 2020 và 2021

6


Downloaded by MAI ??I CÁT ()


Đơn vị tính: Triệu người

Phải thừa nhận rằng dịch Covid-19 trong quý III năm 2021 đã ảnh hưởng
đến việc làm ở hầu hết các vùng, đặc biệt ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng
sông Cửu Long. Trong quý III năm 2021, số người có việc làm của vùng Đơng
Nam Bộ là 8,7 triệu người, giảm 1,5 triệu người (giảm tương ứng 14,5%) so với
quý trước và giảm 1,3 triệu người (giảm tương ứng 13,0%) so với cùng kỳ năm
trước; số có việc làm vùng Đồng bằng sơng Cửu Long là 8,4 triệu người, giảm
763 nghìn người (tương ứng giảm 8,3%) so với quý trước và giảm 925 nghìn
người (tương ứng giảm 9,9%) so với cùng kỳ năm trước. Các vùng khác số lao
động có việc làm giảm dưới 4%, riêng vùng Tây Nguyên số người có việc làm
gần như khơng thay đổi so với q trước.
Đồng thời làn sóng dịch Covid-19 cũng đã làm tỷ lệ và số người lao động
thiếu việc làm trong quý III năm 2021 tăng cao bất thường, đặc biệt là ở Thành
phố Hồ Chí Minh.
( />
7

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


Để giảm thiểu tình trạng đó và hỗ trợ người dân thích nghi với trạng thái bình
thường mới, nhiều biện pháp hỗ trợ người lao động cần được áp dụng để ổn
định tình hình kinh tế - chính trị.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM TRONG
TRẠNG THÁI BÌNH THƯỜNG MỚI .

1. Tình hình lao động và việc làm.
Trải qua thời gian đại dịch covid kéo dài, cùng với những tác động kinh tế cụ
thể là về vấn đề lao động và việc làm to lớn thì nước ta đã được đưa vào trạng
thái bình thường mới. Các hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp công ty ở
nhiều địa phương đang dần hoạt động trở lại và tiếp tục tăng tốc để thích ứng
với hồn cảnh hiện tại. Trong đó, nhiều tỉnh thành ghi nhận trên 90% doanh
nghiệp đã hoạt động trở lại, khôi phục chuỗi sản xuất. Cụ thể:
Tỉnh Bình Dương: hầu hết các khu cơng nghiệp trong tỉnh, các doanh
nghiệp đã hoạt động sản xuất sôi động trở lại. Các cơng ty, doanh nghiệp đã
nhanh chóng, tích cực xây dựng lại hoạt động kinh doanh sản xuất và bảo đảm
an tồn phịng chống dịch để phục hồi cũng như lấy đà phát triển kinh tế thích
nghi với trạng thái bình thường mới.. Gần 2.000 doanh nghiệp trong các khu
cơng nghiệp đã sản xuất hoạt động bình thường, đạt trên 96%, số lượng lao
động trở lại làm việc là 373.000 người, đạt 76,38%. Chưa thiếu hụt lao động
trầm trọng.
Tỉnh Long An: Cho đến ngày 18/11/2021, ước tính có trên 91% doanh
nghiệp đã hoạt động lại với khoảng 330.000 lao động (tồn tỉnh có 13.590
doanh nghiệp đăng ký thành lập). Trong đó, khoảng 3.435 doanh nghiệp ngành
sản xuất với 263.166 lao động,.Khoảng 4.000 doanh nghiệp ngành kinh doanh
dịch vụ hàng hóa thiết yếu với khoảng 57.800 lao động.
Tỉnh Bạc Liêu: Tình hình dịch tại nhiều địa phương ở tỉnh đã giảm
xuống, nên doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn các xã cấp độ

8

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


dịch cấp độ 1, cấp độ 2 được phép hoạt động bình thường. Doanh nghiêp, cơ sở
sản xuất, kinh doanh tại các địa phương cấp độ dịch cấp 3, cấp 4 người đã khỏi

bệnh Covid-19, người được tiêm đủ 02 liều vắc xin hoặc người đã tiêm 01 liều
vắc xin trên 14 ngày thì mới tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong
trường hợp người được tiêm 01 liều vắc xin dưới 14 ngày thì chỉ được tham gia
hoạt động theo phương án “03 tại chỗ”, còn lại những người chưa tiêm vắc xin
thì khơng được tham gia hoạt động.
Tỉnh Sóc Trăng: Có 312 doanh nghiệp hoạt động sản xuất cơng nghiệp
với tổng số 48.694 lao động. Trong đó, Khu cơng nghiệp An Nghiệp có 47
doanh nghiệp hoạt động với 22.000 lao động; ngồi khu cơng nghiệp có 265
doanh nghiệp hoạt động với 26.694 lao động. Hoạt động sản xuất công nghiệp
từng bước được phục hồi, các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp An nghiệp
đã phục hồi sản xuất đạt 84% và các doanh nghiệp ngồi khu cơng nghiệp đạt
54,4% cơng suất. Đến nay đã có 135 doanh nghiệp hoạt động với 33.034 lao
động chiếm 67,8% lao động toàn ngành.
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu: Hiện có 23 doanh nghiệp đang hoạt động
(trong đó, bao gồm 03 doanh nghiệp chủ đầu tư hạ tầng: Công ty Cổ phần
Đầu tư và Xây dựng Tân Phước Thịnh; Công ty IZICO và Công ty Cổ phần Phú
Mỹ) đã tổ chức xét nghiệm Covid-19 theo định kỳ cho người lao động đạt 67,54
% (4.867/7.206 lao động). 20/23 DN hoạt động động sản xuất kinh doanh trong
CCN đã hoàn thiện kế hoạch và bản cam kết giữ vững an tồn phịng, chống
dịch Covid-19 để duy trì hoạt động sản xuất.
Tỉnh Đồng Tháp: Số doanh nghiệp đang hoạt động được UBND cấp
huyện phê duyệt là 264/431 doanh nghiệp (tăng 04 doanh nghiệp so với ngày
hôm qua), với lao động là 46.365/54.116. Số doanh nghiệp thực hiện theo
phương án 1 cung đường 2 điểm đến: 138/264 doanh nghiệp, với .544 46. 65 lao
động. Số doanh nghiệp thực hiện phương án 3 tại chỗ: 67/264 DN với

9

Downloaded by MAI ??I CÁT ()



10.824/46.365 lao động; Số doanh nghiệp thực hiện đồng thời phương án:
59/264 DN với 12.997/46.365 lao động.
Thành phố Cần Thơ: Tính đến ngày 17/11/2021 có 984 (tương đương
84,25%) doanh nghiệp sản xuất đã hoạt động trở lại. Còn lại 184 doanh nghiệp
chưa xây dựng Kế hoạch tái hoạt động sản xuất (tương đương 15,75%). Tổng số
lao động hiện có là 78.710, trong đó số lao động đang làm việc trong các doanh
nghiệp là 51.340, tương đương 65,23% lao động; Số lao động đang tạm nghỉ là
27.370 tương đương 34,77%.
Tỉnh Đồng Nai:
Trong Khu công nghiệp: Số doanh nghiệp phục hồi hoạt động sản xuất từ
ngày 08/11/2021 - 12/11/2021 là 24 doanh nghiệp; số lao động làm việc trở
lại là 2.667 người. Lũy kế đến ngày 12/11/2021, tổng số doanh nghiệp
đang hoạt động là 1.685/1.705 (đạt tỷ lệ 99%) với tổng số lao động đang làm
việc là 539.859/614.873 người (đạt tỷ lệ 88%). Số dự án vẫn đang tạm ngưng
hoạt động là 20 dự án, tổng số lao động chưa làm việc là 75.014 người.
Ngồi Khu cơng nghiệp: Số doanh nghiệp phục hồi hoạt động sản xuất từ
ngày 08/11 - 12/11/2021 là 31 doanh nghiệp; số lao động làm việc trở lại là
3.451 người. Lũy kế đến ngày 12/11/2021, tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động ngoài KCN là 401 cơ sở với tổng số lao động đang làm việc là 72.685
người. Trong đó, số doanh nghiệp có số lao động trên 100 lao động (thuộc thẩm
quyền chấp thuận của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội) đăng ký hoạt
động lại sau Chỉ thị 20/CT-UBND là 209/254 doanh nghiệp (đạt tỷ lệ 82,3%),
63.970/98.897 lao động (đạt tỷ lệ 64,7%). Số doanh nghiệp có số lao động dưới
100 lao động được UBND các huyện, thành phố phê duyệt là 192 doanh nghiệp,
8.715 lao động.
Tỉnh Bến Tre: có 3.841 doanh nghiệp đang hoạt động với 92.067 lao
động (đạt tỷ lệ 89%/Tổng số doanh nghiệp hoạt động), 46.072 hộ kinh doanh
với 82.902 lao động (đạt tỷ lệ 93,1%/Tổng số hộ kinh doanh hoạt động); trong


10

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


đó có: 05 doanh nghiệp hoạt động theo phương án “3 tại chỗ” với 300 lao động,
3.836 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong tình hình mới với
91.767 lao động.
Hiện nay, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang từng bước hoạt động
sản xuất, kinh doanh trở lại trong tình hình mới. Trong đó doanh nghiệp ngành
may hoạt động ổn định trong tình hình mới, tuy nhiên chi phí hàng hóa đầu vào
tăng từ 10-30% và đang bị thiếu hụt nguồn lao động. Các hoạt động hỗ trợ
doanh nghiệp đầu tư ứng dụng máy móc thiết bị, phát triển sản xuất kinh doanh
đang được tập trung triển khai thực hiện.
Đối với các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp: Tổng số doanh nghiệp
trong Khu công nghiệp là 170, trong đó số doanh nghiệp đang hoạt động là 124
doanh nghiệp, 46 doanh nghiệp chưa xây dựng Kế hoạch tái hoạt động sản xuất,
tương đương 27,06%. Tổng số lao động hiện có là 45.681, trong đó số lao động
đang làm việc trong các doanh nghiệp là 28.570, tương đương 62,54%; Số lao
động đang tạm nghỉ là 17.111 lao động, tương đương 37,46%.
Đối với các doanh nghiệp ngồi khu cơng nghiệp: Hiện có 860/998 doanh
nghiệp đang hoạt động, chiếm 86,17% (khơng tăng so với ngày 16/11 và tăng
650 doanh nghiệp so với thời điểm 18/10), với tổng số lao động là
22.770/33.029 lao động, chiếm 68,94%.
/>fbclid=IwAR3Ol69Tana3VFUx_FPfnXbhqKz60OLQLIlTsbWZRFYOSvW4f5
F4J1jk_Go
Thứ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội - Đồng chí Lê Văn Thanh,
cho biết sự kéo dài và nguy hiểm của dịch bệnh COVID-19 khiến cho một
lượng lớn lao động dịch chuyển từ thành thị về nông thôn, từ các trung tâm kinh
tế lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương về các tỉnh lẻ để tránh dịch.

Thời gian qua đã có khoảng 1,3 triệu lao động từ Thành phố Hồ Chí Minh và

11

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


các tỉnh trọng điểm phía Nam về các địa phương. Tuy nhiên, qua khảo sát tại
các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm cho thấy có sự thiếu hụt lao động
xảy ra khơng nhiều vì các cơng ty, doanh nghiệp chưa hoàn toàn trở lại hoạt
động 100%, hiện chỉ có khoảng 70-75% doanh nghiệp, 50-60% lượng lao động
so với trạng thái bình thường. Mặt khác nhiều doanh nghiệp đã có chính sách
giữ chân lao động, thường xun giữ mối liên hệ với người lao động nên mức
độ thiếu hụt lao động không đáng kể.
Mặc dù vào khoảng thời gian này thiếu hụt lao động chưa xảy ra trầm trọng do
các doanh nghiệp chưa hoạt động sản xuất trở lại 100% nhưng dự đốn sự thiếu
hụt này có thể tăng vào những tháng đầu của năm 2022 khi các doanh nghiệp
được hoạt động trở lại hồn tồn thì nhu cầu tuyển dụng lao động sẽ tăng cao.
Bởi lẽ bắt đầu từ tháng 1-2022 là thời điểm mà nhu cầu hàng hóa chuẩn bị cho
Tết Nguyên đán rất cao, cần sử dụng nhiều lao động để phục hồi sản xuất, đặc
biệt ở các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Dự kiến trong năm 2022, số
lao động có nhu cầu tuyển dụng khoảng 700.000 người.
Đồng chí Lê Minh Tấn, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
TP. Hồ Chí Minh cho hay, qua nắm bắt nhu cầu tuyển dụng của các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp trong các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu
công nghệ cao; cho thấy nhu cầu nhân lực quý IV-2021 cần khoảng 57.000 lao
động. Trong đó, nhu cầu lao động tại các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu
công nghiệp gần 30.000 người tập trung: 13,851 người trong các ngành giày da,
may mặc; 3.935 người trong ngành cơ khí; 2.248 người trong ngành điện-điện
tử; 2.796 người trong chế biến thực phẩm,1.005 người trong ngành bao bì …

“Quý I-2022 vừa rơi vào thời điểm đón Tết Nguyên đán, vừa là thời điểm
hằng năm các doanh nghiệp cần tuyển nhiều lao động để bổ sung lực lượng lao
động chuyển đổi việc làm hoặc người lao động về quê chưa quay trở lại sau Tết.
Nếu tình hình dịch bệnh tiếp tục được kiểm sốt tốt nhất, tác động tích cực đến
phát triển kinh tế-xã hội, dự kiến nhu cầu nhân lực quý II-2022 cần khoảng

12

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


75.000 chỗ làm việc cho việc phát triển và mở rộng quy mơ sản xuất, kinh
doanh,” đồng chí Lê Minh Tấn cho hay.
/>2. Nhu cầu tuyển dụng tăng cao.
Trở lại trạng thái bình thường mới, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh đã khởi động phục hồi sản xuất dẫn đến nhu cầu tuyển dụng tăng
cao đặc biệt là Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh. Thị trường lao động
trên địa bàn đang dần “ấm” lại sau hơn 3 tháng “ngủ đơng” do tác động của dịch
bệnh COVID-19.
Tình trạng thiếu lao động phổ thông để giải quyết các đơn hàng cuối năm
xảy ra ở hầu hết các doanh nghiệp sản xuất. Đặc biệt, các doanh nghiệp ngành
gỗ, da giày, điện tử quy mơ lớn có nhu cầu từ vài trăm đến vài nghìn lao động
phổ thơng. Doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần từ 10-100 lao động.
Thống kê từ Trung tâm dịch vụ việc làm tỉnh Bình Dương cho thấy, càng về gần
thời điểm cuối năm, doanh nghiệp càng khẩn trương hơn trong việc tìm kiếm
nguồn lao động. Bởi vì Tết đến, nhu cầu hàng hóa của người dân càng nhiều.
Từ đầu tháng 10 đến nay, gần 450 doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng, đăng
ký tuyển với tổng số gần 20.300 lao động mới được gửi đến các trung tâm đăng
ký việc làm
Theo Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai, sau khi tỉnh công

bố nới lỏng giãn cách, nhiều công ty, doanh nghiệp đã bắt tay tăng tốc thực hiện
lại sản xuất để đảm bảo các đơn hàng, phục hồi chuỗi sản xuất sau thời gian bị
đình trệ bởi dịch COVID-19. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp cũng đang có
nhu cầu tuyển thêm lao động để đáp ứng nhịp độ sản xuất đang trên đà phục
hồi.

13

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


Theo bà Trần Thị Thùy Trâm, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh
Đồng Nai, ngay tại sàn giao dịch việc làm trực tuyến được đơn vị tổ chức vào
cuối tháng 11, đã có 35 doanh nghiệp đăng ký tuyển dụng với tổng cộng trên
12.000 lao động; trong đó, các doanh nghiệp ngành may mặc, da giày, sản phẩm
gỗ, dịch vụ có nhu cầu tuyển dụng lượng lớn lao động.
3. Lao động - việc làm 2022 và giai đoạn tiếp theo.
Sau khi thực hiện “bình thường mới” cuối năm 2021 thì nền kinh tế của
ta đang dần hồi phục, các doanh nghiệp đa số hoạt động lại vì thế lao động và
việc làm cũng chiếm tỷ lệ khá cao. Nhưng đến đầu năm 2022 thì biến chủng
mới xuất hiện, khả năng nhiễm bệnh và lây lan cao hơn. Vì vậy dù vẫn đang
trong trạng thái bình thường mới, số người lao động bị nhiễm covid ngày càng
nhiều.
Theo nhiều chuyên gia và nhà khoa học, với lượng vaccine được cam kết sẽ
được tiêm cho người dân trong quý III và quý IV/2021 cũng như những nỗ lực
toàn ngành y tế và hệ thống chính trị trong việc cố gắng đẩy nhanh tốc độ tiêm
chủng ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước, thì mục tiêu mở cửa lại và khôi
phục hoạt động kinh tế vào đầu quý II/2022 là khả thi.. Khi đó, một câu hỏi đặt
ra là: liệu thị trường lao động Việt Nam, cụ thể là các tỉnh miền Nam và đồng
bằng sông Cửu Long có rơi vào tình trạng thiếu hụt lao động như nhiều nước

trên thế giới không?
Khi thị trường lao động sôi nổi, hoạt động 100% trở lại, khả năng kết nối
cung - cầu lao động của thị trường sẽ tiếp tục là vấn đề đáng chú ý cho các cơ
quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và cả người lao động. Thơng tin của thị
trường lao động hiện nay chưa có sự kết nối, đồng bộ và thống nhất giữa các địa
phương. Vì thế gây khó khăn cho cả người lao động, doanh nghiệp và cả hệ
thống Trung tâm Dịch vụ việc làm các tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Cung và
cầu không đáp ứng kịp thời gây nên thiếu hụt lao động.

14

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


Khi dịch bệnh kéo dài, diễn biến phức tạp và các doanh nghiệp buộc phải
thu nhỏ quy mô nên lượng lao động cần ít đi. Vì vậy một lượng lớn người lao
động bị sa thải, thôi việc hoặc tạm dừng việc chờ tình hình tốt hơn sẽ di chuyển
về quê nhà khỏi khu vực thành thị, để giảm và tránh sức ép về tài chính và khả
năng nhiễm bệnh. Câu chuyện hơn 10 nghìn lao động ở thành phố Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Bình Dương lũ lượt về q Nghệ An, Hà Tĩnh trong những
ngày gần đây là một thí dụ điển hình. Sự kiện này cùng với tâm lý e ngại, không
sẵn sàng quay trở lại nơi làm việc ngay sau khi dịch được kiểm soát sẽ kéo theo
nguy cơ thiếu hụt lao động ở thành thị và các khu công nghiệp, khu chế xuất khi
phục hồi sản xuất. Động lực lớn nhất để họ quay trở lại nơi làm việc là khả năng
tìm được cơng việc có chế độ lương cao hơn và đảm bảo an toàn về sức khỏe.
Khi dịch bệnh kéo dài, một bộ phận người lao động, do áp lực về tài
chính hoặc từ những dự định trước đó, đã chuyển hướng sang một số việc làm
tự do đang khá phổ biến như buôn bán trực tuyến, kinh doanh nhỏ lẻ, làm các
công việc trên internet, sản xuất hàng thủ công, hoặc theo đuổi mô hình kinh tế
hộ gia đình. Cụ thể, trong giai đoạn giãn cách xã hội do dịch Covid-19, số lượng

lao động tự sản tự tiêu tăng cao nhất, ở mức 4,2 triệu người. Và trong 6 tháng
đầu năm 2021, cả nước đã có 67.083 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới - cao
nhất tính theo giai đoạn 6 tháng đầu năm từ trước đến nay. Do đó dẫn đến tình
trạng thiếu nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, công ty.
Ảnh hưởng của dịch Covid-19 có thể tác động khơng đồng đều đến các
nhóm lao động khác nhau. Cụ thể, lao động có trình độ tay nghề ở mức thấp,
chưa qua đào tạo, lao động trên 35 tuổi làm các công việc gia cơng, lắp ráp địi
hỏi độ chính xác cao là những đối tượng dễ bị tổn thương khi dịch bệnh bùng
phát do nguy cơ mất việc cao. Theo đại diện của Tổng Liên đồn Lao động Việt
Nam, tình trạng lao động “có tuổi”, tức là ngồi 35 tuổi, bị sa thải tại các khu
công nghiệp, khu chế xuất đã được phát hiện từ nhiều năm nay. Những lao động
này, đặc biệt là nữ giới, thường sẽ rất khó tìm được cơng việc tương đương mới
nếu bị mất việc. Tình trạng này có nguy cơ trầm trọng hơn trong dịch bệnh. Và
15

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


khi đại dịch qua đi, chắc chắn sẽ có sự đột biến về số lượng lao động trên 35
tuổi, lao động trình độ thấp khơng có việc làm.
/>CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HỖ TRỢ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG
TRẠNG THÁI BÌNH THƯỜNG MỚI.
Các doanh nghiệp rời khỏi thị trường lao động là một trong những
nguyên nhân lượng cầu lao động giảm khiến một số lao động có khoảng thời
gian “khó khăn đi tìm việc mới”, những thay đổi đột ngột có thể khiến họ bối
rối và khơng biết nơi để tìm việc. Trong thời đại khoa học và công nghệ phát
triển tân tiến, chính quyền địa phương nên áp dụng số hóa thị trường để việc
quản lý người lao động thêm dễ dàng và hiệu quả, chính quyền nên kết hợp với
các công ty, nắm bắt số lượng nhân lực công ty cịn thiếu để cung cấp thơng tin
cho người lao động ứng tuyển. Ngoài ra, nếu xét thấy người lao động đã nộp

một số hồ sơ nhưng vẫn chưa xin được việc làm thì có thể xem xét các gói hỗ
trợ phù hợp.
Theo thống kê của chính phủ về tình hình kinh tế và xã hội quý 4 và năm
2021: “Tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường trong năm
2021 đạt gần 160 nghìn doanh nghiệp, giảm 10,7% so với năm 2020; 119,8
nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 17,8%, trong đó phần lớn là
các doanh nghiệp thành lập dưới 5 năm, quy mô vốn nhỏ.” ( theo Thơng cáo báo
chí về tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2021. (2021). Truy xuất từ:
). Hỗ trợ doanh nghiệp
cũng là một biện pháp gián tiếp hỗ trợ người lao động trong trạng thái bình
thường mới. Các chương trình hỗ trợ vay vốn, kéo dài thời gian đáo hạn, giảm
lãi suất giúp doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể thích
ứng và “sống sót” hoặc “hồi sinh”, hỗ trợ ổn định thị trường lao động.
16

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


Bên cạnh đó, chăm lo đời sống cho người lao động, giúp họ yên tâm “an cư lạc
nghiệp”, “Bình Dương đã xây dựng nhà ở xã hội, đáp ứng chỗ ở cho trên
180.000 lao động. Tuy nhiên, các dự án nhà ở này vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu
của lượng lớn người lao động, nhất là lao động ngoại tỉnh. Thời gian tới, tỉnh
tạo mọi điều kiện về đất đai, vị trí xây dựng, cùng với Tổng Liên đồn Lao động
Việt Nam tiếp tục xây dựng nhà ở giúp người lao động thực sự an cư, yên tâm
gắn bó lâu dài tại Bình Dương.” ( theo Thanh Trà - Minh Hưng, Phục hồi thị
trường lao động trong trạng thái bình thường mới. (2021). Truy xuất từ:
). Ưu tiên tiêm vắc-xin cho công nhân, hỗ trợ chỗ ở, cho
người lao động tham gia các hoạt động thể dục vừa tăng cường sức khỏe vừa
thư giãn đặc biệt là tăng năng suất lao động.
Hỗ trợ người lao động trong trạng thái bình thường mới khơng chỉ là

những nỗ lực đến từ phía Chính phủ và chính quyền địa phương mà cịn từ phía
các doanh nghiệp. Tuy bình thường mới nhưng có nhiều lao động chưa thích
nghi, chưa kịp trở lại nhịp sống thường nhật, chưa quay lại nơi làm việc do lo
ngại tình hình dịch bệnh, lúc này, doanh nghiệp nên chủ động lưu giữ các
phương thức liên lạc như thông qua số điện thoại, Internet hoặc địa chỉ để đến
nhà động viên công nhân yên tâm làm việc. Doanh nghiệp tổ chức chương trình
vui chơi giải trí như rút thăm trúng thưởng để khuyến khích người lao động.
Thêm vào đó, có thể thơng qua “truyền miệng” của người lao động để có thêm
cơng nhân vào các vị trí hiện đang cịn trống.
Nơng sản là mặt hàng xuất khẩu nổi trội trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam nhiều năm gần đây. Đặc biệt, phía nam là vùng nhiệt đới gió mùa
nóng thích hợp trồng nhiều loại nơng sản nhiệt đới, hằng năm đóng góp một
phần khơng nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Kể từ đầu tháng 7, khi
thành phố Hồ Chí Minh và 19 tỉnh thành phía Nam thực hiện giãn cách theo Chỉ
thị 16 thì hoạt động nơng nghiệp đã có nhiều ảnh hưởng nặng nề. Không chỉ giá
17

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


phân bón tăng cao làm tăng chi phí sản xuất mà còn thiếu nhân lực lao động do
dịch bệnh, cách ly và thực hiện 3 tại chỗ theo yêu cầu của Chính phủ. Vì thiếu
nhân lực mà nơng sản bị chín quá nên phải “bán tống bán tháo” trong thời gian
ngắn hoặc khơng kịp bán, bao cơng sức chăm bón ngày đêm của người nông
dân bị “đổ sông đổ biển”. Lại thêm một số chợ đầu mối và cửa khẩu giáp ranh
biên giới bị đóng hoặc tăng cường phịng dịch nên tình hình càng khó khăn hơn.
Do đó, chính quyền nên áp dụng nới lỏng giãn cách, tuyên truyền cho người dân
không tụ tập quá đông và đứng quá gần nhau, khơng nên ngăn sơng cấm chợ
gây khó khăn cho bà con. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ kết nối, xúc tiến
thương mại, mở các điểm trung chuyển các chợ đầu mối để đưa hoạt động mua

bán trở lại như bình thường. Bên cạnh đó, có thể khuyến khích những lao động
trồng đa dạng các loại cây trồng, rau củ để tạo thêm nhiều sự lựa chọn, hạn chế
tổn thất ở mức thấp nhất.
Trong trạng thái bình thường mới, song song với tình hình dịch Covid thì
một sự kiện khơng thể nào khơng nhắc đến là tình trạng căng thẳng giữa Nga và
Ukraine. Những lệnh trừng phạt toàn diện của Mỹ và các nước đồng minh nhằm
vào nền kinh tế Nga, bên cạnh việc tạo ra tác động tiêu cực lên giá của một số
hàng hóa, xăng dầu thì còn tạo ra cơ hội để Việt Nam hợp tác phát triển kinh tế.
Việt Nam là một quốc gia theo đuổi chính sách trung lập, khơng tham gia vào
các liên minh quân sự, nước ta có thể hợp tác xuất khẩu lương thực sang cả Nga
và Châu Âu, tạo ra việc làm ổn định cho người lao động, giúp chuỗi cung ứng
và tiêu thụ lương thực không bị đứt gãy.
Kêu gọi đầu tư nước ngồi khơng chỉ nâng cao cơ sở hạ tầng, chuyển
giao cơng nghệ mà cịn tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, nâng cao tay
nghề và giúp họ có tiền lương cao hơn.
Trong khi các địa phương đang dần trở về trạng thái bình thường mới,
ngồi nỗ lực của chính quyền, doanh nghiệp, cần có sự chung tay của toàn xã

18

Downloaded by MAI ??I CÁT ()


hội để hỗ trợ người lao động. Tuyên truyền nhận thức cho người lao động để họ
có thể làm việc an toàn, thực hiện 5K: khẩu trang, khử khuẩn, khoảng cách,
không tập trung, khai báo y tế để giữ an toàn lao động.
Kêu gọi hỗ trợ từ mạnh thường quân để có khoản ngân sách giúp đỡ cho
người lao động trong giai đoạn đầu của trạng thái bình thường mới. Theo thơng
cáo báo chí của Chính phủ, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý IV năm 2021
là 67,7%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý IV năm

2021 là 26,1% (theo thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm q IV năm
2021 và chỉ số phát triển con người Việt Nam 2016-2020. (2022). Truy xuất từ
( ). Vậy tức phần đơng lực lượng lao động là chưa
qua đào tạo có bằng cấp, do đó họ có lương thấp hơn và kém ổn định, mà một
trong những mối quan tâm hàng đầu với những người làm cha mẹ là việc học
của con cái. Nhờ nguồn kinh phí hỗ trợ đó, chính quyền và nhà trường có thể
dùng để giảm bớt chi phí học tập cho học sinh sinh viên - vốn là một gánh nặng
không nhỏ với các bậc phụ huynh. Hành động vơ cùng thiết thực đó khơng chỉ
giúp người lao động mà còn giúp các em học sinh - những chủ nhân tương lai
của đất nước có thể vơ tư đến trường, việc học không dang dở, mà học tập
không dang dở nghĩa là nâng cao kiến thức, nâng cao trình độ, góp phần xây
dựng nước nhà.
Để hỗ trợ người lao động, không nên chỉ bằng các biện pháp mềm dẻo và
khuyến khích mà nên đưa ra các chính sách bắt buộc để ngăn cản những thành
phần “vô ý thức” làm phiền người khác. Những biện pháp mạnh, mang tính răn
đe, xử phạt những cá nhân khơng tn thủ là vơ cùng cần thiết. Chính quyền địa
phương nên phạt cảnh cáo những doanh nghiệp không tạo môi trường an toàn
cho người lao động, gây ra dịch bệnh lây lan khắp nơi thành ổ dịch, khi những
doanh nghiệp vẫn tiếp tục tái phạm thì xem xét xử phạt bằng các biện pháp
19

Downloaded by MAI ??I CÁT ()



×